Nghiên cứu về kỹ năng tự học của sinh viên

Nghiên cứu về kỹ năng tự học của sinh viên

Loading Preview

Sorry, preview is currently unavailable. You can download the paper by clicking the button above.

PHẦN MỞ ĐẦUTự học là hình thức học tập không thể thiếu được của sinh viên đang học tập tại các trường đại học. Tổ chức hoạt động tự học một cách hợp lý, khoa học, có chất lượng, hiệu quả là trách nhiệm không chỉ ở người học mà còn là sự nghiệp đào tạo của nhà trường. Nhưng liệu tất cả sinh viên đã nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề tự học hay chưa? Và nếu có thì họ đã có phương pháp tự học đúng cách hay hiệu quả phương pháp tự học của họ còn thấp? Những vấn đề khó khăn gì họ gặp phải trong quá trình tự học của mình? chính vì thế qua đề tài: “ nghiên cứu vấn đề tự học của sinh viên trường Đại học Công Nghiệp TP.HCM Cơ sở 3” em muốn được tìm hiểu và nghiên cứu sâu hơn về vấn đề tự học của sinh viên hiện nay. Nội dung bài nghiên cứu gồm 5 chương:Chương 1: tổng quan về vấn đề tự học của sinh viênChương 2: cơ sở lý luậnChương 3: mô hình nghiên cứuChương 4: thực trạng và kết quả nghiên cứuChương 5 : kết luận và các đề xuất 1Chương 1:TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ TỰ HỌC CỦA SINH VIÊN1.1.Cơ sở hình thành đề tài Quan sát hàng ngày, thấy rằng một bộ phận sinh viên học tập bây giờ thật đáng suy nghĩ. Rất ít khi trong lớp có đủ mặt sĩ số tham gia học tập. Và trong số ấy lại không ít sinh viên lơ là nghe giảng hoặc tham gia trong các hoạt động dạy và học một cách cho có lệ, hoặc là nghe đấy nhưng đầu óc lại đang nghĩ tận đâu đâu. Phải chăng là họ đang say sưa với thành tích đã vượt qua được nhiều người để bước vào cổng trường đại học và đã mãn nguyện lắm rồi? Vì thế nào họ cũng tốt nghiệp ra trường và sẽ thành danh. Một quan niệm nữa cũng trở thành “tập quán” trong sinh viên là đã qua được học phần nào thì xếp gọn lại sách vở môn đó và xóa sạch “băng” đã ghi nhớ trong đầu. Rất hiếm sinh viên khi học xong, thi xong học phần còn giữ lại bài, bài ghi môn học. Chính vì vậy, hơn bao giờ hết, việc tự học của sinh viên với ý nghĩa có trách nhiệm đối với chính bản thân họ phải được coi là mấu chốt, là động lực thôi thúc họ, thậm chí trở thành vấn đề nóng bỏng trong học tập theo hệ thống tín chỉ hiện nay. Với việc học tập theo học chế tín chỉ, rất nhiều sinh viên còn bỡ ngỡ vì rằng trong suốt những năm học phổ thông, phần lớn đã quen với phương pháp học thụ động, lối học vẹt, tiếp nhận kiến thức qua hệ thống sách giáo khoa và từ các thầy, cô giáo. Do đó, khi bước vào học đại học không ít em ban đầu thụ động hoang mang. Đối với sinh viên năm thứ nhất phải có ngay khả năng tự học, tự nghiên cứu là điều vô cùng khó khăn và trở thành áp lực lớn đối với các em nhưng vẫn cứ phải làm quen và chấp nhận. Đối với sinh viên sư phạm thì tính mô phạm là rất cần thiết, là “khuôn vàng thước ngọc” trong con mắt của học sinh sau này. Do đó, đòi hỏi các em phải nghiêm khắc với bản thân, mặc dầu với bao bộn bề của sự phức tạp hôm nay đang thách thức các em.Trong điều kiện đào tạo theo hệ thống tín chỉ hiện nay thì tự học được đặt lên hàng đầu quan trọng. Thầy cô là người hướng dẫn, trò là người thi công và sản phẩm làm ra lại được định hình chính trong “bàn tay thi công” của trò. Thiết nghĩ, ở một mức độ nào đó, thì giáo trình là trung tâm, còn người dạy lẫn người học cùng khai phá tri thức và lĩnh hội tri thức. 2 Chính vì lẽ ấy mà cả thầy lẫn trò phải có hứng thú tìm tòi, học hỏi, khám phá và biết vượt qua những khó khăn trở ngại để tiếp cận tri thức của nhân loại. Tự học là vô cùng quan trọng vì nó khai thác triệt để thời gian nhàn rỗi trong sinh viên và sinh viên có thể xoáy sâu nghiền ngẫm những điều thầy cô hướng dẫn, giảng giải trên lớp. Điều đáng quan tâm là tự học sẽ rèn luyện khả năng nghiên cứu, tiếp cận tri thức. Ngày nay, tiếp cận tri thức là phải xử lý thông tin. Xử lý thông tin một cách đúng đắn, sáng tạo trong môi trường thông tin đa chiều xen lẫn sự phức tạp và động cơ của người đưa tin là điều chẳng dễ dàng gì. Muốn có tri thức thì không thể không tiếp cận thông tin. Muốn nâng cao chất lượng đào tạo, một điều không thể quan tâm là sinh viên phải chủ động tự học, coi tự học là vấn đề bức thiết, nếu có ý thức tự học thì sẽ tạo thành thói quen cố hữu của con người trong suốt cuộc đời. Suốt thời gian học tập ở trường đại học, nhà trường không thể trang bị đầy đủ moi tri thức hành trang cho các em đi suốt cuộc đời mà chỉ trang bị những tri thức cơ bản, những đường nét cơ bản để khi ra trường, nó trở thành nền tảng tri thức chứ không hẳn đã là cẩm nang nhất thành bất biến trong suốt cuộc đời các em. Phải coi tự học như là nhu cầu nội tại vươn lên làm chủ tri thức để làm việc và chủ động hơn trong cuộc sống của sinh viên sau này - trong điều kiện nhiều môn học không giảm số lượng và mức độ của tri thức, thậm chí tăng lên đồng thuận với yêu cầu của xã hội ngày càng khắt khe đối với việc tuyển dụng nhân lực. Tự học phải là tự mình học ở mọi nơi, mọi lúc với điều kiện nhất định. Ở trên lớp, ở nhà, ở Thư viện hay khi “lướt sóng” trên mạng đều là quá trình tiếp cận tri thức, xử lý thông tin để chắt lọc những thông tin có ích và biến thành tri thức của mình.1.2. Mục tiêu nghiên cứu Tìm hiểu những kiến thức căn bản nhất về vấn đề tự học của sinh viên. Nêu rõ được nội dung của hoạt động tự học gồm mấy vấn đề, để tiếp cận nó phải tuân thủ theo qui trình nào, điều kiện để áp dụng có hiệu quả các yêu cầu ra sao…. Tìm hiểu tầm quan trọng của vấn đề tự học , và làm thế nào để nâng cao tinh thần tự học của sinh viên. 31.