Siêu âm tim đánh giá chức năng thất phải năm 2024

Mục tiêu: Tìm hiểu tỷ lệ suy CN thất phải và mối liên quan giữa chức năng thất phải với một số thông số đánh giá mức độ hẹp van động mạch chủ và chức năng thất trái trên siêu âm tim ở nhóm bệnh nhân hẹp van động mạch chủ khít. Đối tượng: BN hẹp van ĐMC khít (theo tiêu chuẩn của hội siêu âm tim hoa kì: vận tốc tối đa qua van ˃ 4m/s, diện tích mở van động mạch chủ < 1cm2, chênh áp trung bình qua van ˃ 40 mmHg) đến khám và điều trị tại Viện tim mạch từ tháng 8/2020-8/2021.Phương pháp nghiên cứu: mô tả cắt ngang chùm ca bệnh. Chọn mẫu thuận tiện. Siêu âm tim đánh giá CN thất phải (TAPSE, FAC, S’, E/e’ thành bên van ba lá, chỉ số Tei mô thất phải, ĐK thất phải). Kết quả: 47 BN hẹp chủ khít đã được nghiên cứu siêu âm tim. Tỷ lệ suy chức năng thất phải toàn bộ (chỉ số Tei mô ˃0,54) là 68,1%, suy chức năng tâm thu (S’< 9,5cm/s ) là 29,8%, (FAC < 35%) là 4,3%. Chỉ số TAPSE có tương quan vừa với vận tốc tối đa qua van động mạch chủ (r= 0,389, p<0,01). FAC, Tei mô thất phải, vận tốc sóng S’ đều có tương quan với chỉ số diện tích van động mạch (r= 0,361; -0,297; 0,302 p<0,05). Đường kính thất phải theo trục dọc (RVD3) có tương quan vừa với vân tốc tối đa qua van động mạch chủ (r= 0,38 p< 0,01) và diện tích van động mạch chủ (r= 0,313 p <0,05), chênh áp tối đa qua van (r= 0,411 p<0,01), chênh áp trung bình qua van (r=0,412 p< 0,01). Các chỉ số TAPSE, FAC, S’, Tei mô thất phải đều có tương quan khá chặt chẽ với phân suất tống máu EF của thất trái với hệ số tương quan lần lượt là (r= 0,512; 0,658; -0,372; 0,409; p< 0,01). Kết luận: Suy chức năng thất phải khá thường gặp ở BN hẹp chủ khít. Chức năng thất phải có tương quan với vận tốc tối đa qua van động mạch chủ (TAPSE), với chỉ số diện tích van đông mạch chủ (FAC, S’, Tei mô) và chức năng tâm thu thất trái .

hẹp van động mạch chủ, siêu âm tim, chức năng thất phải

Siêu âm tim qua thành ngực là kỹ thuật siêu âm tim phổ biến nhất. Trong siêu âm qua thành ngực, một đầu dò được đặt dọc theo bờ trái hoặc bờ phải xương ức, mỏm tim, hõm ức (để nhìn van động mạch chủ, đường ra thất trái và động mạch chủ xuống), hoặc vị trí dưới hõm ức. Siêu âm qua thành ngực cung cấp hình ảnh 2 hoặc 3 chiều của hầu hết các cấu trúc tim chính. TTE là một kỹ thuật hình ảnh tương đối rẻ tiền và không xâm lấn để chẩn đoán chức năng thất trái và chuyển động thành trái, kích thước buồng tim và giải phẫu, chức năng cấu trúc van tim, cấu trúc rễ động mạch chủ và áp lực trong tim.