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Các bạn sinh viên học theo hệ tín chỉ tại trường đại học công nghiệp cơ sở 3 tại Thanh HóaĐề tài được thực hiện trong khoảng thời gian từ 15/9 – 26/10/20131.4. Phương pháp nghiên cứu 1.4.1. Dữ liệu sơ cấp và phương pháp thu thậpTrực tiếp thu thập tại các sinh viên trong trường, điều tra, thu thập và xử lý nó để phục vụ cho việc nghiên cứu của mìnhĐược thu thập bằng các phương pháp như sau: phương pháp quan sát: quan sát trực tiếp việc tự học của sinh viên trong thư viện trường, tại các phòng học, trong khuôn viên trường và cả trên ký túc xá.Quan sát gián tiếp kết quả học tập của các bạn sinh viên để biết mức độ nắm vững kiến thức của sinh viên như thế nào? Và có nhờ vào phương pháp tự học hay là tiếp thu tại lớp. Phương pháp phỏng vấn qua mạng internet như mail và facebook:Gửi bảng câu hỏi đã soạn sẵn qua mail hoặc facebook cho những bạn sinh viên trong trường Đh Công nghiệp TPHCM cơ sở 3 mà ở xa hoặc không thể phỏng vấn trực tiếp được Phương pháp phỏng vấn cá nhân trực tiếpĐến gặp trực tiếp các bạn sinh viên trong trường những bạn trong lớp, gần ký túc xá, những bạn gặp tại thư viện để phỏng vấn theo bảng câu hỏi đã soạn sẵn1.4.2. Dữ liệu thứ cấp và phương pháp thu thậpĐược thu thập thông qua mạng internet và một số giáo trình, nghị quyết. Nghị quyết Trung ương V khóa 8 từng nêu rõ: “ Tập trung sức nâng cao chất lượng dạy và học, tạo ra năng lực tự học, tự sáng tạo của học sinh, Bảo đảm mọi điều kiện và thời gian tự học cho học sinh, phát triển mạnh mẽ phong. Trên tinh thần ấy, rõ ràng Đảng ta đã coi tự học, tự đào tạo là vấn đề mấu chốt có vị trí cực kì quan trọng trong chiến lược giáo dục - đào tạo của đất nước trao tự học, tự đào tạo thường xuyên và rộng khắp trong toàn dân”.Trong tập bài giảng chuyên đề Dạy tự học cho SV trong các nhà trường trung học chuyên nghiệp và Cao đẳng, Đại học GS – TSKH Thái Duy Tuyên viết: “Tự học là hoạt động độc lập chiếm lĩnh kiến thức, kĩ năng, kĩ xảo, là tự mình động não, suy nghĩ, sử dụng các năng lực trí tuệ (quan sát, so sánh, phân tích, tổng hợp…)cùng các 4phẩm chất động cơ, tình cảm để chiếm lĩnh tri thức một lĩnh vực hiểu biết nào đó hay những kinh nghiệm lịch sử, xã hội của nhân loại, biến nó thành sở hữu của chính bản thân người học”. Tác giả Nguyễn Kỳ ở Tạp chí Nghiên cứu giáo dục số 7/ 1998 cũng bàn về khái niệm tự học: “Tự học là người học tích cực chủ động, tự mình tìm ra tri thức kinh nghiệm bằng hành động của mình, tự thể hiện mình. Tự học là tự đặt mình vào tình huống học, vào vị trí nghiên cứu, xử lí các tình huống, giải quyết các vấn đề, thử nghiệm các giải pháp…Tự học thuộc quá trình cá nhân hóa việc học”. Trong bài phát biểu tại hội thảo Nâng cao chất lượng dạy học tổ chức vào tháng 11 năm 2005 tại Đại học Huế, GS Trần Phương cho rằng: “ Học bao giờ và lúc nào cũng chủ yếu là tự học, tức là biến kiến thức khoa học tích lũy từ nhiều thế hệ của nhân loại thành kiến thức của mình, tự cải tạo tư duy của mình và rèn luyện cho mình kĩ năng thực hành những tri thức ấy”.1.5. Ý nghĩa của đề tài nghiên cứuTrong nội dung của bài này em muốn trình bày những kiến thức căn bản nhất về vấn đề tự học của sinh viên. Nhằm nêu rõ nội dung của hoạt động tự học gồm mấy vấn đề, để tiếp cận nó phải tuân thủ theo qui trình nào, điều kiện để áp dụng có hiệu quả các yêu cầu ra sao… từ đó xây dựng những biện pháp dạy tự học tích cực tương ứng. Giúp sinh viên hiểu được tầm quan trọng của vấn đề tự học và tìm cho mình giữ một phương pháp tự học phù hợp nhất để học tập và nghiên cứu thuận lợi hơn đạt kết quả cao, và góp phần nâng cao chất lượng đào tạo 5 Chương 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN2.1. Khái niệm tự học2.1.1. Tự học là gì? Trong tập bài giảng chuyên đề Dạy tự học cho SV trong các nhà trường trung học chuyên nghiệp và Cao đẳng, Đại học GS – TSKH Thái Duy Tuyên viết: “Tự học là hoạt động độc lập chiếm lĩnh kiến thức, kĩ năng, kĩ xảo, là tự mình động não, suy nghĩ, sử dụng các năng lực trí tuệ (quan sát, so sánh, phân tích, tổng hợp…)cùng các phẩm chất động cơ, tình cảm để chiếm lĩnh tri thức một lĩnh vực hiểu biết nào đó hay những kinh nghiệm lịch sử, xã hội của nhân loại, biến nó thành sở hữu của chính bản thân người học”. Tác giả Nguyễn Kỳ ở Tạp chí Nghiên cứu giáo dục số 7/ 1998 cũng bàn về khái niệm tự học: “Tự học là người học tích cực chủ động, tự mình tìm ra tri thức kinh nghiệm bằng hành động của mình, tự thể hiện mình. Tự học là tự đặt mình vào tình huống học, vào vị trí nghiên cứu, xử lí các tình huống, giải quyết các vấn đề, thử nghiệm các giải pháp…Tự học thuộc quá trình cá nhân hóa việc học”. Trong bài phát biểu tại hội thảo Nâng cao chất lượng dạy học tổ chức vào tháng 11 năm 2005 tại Đại học Huế, GS Trần Phương cho rằng: “ Học bao giờ và lúc nào cũng chủ yếu là tự học, tức là biến kiến thức khoa học tích lũy từ nhiều thế hệ của nhân loại thành kiến thức của mình, tự cải tạo tư duy của mình và rèn luyện cho mình kĩ năng thực hành những tri thức ấy”. 6 Từ những quan niệm trên đây có thể nhận thấy rằng, khái niệm tự học luôn đi cùng, gắn bó chặt chẽ với khái niệm tự thân. Tri thức, kinh nghiệm, kĩ năng của mỗi cá nhân chỉ được hình thành bền vững và phát huy hiệu quả thông qua các hoạt động tự thân ấy. Để có được, đạt tới sự hoàn thiện thì mỗi SV phải tự thân tiếp nhận tri thức từ nhiều nguồn; Tự thân rèn luyện các kĩ năng; Tự thân bồi dưỡng tâm hồn của mình ở mọi nơi mọi lúc.2.1.2. Vị trí vai trò của tự học Tự học là mục tiêu cơ bản của quá trình dạy học. Từ lâu các nhà sư phạm đã nhận thức rõ ý nghĩa của phương pháp dạy tự học. Trong quá trình hoạt động dạy học giảng viên không chỉ dừng lại ở việc truyền thụ những tri thức có sẵn, chỉ cần yêu cầu SV ghi nhớ mà quan trọng hơn là phải định hướng, tổ chức cho SV tự mình khám phá ra những qui luật, thuộc tính mới của các vấn đề khoa học. Giúp SV không chỉ nắm bắt được tri thức mà còn biết cách tìm đến những tri thức ấy. Thực tiễn cũng như phương pháp dạy học hiện đại còn xác định rõ: càng học lên cao thì tự học càng cần được coi trọng, nói tới phương pháp dạy học thì cốt lõi chính là dạy tự học. Phương pháp tự học là cầu nối giữa học tập và nghiên cứu khoa học. Bởi vì SV đại học không phải là những học sinh cấp bốn. Họ cần có thói quen nghiên cứu khoa học, mà để có được thói quen ấy thì không thể không thông qua con đường tự học. Muốn thành công trên bước đường học tập và nghiên cứu thì phải có khả năng phát hiện và tự giải quyết những vấn đề mà cuộc sống, khoa học đặt ra. Bồi dưỡng năng lực tự học là phương cách tốt nhất để tạo ra động lực mạnh mẽ cho quá trình học tập. Một trong những phẩm chất quan trọng của mỗi cá nhân là tính tích cực, sự chủ động sáng tạo trong mọi hoàn cảnh.Và, một trong những nhiệm vụ quan trọng của giáo dục là hình thành phẩm chất đó cho người học. Bởi từ đó nền giáo dục mới mong đào tạo ra những lớp người năng động, sáng tạo, thích ứng với mọi thị trường lao động, góp phần phát triển cộng đồng. Có thể xem tính tích cực (hình thành từ năng lực tự học) như một điều kiện, kết quả của sự phát triển nhân cách thế hệ trẻ trong xã hội hiện đại. Trong đó hoạt động tự học là những biểu hiện sự gắng sức cao về nhiều mặt của từng cá nhân người học trong quá trình nhận thức thông qua sự hưng phấn tích cực. Mà hưng phấn chính là tiền đề cho mọi hứng thú trong học tập. Có hứng thú người học mới có được sự tự giác say mê tìm tòi nghiên cứu khám phá. Hứng thú là 7động lực dẫn tới tự giác. Tính tích cực của con người chỉ được hình thành trên cơ sở sự phối hợp ngẫu nhiên giữa hứng thú với tự giác. Nó bảo đảm cho sự định hình tính độc lập trong học tập. Tự học giúp cho mọi người có thể chủ động học tập suốt đời, học tập để khẳng định năng lực phẩm chất và để cống hiến. Tự học giúp con người thích ứng với mọi biến cố của sự phát triển kinh tế - xã hội. Bằng con đường tự học mỗi cá nhân sẽ không cảm thấy bị lạc hậu so với thời cuộc, thích ứng và bắt nhịp nhanh với những tình huống mới lạ mà cuộc sống hiện đại mang đến, kể cả những thách thức to lớn từ môi trường nghề nghiệp. Nếu rèn luyện cho người học có được phương pháp, kĩ năng tự học, biết linh hoạt vận dụng những điều đã học vào thực tiễn thì sẽ tạo cho họ lòng ham học, nhờ đó kết quả học tập sẽ ngày càng được nâng cao. Với những lí do nêu trên có thể nhận thấy, nếu xây dựng được phương pháp tự học, đặc biệt là sự tự giác, ý chí tích cực chủ động sáng tạo sẽ khơi dậy năng lực tiềm tàng, tạo ra động lực nội sinh to lớn cho người học.2.2. NỘI DUNG CỦA TỰ HỌC VÀ PHƯƠNG PHÁP DẠY TỰ HỌC CHO SINH VIÊN 2.2.1. Nội dung của quá trình tự học Bàn về hoạt động tự học và phương pháp tổ chức cho SV tự học như thế nào để có hiệu quả thiết thực là một vấn đề hoàn toàn không đơn giản. Ngoài việc tìm hiểu khái niệm, những vấn đề liên quan đến động cơ, thói quen học tập của SV thì mỗi GV rất cần đến quá trình nghiên cứu nhằm tìm ra nội dung cơ bản, các phương cách tối ưu rèn luyện phương pháp tự học cho SV. Đặc biệt là việc nhận diện xem những phương pháp đó ngoài sự thích ứng chung cho mọi SV có đáp ứng được cho từng nhóm đối tượng trong những giai đoạn và điều kiện, hoàn cảnh khác nhau trong suốt quá trình đào tạo hay không. Để đáp ứng yêu cầu nêu trên cần xác định rõ những yêu cầu cơ bản của hoạt động tự học như: nội dung của hoạt động tự học gồm mấy vấn đề, để tiếp cận nó phải tuân thủ theo qui trình nào, điều kiện để áp dụng có hiệu quả các yêu cầu ra sao… từ đó xây dựng những biện pháp dạy tự học tích cực tương ứng. 8 Với tất cả các lĩnh vực khoa học, việc dạy tự học có những điểm chung, thống nhất về cách thức cũng như phương pháp. Đó là những vấn đề được xác định như sau:2.2.1.1. Xây dựng động cơ học tập Khơi gợi hứng thú học tập để trên cơ sở đó ý thức tốt về nhu cầu học tập. Người học tự xây dựng cho mình động cơ học tập đúng đắn là việc cần làm đầu tiên. Bởi vì, thành công không bao giờ là kết quả của một quá trình ngẫu hứng tùy tiện thiếu tính toán, kể cả trong học tập lẫn nghiên cứu. Nhu cầu xã hội và thị trường lao động hiện tại đặt ra cho mỗi người những tố chất cần thiết chứ không phải là những điểm số đẹp, những chứng chỉ như vật trang sức vào đời mà không có thực lực vì động cơ học tập lệch lạc. Có động cơ học tập tốt khiến cho người ta luôn tự giác say mê, học tập với những mục tiêu cụ thể rõ ràng với một niềm vui sáng tạo bất tận. Trong rất nhiều động cơ học tập của SV, có thể khuôn tách thành hai nhóm cơ bản:- Các động cơ hứng thú nhận thức.- Các động cơ trách nhiệm trong học tập. Thông thường các động cơ hứng thú nhận thức hình thành và đến được với người học một cách tự nhiên khi bài học có nội dung mới lạ, thú vị, bất ngờ, động và chứa nhiều những yếu tố nghịch lí, gợi sự tò mò. Động cơ này sẽ xuất hiện thường xuyên khi GV biết tăng cường tổ chức các trò chơi nhận thức, các cuộc thảo luận hay các biện pháp kích thích tính tự giác tích cực từ người học. Động cơ nhiệm vụ và trách nhiệm thì bắt buộc người học phải liên hệ với ý thức về ý nghĩa xã hội của sự học. Giống như nghĩa vụ đối với Tổ quốc, trách nhiệm đối với gia đình, thầy cô, uy tín danh dự trước bạn bè…Từ đó các em mới có ý thức kỉ luật trong học tập, nghiêm túc tự giác thực hiện mọi nhiệm vụ học tập, những yêu cầu từ GV, phụ huynh, tôn trọng mọi chế định của xã hội và sự điều chỉnh của dư luận. Cả hai động cơ trên không phải là một quá trình hình thành tự phát, cũng chẳng được đem lại từ bên ngoài mà nó hình thành và phát triển một cách tự giác thầm lặng từ bên trong. Do vậy người GV phải tùy đặc điểm môn học, tùy đặc điểm tâm 9sinh lí lứa tuổi của đối tượng để tìm ra những biện pháp thích hợp nhằm khơi dây hứng thú học tập và năng lực tiềm tàng nơi SV. Và, điều quan trọng hơn là tạo mọi điều kiện để sinh viên tự kích thích động cơ học tập của mình. Đối với phần đông những người trẻ, việc tạm gác những thú vui, những trò giải trí hấp dẫn nhất thời để toàn tâm toàn sức cho việc học là hai điều có ranh giới vô cùng mỏng manh. Nó đòi hỏi sự quyết tâm cao và một ý chí mạnh mẽ cùng nghi lực đủ để chiến thắng chính bản thân mình. Đối với người trưởng thành, khi mục đích cuộc đời đã rõ, ý thức trách nhiệm đối với công việc đã được xác định và sự học đã trở thành niềm vui thì việc xác định động cơ thái độ học tập nói chung không khó khăn như thế hệ trẻ. Tuy nhiên không phải là hoàn toàn không có. Vì suy cho cùng ai cũng có những nhu cầu riêng và từ đó có những hứng thú khác nhau. Vấn đề là phải biết kết hợp biện chứng giữa nội sinh và ngoại sinh, tức là hứng thú nhận thức, hứng thú trách nhiệm được đánh thức, khơi dậy trên cơ sở những điều kiện tốt từ bên ngoài. Trong đó người thầy đóng vai trò chủ đạo. 2.2.1.2. Xây dựng kế hoạch học tập Đối với bất kì ai muốn việc học thật sự có hiệu quả thì mục đích, nhiệm vụ và kế hoạch học tập phải được xây dựng cụ thể, rõ ràng. Trong đó kế hoạch phải được xác định với tính hướng đích cao. Tức là kế hoạch ngắn hạn, dài hơi thậm chí từng môn, từng phần phải được tạo lập thật rõ ràng, nhất quán cho từng thời điểm từng giai đoạn cụ thể sao cho phù hợp với điều kiện hoàn cảnh của mình. Vấn đề kế tiếp là phải chọn đúng trọng tâm, cái gì là cốt lõi là quan trọng để ưu tiên tác động trực tiếp và dành thời gian công sức cho nó. Nếu việc học dàn trải thiếu tập trung thì chắc chắn hiệu quả sẽ không cao. Sau khi đã xác định được trọng tâm, phải sắp xếp các phần việc một cách hợp lí logic về cả nội dung lẫn thời gian, đặc biệt cần tập trung hoàn thành dứt điểm từng phần, từng hạng mục theo thứ tự được thể hiện chi tiết trong kế hoạch. Điều đó sẽ giúp quá trình tiến hành việc học được trôi chảy thuận lợi.2.2.1.3. Tự mình nắm vững nội dung tri thức Đây là giai đoạn quyết định và chiếm nhiều thời gian công sức nhất. Khối lượng kiến thức và các kĩ năng được hình thành nhanh hay chậm, nắm bắt vấn đề nông hay sâu, rộng hay hẹp, có bền vững không… tùy thuộc vào nội lực của chính bản thân người học trong bước mang tính đột phá này. Nó bao gồm các hoạt động: 10 - Tiếp cận thông tin: Lựa chọn và chủ động tiếp nhận thông tin từ nhiều nguồn khác nhau và từ những hoạt động đã được xác định như đọc sách, nghe giảng, xem truyền hình, tra cứu từ Internet, cemine, hội thảo, làm thí nghiệm, quan sát, điều tra… Trong hoạt động này rất cần có sự tỉnh táo để chọn lọc thông tin một cách thông minh và linh hoạt. Xã hội hiện đại đang khiến phần lớn SV rời xa sách và chỉ quan tâm đến các phương tiện nghe nhìn khác. Đơn giản vì nó thỏa mãn trí tò mò, giúp cho tai nghe mắt thấy tức thời. Đó là chưa kể đến sự nhiễu loạn thông tin mà nếu không vững vàng thì giới trẻ sẽ rất dễ sa vào những cạm bẫy thiếu lành mạnh, ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển nhân cách, tâm hồn. Trong lúc từ cổ chí kim, muốn làm chủ tri thức nhân loại thì con đường tốt nhất của mọi người là đọc sách. Đọc sách là phương pháp tự học rẻ tiền và hiệu quả nhất. Khi làm việc với sách ta phải sử dụng năng lực tổng hợp toàn diện và có sự xuất hiện của hoạt động của trí não, một hoạt động tối ưu trong quá trình tự học. Do vậy, rèn luyện thói quen đọc sách là một công việc không thể tách rời trong yêu cầu tự học. Ngoài việc tiếp nhận tri thức còn phải biết đối thoại, gợi mở, thắc mắc hay đề xuất những vấn đề cần lưu ý sau khi đọc sách, hoặc chí ít là học cách viết, lối diễn đạt từ những cuốn sách hay. Đó là cách đọc sáng tạo. Khác với sự giải trí đơn giản hay cảm nhận thông thường. - Xử lí thông tin: Việc xử lí thông tin trong quá trình tự học không bao giờ diễn ra trong vô thức mà cần có sự gia công, xử lí mới có thể sử dụng được. Quá trình này có thể được tiến hành thông qua việc phân tích, đánh giá, tóm lược, tổng hợp, so sánh… - Vận dụng tri thức, thông tin: Trong việc vận dụng thông tin tri thức khoa học để giải quyết các vấn đề liên quan như thực hành bài tập, thảo luận, xử lí các tình huống, viết bài thu hoạch, báo cáo khoa học, tổng thuật… SV thường gặp rất nhiều khó khăn. Có lúc tìm được một khối lượng lớn tư liệu nhưng việc tập hợp phân loại nội dung để kiến giải một vấn đề lại không thực hiện được. Trong trường hợp này cần khoanh vùng vấn đề trong một giới hạn đừng quá rộng. Chỉ cần tập trung đào sâu một vấn đề nào đó nhằm phát hiện ra cái mới có giá trị thực tiễn là đáp ứng yêu cầu. Trong khâu này việc lựa chọn và thay đổi hình thức tư duy để tìm ra cách thức tối ưu nhất cho đối tượng nghiên cứu cũng rất cần thiết. - Trao đổi, phổ biến thông tin: Việc trao đổi kinh nghiệm, chia sẻ thông tin tri thức hay diển ngôn theo yêu cầu thông qua các hình thức: hội thảo, báo cáo khoa 11học, thảo luận, thuyết trình, tranh luận… là công việc cuối cùng của quá trình tiếp nhận tri thức. Hoạt động này giúp người học có thể hình thành và phát triển kĩ năng trình bày (bằng lời nói hay văn bản) cho người học. Giúp người học chủ động, tự tin trong giao tiếp ứng xử, phát triển năng lực hợp tác và làm việc nhóm tốt. 2.2.1.4. Tự kiểm tra đánh giá kết quả học tập Việc nhìn nhận kết quả học tập được thực hiện bằng nhiều hình thức: Dùng các thang đo mức độ đáp ứng yêu cầu của GV, bản thân tự đánh giá, sự đánh giá nhận xét của tập thể thông qua thảo luận, tự đối chiếu so sánh với mục tiêu đặt ra ban đầu… Tất cả đều mang một ý nghĩa tích cực, cần được quan tâm thường xuyên. Thông qua nó người học tự đối thoại để thẩm định mình, hiểu được cái gì làm được, điều gì chưa thỏa mãn nhu cầu học tập nghiên cứu để từ đó có hướng khắc phục hay phát huy. Vấn đề tự học rõ ràng không hề đơn giản. Muốn hoạt động học tập có hiệu quả nhất thiết SV phải chủ động tự giác học tập bất cứ lúc nào có thể bằng chính nội lực của bản thân. Vì nội lực mới chính là nhân tố quyết định cho sự phát triển. Ngoài ra, rất cần tới vai trò của người thầy với tư cách là ngoại lực trong việc trang bị cho SV một hệ thống tri thức, kĩ năng, thái độ cùng với phương pháp tự học cụ thể, khoa học. Nhờ đó hoạt động tự học tự đào tạo của SV mới đi vào chiều sâu thực chất.2.2.2. Dạy phương pháp tự học cho sinh viên Ngoài những nội dung và phương pháp chung được trình bày ở trên mỗi môn học, mỗi đối tượng đều có những đặc thù riêng. Và, với GV cũng vậy, cũng với những phương pháp giống nhau nhưng cách sử dụng của mỗi người ở những thời điểm cũng có sự khác nhau. Do vậy, việc tìm ra những cách thức dạy tự học cụ thể cho từng lĩnh vực là công việc rất có ý nghĩa. Tâm lí chung với đối tượng SV các chuyên ngành thuộc khối Tự nhiên – Kĩ thuật thường ngại các môn KHXH – NV có nhiều chữ, một phần do không thuộc sở trường một phần quĩ thời gian ngày càng eo hẹp, việc học các học phần này thường chiếm nhiều thời gian. Do vậy việc xác định các phương pháp dạy cho SV tự học các môn thuộc KHXH –NV cần được quan tâm nhiều hơn. Dạy phương pháp tự học cho SV ở các môn Khoa học tự nhiên – Kĩ thuật đã được định hình từ lâu bằng những yêu cầu cụ thể rõ ràng như thực hành bài tập, vẽ sơ đồ…Việc kiểm tra SV có thực hiện yêu cầu học tập mà GV giao hay không cũng vì thế mà dễ xác định và đỡ mất thời gian hơn. Còn đối với các môn thuộc lĩnh vực Xã 12hội Nhân văn không hề dễ dàng. Từ đặc thù của lĩnh vực chuyên ngành xã hội, qua nghiên cứu các tài liệu về phương pháp dạy học và thực tế giảng dạy nhiều năm các nhà nghiên cứu, giảng viên đã rút ra bốn vấn đề cốt lõi có thể áp dụng trong quá trình dạy tự học cho SV. Đó là: 2.2.2.1. Dạy cách lập kế hoạch học tập Trên cơ sở đề cương môn học, vào đầu mỗi học phần GV cần hướng dẫn SV lập kế hoạch học tập sao cho kế hoạch đó phải ở trong tầm với của mình, phù hợp với điều kiện của mình. Tất nhiên có thể điều chỉnh khi điều kiện thay đổi. Quán triệt để SV hiểu rõ: mọi kế hoạch phải được xây dựng trên những mục tiêu cụ thể và hoàn toàn phấn đấu thực hiện được. Trong đó có sự phân biệt rõ việc chính việc phụ, việc làm ngay và việc làm sau. Có như thế mới từng bước góp nhặt tri thức tích lũy kết quả học tập một cách bền vững. Việc sử dụng và tận dụng tốt quĩ thời gian cũng cần được đặt ra để không phải bị động trước khối lượng các môn học cũng như áp lực công việc.2.2.2.2. Dạy cách nghe giảng và ghi chép theo tinh thần tự học. Nghe giảng và ghi chép là những kĩ năng mà ai cũng phải sử dụng trong quá trình học tập. Trình độ nghe và ghi chép của người học không giống nhau ở những môn học khác nhau. Nó ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình học tập. Tuy nhiên đây là vấn đề mà xưa nay chưa có ai nghiên cứu. Mỗi người đều phải tự mình rèn luyện thói quen ghi chép để có thể có được những thông tin cần thiết về môn học. Điều quan trọng trước tiên là GV cần truyền đạt cho SV những nguyên tắc chính của hoạt động nghe – ghi chép. Với các môn KHXH – NV thường có dung lượng câu chữ nhiều, việc vừa chú ý theo dõi để tri nhận thông tin vừa mong muốn ghi chép thật đầy đủ khiến đôi lúc trở thành một thách đố lớn. Các em thường mang lối học thụ động, quen tách việc nghe và ghi chép ra khỏi nhau, thậm chí nhiều SV chỉ chờ GV đọc mới có thể ghi chép được nội dung bài học nếu ngược lại thì đành bỏ trống vở khiến tâm lí bị ức chế ảnh hưởng đến quá trình tiếp nhận kiến thức. Thực tế đó đòi hỏi người học phải tập trung tư tưởng cao độ để có khả năng lĩnh hội vấn đề một cách khoa học nhất. Phải rèn luyện để có khả năng huy động vốn từ, sử dụng tốc độ ghi chép nhanh bằng các hình thức viết tắt, gạch chân, tóm lược bằng sơ đồ hình vẽ những ý chính, các luận điểm quan trọng mà GV nhấn mạnh, lặp lại nhiều lần là điều vô cùng cần thiết. Ngoài ra, trong quá trình học tập trên lớp, nếu có vấn đề nào không hiểu cần đánh dấu để hỏi 13ngay sau khi GV ngừng giảng nhằm đào sâu kiến thức và tiết kiệm thời gian. Rất tiếc, trên thực tế đây là điểm yếu mà phần lớn SV không quan tâm rèn luyện để có được. Muốn tạo điều kiện cho SV nghe giảng và ghi chép tốt, GV cần lưu ý: - Nội dung bài giảng phải mới mẻ, thiết thực, cần thiết có thể tạo ra những tình huống giả định yêu cầu SV suy nghĩ phản biện . - Các câu hỏi, vấn đề đặt ra trong giờ giảng phải có sự chọn lọc kĩ lưỡng, tập trung vào trọng tâm bài học như một cách phát tín hiệu cho SV xác định nội dung chính.- Đưa vào bài giảng những tình huống lí thú, những mẫu chuyện sinh động lấy từ thực tế có liên quan trực tiếp đến đời sống hay lĩnh vực chuyên ngành của từng đối tượng SV để gây sự chú ý cũng như tạo cảm giác hứng thú cho người học. - Sau hoặc trong khi giảng bài có thể yêu cầu SV tự đặt ra những câu hỏi, tình huống sát với nội dung bài học để thay đổi không khí, tăng cường sự chú ý của cả lớp.- Sự truyền cảm, mạch lạc trong lời giảng cũng là điều có ý nghĩa thu hút sự chú ý của người học. Tất cả những công việc này muốn thực hiện tốt phải có sự phối hợp nhịp nhàng ăn ý của cả thầy và trò. Trong đó thầy đóng vai trò chủ đạo trong việc hướng dẫn tổ chức còn trò với tư cách là chủ thể tích cực chủ động sáng tạo cả trong lĩnh hội tri thức lẫn rèn luyện kĩ năng và bộc lộ quan điểm, thái độ. 2.2.2.3. Dạy cách học bài Vấn đề mấu chốt theo quan điểm của chúng tôi chính là dạy cách học bài. GV cần giới thiệu và hướng dẫn cho SV tự học theo mô hình các nấc thang nhận thức của Bloom. Tức là học cách phân tích, tổng hợp, học vận dụng tri thức vào từng tình huống thực tiễn, học nhận xét đánh giá, so sánh đối chiếu các kiến thức… Bên cạnh đó còn phải rèn luyện năng lực tư duy logic, tư duy trừu tượng, tư duy sáng tạo để tìm ra những hướng tiếp cận mới các vấn đề khoa học. Việc đưa ra các tình huống vấn đề gắn với thực tiễn đời sống xã hội là ưu thế của các học phần thuộc lĩnh vực XHNV. GV cần cho những tình huống sau mỗi bài/ chương/ mục và yêu cầu SV chuẩn bị trước. Sau đó tùy tình hình để cho từng cá nhân hay từng nhóm (cả lớp) thảo luận, giải quyết. 14 Một trong những hình thức giúp SV làm việc nhóm tốt nhất là tạo cơ hội cho các em diễn ngôn trực tiếp. Từ cách lấy dẫn chứng để chứng minh một vấn đề, giải thích, phản biện, nêu quan điểm ý tưởng hay thuyết trình, giới thiệu, tổng thuật một sự kiện, một vấn đề khoa học hoặc đơn giản chỉ là sự bày tỏ chính kiến trước một hiện tượng. Thông qua đó người dạy cũng có thể nắm được mức độ nhận thức của SV để có sự bổ sung điều chỉnh hợp lí, kịp thời. Đảm bảo chất lượng giờ giảng luôn được cải thiện theo hướng tích cực.2.2.2.4. Dạy cách nghiên cứu Trước hết là dạy cách xác định đề tài, chủ đề nghiên cứu sao cho phù hợp với sở trường năng lực của mình và yêu cầu của chuyên ngành đào tạo. Tiếp đến là dạy cách lựa chọn và tập hợp, phân loại thông tin và cách xử lí thông tin trong khuôn khổ thời gian cho phép. Cơ sở lí luận của các môn KHXH&NV thường mang tính hàn lâm, tính kế thừa cao. Trong lúc trên thực tế các vấn đề xã hội lại thay đổi từng giây. Vì thế việc xác định nguồn tài liệu, điều tra, thực nghiệm cũng đòi hỏi mỗi người phấn đấu nắm bắt kịp thời những vấn đề mang tính thời sự nóng hổi cũng là một thách thức lớn. Tài liệu sẽ lấy từ nguồn nào, giới hạn phạm vi bao nhiêu, cách viện dẫn những thông tin ra sao cho chính xác, trích dẫn những vấn đề điển hình nào cho có tính thuyết phục… là những vấn đề cần được hướng dẫn kĩ lưỡng chu đáo từ phía GV. Một đề cương nghiên cứu chuẩn mực, khoa học trong cấu trúc chung từ tổng quan của vấn đề nghiên cứu, các cấp độ nội dung cần triển khai và cách xác định phương pháp nghiên cứu phản ánh rất rõ năng lực của mỗi SV. Cần hình thành và rèn luyện cho các em sớm có được kĩ năng ấy. Ngoài ra, việc tự kiểm tra đánh giá kết quả nghiên cứu trên cơ sở tranh thủ ý kiến của bạn bè thầy cô cũng đem lại lợi ích thiết dụng cho người nghiên cứu, nhất là những SV bước đầu làm quen với khoa học.2.3. Các yếu tố bên ngoài ảnh hưởng tới vấn đề tự học2.3.1. Môi trường học và cơ sở vật chấtMôi trường xung quanh tuy không hoàn toàn là yếu tố gây ảnh hưởng tới vấn đề sinh viên không tự học nhưng nó cũng ảnh hưởng nhiều tới chất lượng học tập của sinh viên, môi trường mà ồn ào, không sạch sẽ ảnh hưởng tới cảm xúc của con người khiến chúng ta mất tập trung và không thể tiếp thu kiến thức được, như vậy kết quả học tập, nghiên cứu sẽ bị suy giảm và gây tâm lý chán học, ngại học cho sinh viên. 15Hơn nữa cơ sở vật chất cũng phải đáp ứng được cả về số lượng và chất lượng như: phòng học phải đủ kích thước, ánh sáng, bàn ghế đúng quy cách cho sinh viên ngồi học, như vậy thì sẽ giúp sinh viên thoải mái trong quá trình học và nghiên cứuCần có thư viện rộng rãi, yên tĩnh và sạch sẽ cho sinh viên nghiên cứu ngoài giờ lên lớp2.3.2. Sự khen thưởng, khuyến khích học tậpViệc khen thưởng có thể khuyến khích tinh thần học tập của sinh viên dù đó là sự biểu dương hay một số phần thưởng như quà tặng và học bổng, nó khơi lên tinh thần yêu thích và nỗ lực phấn đấu của sinh viên.2.3.3. Giáo trình, tài liệu nghiên cứuQuan trọng nhất vẫn là đáp ứng được nhu cầu tìm kiếm thông tin qua sách, giáo trình của sinh viên, những quyển sách hay, nhiều thông tin, những cuốn giáo trình mà cần thiết cho việc học tập và nghiên cứu của sinh viên, giúp sinh viên có thêm nguồn kiến thức phong phú hơn, khuyến khích việc nghiên cứu và đọc sách của sinh viên. Vậy nên thư viện trường sẽ là nơi lưu trữ nguồn thông tin từ giáo trình, tài liệu cho sinh viên. 16Chương 3: MÔ HÌNH NGHIÊN CỨU3.1. Mô hình nghiên cứu tổng thểXuất phát từ cơ sở lý luận về vấn đề tự học, đã được phân tích trong chương 2, mô hình nghiên cứu được xác định như sau: 17Nhân tố sinh viênNhà trườngVấn đề tự học của sinh viênÝ thức học tập của sinh viên2.Thời gian rãnh rỗi3. Điều kiện sức khỏe 4. Đồ dùng, thiết bị hỗ trợ học tập5. Cách dậy học của giảng viên6. Cơ sở vật chất và môi trường học 7. Sự khen thưởng, khuyến khích học tập 8. Giáo trình, tài liệu nghiên cứu3.2. Mô hình nghiên cứu đề xuấtCăn cứ mô hình nghiên cứu tổng thể, sau khi khảo sát, nghiên cứu các văn bản có liên quan đến vấn đề tự học và đặc biệt là các văn bản có liên quan đến vấn đề tự học và các ý kiến của sinh viên, em xây dựng mô hình nghiên cứu đề xuất và thực hiện đánh giá theo mô hình nghiên cứu này để rút ra các giải pháp nâng vấn đề tự học của sinh viên trường Đh Công nghiệp TPHCM cơ sở 3 thông qua các tiêu chí sau 1) Xây dựng động cơ học tập Trong rất nhiều động cơ học tập của SV, có thể khuôn tách thành hai nhóm cơ bản: Các động cơ hứng thú nhận thức. Các động cơ trách nhiệm trong học tập 2) Xây dựng kế hoạch học tập Muốn việc học thật sự có hiệu quả thì mục đích, nhiệm vụ và kế hoạch học tập phải được xây dựng cụ thể, rõ ràng, tùy thuộc để xác định kế hoạch ngắn hạn, dài hạn, thậm chí theo từng môn, từng phần phải được tạo lập thật rõ ràng, nhất quán cho từng thời điểm từng giai đoạn cụ thể sao cho phù hợp với điều kiện hoàn cảnh của mình.  Chọn đúng trọng tâm, cái gì là cốt lõi là quan trọng để ưu tiên tác động trực tiếp và dành thời gian công sức cho vấn đề đó. Từ đó sắp xếp các phần việc một cách hợp lí logic về cả nội dung lẫn thời gian. 3) Tự mình nắm vững nội dung tri thức 18 Bao gồm các hoạt động Tiếp cận thông tin: Lựa chọn và chủ động tiếp nhận thông tin từ nhiều nguồn khác nhau và từ những hoạt động đã được xác định như đọc sách, nghe giảng, xem truyền hình, tra cứu từ Internet, cemine, hội thảo, làm thí nghiệm, quan sát, điều tra Xử lí thông tin: Việc xử lí thông tin trong quá trình tự học không bao giờ diễn ra trong vô thức mà cần có sự gia công, xử lí mới có thể sử dụng được. Quá trình này có thể được tiến hành thông qua việc phân tích, đánh giá, tóm lược, tổng hợp, so sánh…  Vận dụng tri thức, thông tin: Trong việc vận dụng thông tin tri thức khoa học để giải quyết các vấn đề liên quan như thực hành bài tập, thảo luận, xử lí các tình huống, viết bài thu hoạch, báo cáo khoa học, tổng thuật Trao đổi, phổ biến thông tin: Việc trao đổi kinh nghiệm, chia sẻ thông tin tri thức hay diển ngôn theo yêu cầu thông qua các hình thức: hội thảo, báo cáo khoa học, thảo luận, thuyết trình, tranh luận. 4) Tự kiểm tra đánh giá kết quả học tập Việc nhìn nhận kết quả học tập được thực hiện bằng nhiều hình thức: Dùng các thang đo mức độ đáp ứng yêu cầu của GV, bản thân tự đánh giá, sự đánh giá nhận xét của tập thể thông qua thảo luận, tự đối chiếu so sánh với mục tiêu đặt ra ban đầu. Sơ đồ: 3.2.1 Mô hình nghiên cứu đề xuất. 19 Xây dựng động cơ học tập2. Xây dựng kế hoạch học tập 3. Tự mình nắm vững nội dung tri thức 4. Tự kiểm tra đánh giá kết quả học tậpvấn đề tự học của sinh viênBảng 3.2.2: Giả thuyết và kỳ vọng của các biến nghiên cứu Biến độc lập Giả thiếtPhát biểu Kỳ vọngXây dựng động cơ học tậpH1Xác định đúng đắn động cơ mục đích học tập của mình. Thì sẽ tập trung cao độ trong quá trình tự học. (+) Xây dựng kế hoạch học tậpH2Xây dựng kế hoạch học tập hợp lý thì hiệu quả của việc tự học sẽ cao hơn.(+)Tự mình nắm vững nội dung tri thứcH3Nắm vững nội dung kiến thức bằng việc tìm kiếm và nghiên cứu thì sẽ giúp vốn kiến thức sâu rộng hơn, việc tự học sẽ có kết quả cao hơn.(+)Tự kiểm tra đánh giá kết quả học tậpH4Tự kiểm tra đánh giá để khắc phục và phát huy những vấn đề chưa đạt thì giúp cho quá trình tự học dễ dàng hơn (+)3.3. Thiết kế nghiên cứu 3.3.1. Tiến độ các bước nghiên cứuThực hiện nghiên cứu bao gồm 2 bước chính như sau:Bảng 1. Tiến độ các bước nghiên cứu 20Bước Dạng Phương pháp Kỹ thuật Thời gian1 Sơ bộ Định tính Thảo luận 2 tuần2 Chính thức Định lượng Điều tra qua bảng câu hỏi3-4 tuầnBước 1: Thực hiện nghiên cứu sơ bộ định tính. Nghiên cứu định tính này được thực hiện thông qua kỹ thuật thảo luận với một dàn bài soạn sẵn để khai thác các vấn đề xung quanh đề tài, dựa trên nền tảng của cơ sở lý thuyết. Kết quả của quá trình nghiên cứu sẽ hoàn thiện bảng câu hỏi (đã được phát thảo trước đó – xem phụ lục) Bước 2: Là nghiên cứu chính thức định lượng gồm 2 giai đoạn. Giai đoạn đầu sẽ tiến hành điều tra trực tiếp khoảng 30 người, nhằm xác lập tính lôgic của bảng câu hỏi hay để loại bớt những biến được xem là thứ yếu và không quan tâm. Giai đoạn kế tiếp sẽ triển khai việc điều tra bằng bảng câu hỏi.Các dữ liệu sau khi thu thập sẽ được xử lý bằng phần mềm SPSS 16.0. Sau khi mã hóa và làm sạch, dữ liệu sẽ được đưa vào xử lý và phân tích để mô tả qua các công cụ phân tích sau:3.3.2. Quy trình nghiên cứuToàn bộ quy trình nghiên cứu có thể mô tả theo trình tự sau: xác định vấn đề nghiên cứu, cơ sở lý thuyết , dàn bài thảo luận, phỏng vấn thử, bảng câu hỏi [1], hiệu chỉnh, bảng câu hỏi chính thức, phỏng vấn chính thức (thu thập thông tin), xử lý, cuối cùng là báo cáo nghiên cứu 21 Sơ đồ 1: quy trình nghiên cứuQuy trình trên được bắt đầu từ xác định vấn đề nghiên cứu. Đây là bước quan trọng để xác định vấn đề được đưa ra có thực sự cần thiết cho nhà trường và phù hợp với khả năng của người nghiên cứu hay không. Để thực hiện được bước này, em đã đặt ra các câu hỏi và tự trả lời để xác định vấn đề nào là thích hợp nhất.3.3. Thang đoNghiên cứu chủ yếu sử dụng thang đo Danh nghĩa Thang đo Danh nghĩa (thang đo biểu danh) là loại thang đo định tính để phân loại các đối tượng: giới tính, bậc học. Mục đích chủ yếu là sử dụng cho phân tích sự khác biệt về thái độ giữa các nhóm nghiên cứu. 3.4. Thiết kế bảng câu hỏi Bảng câu hỏi gồm 11 câu với 2 loại câu hỏi đóng và mở 22Bảng câu hỏi[1]Cơ sở lý thuyếtMô hình nghiên cứuXác định vấn đề nghiên cứuDàn bài thảo luậnPhỏng vấn thử( n =5 10)Bảng câu hỏi chính Hiệu chỉnhPhỏng vấn chính thức (n=50)Xử lý thông tinBáo cáoNghiên cứu chínhNghiên cứu sơ bộBảng câu hỏi gồm các phần : Tên bảng hỏi và giới thiệu Các câu hỏi điều tra Thông tin của người được hỏi Lời cảm ơn3.5. mẫu và thông tin mẫu 3.5.1. Mẫu3.5.1.1. Đối tượng nghiên cứuCác bạn sinh viên học theo hệ thống tín chỉ tại trường đại học công nghiệp thành phố hồ chí minh cơ sở 3. 3.5.1.2. Phương pháp chọn mẫuTổng thể là các bạn sinh viên theo học hệ thống tín chỉĐơn vị mẫu: điều tra 50 mẫu bằng cách lấy danh sách các bạn sinh viên từ đó dùng làm khung chọn mẫu để chọn mẫu theo phương pháp ngẫu nhiên.3.5.1.3. Thời gian phỏng vấn: 3 tuần3.5.2. Thông tin mẫu Tổng số phiếu nhận về sau quá trình phỏng vấn là 50 phiếu. Một số kết quả nổi bật phản ánh nội dung nghiên cứu được tổng hợp và minh họa lại bằng phần mềm SPSS 16.0.3.6. TIẾN ĐỘ NGHIÊN CỨU Bảng 3. Tiến độ nghiên cứu Công việc Tuần thứ 23A Nghiên cứu sơ bộ 0 1 2 3Thảo luận tay đôiHiệu chỉnh thang đo-Bảng câu hỏi (2)B Nghiên cứu chính thức 0 1 2 3Phát hành bảng câu hỏiThu thập hồi đápXử lý và phân tích dữ liệuC Soạn thảo báo cáo 0 1 2 3Đến kết quả phần AĐến kết quả phần BKết luận và thảo luậnHiệu chỉnh cuối cùngCHƯƠNG 4: THỰC TRẠNG VÀ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU4.1. Thực trạng Tự học có vai trò vô cùng quan trọng trong quá trình học đại học của sinh viên. Tự học nhằm phát huy tính tự giác học và nghiên cứu. Việc tự học đối với sinh viên có 24vai trò hết sức quan trọng vì qua đó góp phần giúp cho sinh viên rèn luyện khả năng tư duy và sáng tạo của cá nhân. Đa số sinh viên trong trường đều nhận thức rằng vấn đề tự học là quan trọng khi áp dụng theo học chế tín chỉ (58%-phụ lục2), tuy nhiên việc tự học này đồng nghĩa với hứng thú trong nhận thức (34%-phụ luc2) và tự trách nhiệm trong học tập(14%-phụ luc2), không phụ thuộc vào người khác và không cần sự cộng tác của bạn bè. Sinh viên cho rằng đây là yêu cầu tối thiểu của một sinh viên. Ngoài ra phải giao lưu học hỏi ở các bạn khác ngành, các lớp đàn anh để nâng cao trình độ và nắm bài tốt hơn. Học theo chương trình tín chỉ hóa nên việc tự học là rất quan trọng, tuy nhiên để nhằm bổ sung thêm kiến thức sinh viên thường tạo ra những nhóm học để các bạn dễ dàng trao đổi kiến thức và giúp đỡ nhau trong học tập. Có lớp cho rằng việc tự học có nghĩa là học theo nhóm trao đổi thông tin với nhau (26%-phụ luc2), sinh viên cho rằng tự học theo nhóm mang lại hiệu quả cao nhưng cũng có ý kiến cho rằng vào học chỉ lo trò chuyện, cười giỡn không thể tiếp thu được nhiều nên hiệu quả kém. Theo ý kiến của một số sinh viên muốn học nhóm có hiệu quả cao thì cần tuân thủ một số điều quan trọng như không nói chuyện, đùa giỡn trong khi học, phải có một trưởng nhóm có kiến thức vững và biết cách truyền tải lượng kiến thức đó một cách hiệu quả nhất, biết điều tiết “nhiệt độ” học và biết phân bố thời gian học hợp lý và sinh động để các thành viên học không bị chán. Theo ý kiến của sinh viên thì một trong những nguyên nhân khó thực hiện việc tự học là do phải học quá nhiều môn học trong một học kỳ, đặc biệt là những sinh viên có tham gia học ngành 2 đã đăng ký tối đa số tín chỉ trong một học kỳ 25 chỉ(58%-phụ luc2) . Do đó sinh viên không còn thời gian cho việc tự học.Có 62%(phụ luc2) các bạn sinh viên xây dưng kế hoạch học tập điều đó sẽ giúp quá trình tiến hành việc học được trôi chảy thuận lợi. Còn 38%( phụ luc2) các bạn không xây dựng kế hoạch học tập,Có 68%( phụ luc2) số lượng sinh viên cho rằng tìm hiểu kiến thức bên ngoài giáo trình, sách chuyên môn để bổ sung trong quá trình học là quan trọng và cần phải thường xuyên thu thập. Truy cập bổ sung kiến thức chuyên môn từ nguồn Internet vẫn là chủ yếu,qua tivi, điều tra quan sát.Sau khi tiếp nhận thông đa số các bạn xử lý thông tin, và vận dụng kiến thức nghiên cứu được vào giải quyết bài tập, xử lý các tình huống thực tế, viết báo cáo. 25