(POCUS) là siêu âm tim sơ bộ (tập trung vào việc phát hiện tràn dịch màng ngoài tim đáng kể và rối loạn chức năng tâm thất) đôi khi được thực hiện bên giường bệnh của những bệnh nhân nặng trong khoa hồi sức tích cực hoặc khoa cấp cứu; các bác sĩ nội khoa hoặc bác sĩ cấp cứu thường được đào tạo làm siêu âm tim sơ bộ với máy cầm tay vì không phải lúc nào bác sĩ chẩn đoán hình ảnh hoặc chuyên khoa tim mạch có kinh nghiệm cũng sẵn có ở các đơn vị này. Máy cầm tay di động hoạt động như một công cụ sàng lọc tốt để xác định bệnh nhân nào có thể yêu cầu xét nghiệm chi tiết hơn. Với việc mở rộng sử dụng bởi các bác sĩ ít kinh nghiệm, hạn chế chính là bỏ sót các chẩn đoán. Gần đây, các tổ chức xã hội quốc gia đang đưa ra các khuyến nghị về đào tạo về POCUS tim mạch để tạo điều kiện cho việc sử dụng các xét nghiệm chẩn đoán tốt nhất. Các vị trí sử dụng POCUS tim mạch nên phát triển các tiêu chuẩn để sử dụng trong thực hành.

Trong siêu âm tim qua thực quản, một đầu dò trên đầu ống nội soi cho phép quan sát tim từ dạ dày và ống thực quản. Siêu âm tim qua thực quản được áp dụng để chẩn đoán khi siêu âm tim qua thành ngực khó khăn, ví dụ ở bệnh nhân béo phì và ở bệnh nhân COPD. Siêu âm tim qua thực quản cung cấp hình ảnh các cấu trúc bất thường nhỏ một cách rõ ràng hơn (ví dụ, sùi nội mạc cơ tim hoặc còn lỗ bầu dục). Nó cũng cho ta dễ dàng quan sát các cấu trúc ở phía sau gần ống thực quản như nhĩ trái, tiểu nhĩ trái, vách liên nhĩ, giải phẫu tĩnh mạch phổi. Siêu âm tim qua thực quản cũng có thể cung cấp hình ảnh của động mạch chủ lên, hình ảnh của các cấu trúc < 3 mm (ví dụ huyết khối, sùi), và các van nhân tạo.

Trong siêu âm trong buồng tim, một đầu dò gắn ở đầu ống thông (được đưa qua tĩnh mạch đùi vào tim) cho phép quan sát cấu trúc giải phẫu tim. Siêu âm buồng tim có thể được ứng dụng trong quá trình can thiệp tim mạch phức tạp (ví dụ, đóng lỗ thông liên nhĩ hoặc lỗ bầu dục qua da) hoặc trong quá trình thăm dò điện sinh lý học tim. Siêu âm trong buồng tim cung cấp chất lượng hình ảnh tốt hơn và giảm thời gian thủ thuật khi so sánh với siêu âm qua thực quản. Tuy nhiên, siêu âm trong buồng tim nói chung là tốn kém hơn.

Siêu âm hai bình diện được ứng dụng rộng rãi nhất. Siêu âm cản âm và siêu âm Doppler giúp cung cấp thêm nhiều thông tin hơn.

Siêu âm tim cản âm là kỹ thuật siêu âm 2 bình diện được thực hiện trong khi tiêm nhanh một dung dịch nước muối sủi bọt (hoặc một chất cản âm khác vào hệ thống tuần hoàn. Dung dịch nước muối sủi bọt này khi tiêm vào tĩnh mạch sẽ về buồng tim phải. Khi đó, nếu có một lỗ thông ở vách tim, ta sẽ nhìn thấy bọt ở bên buồng tim trái. Thông thường, các bọt cản âm không đi qua hệ mao mạch phổi. Tuy nhiên, có một loại bọt cản âm dạng albumin có thể đi qua hệ mạch phổi về tim trái và từ đó giúp ta nhìn được cấu trúc tim trái, nhất là thất trái.

Siêu âm phổ Doppler giúp ta xác định được vận tốc, hướng, và loại dòng máu. Kỹ thuật này rất hữu ích cho việc phát hiện dòng máu bất thường (ví dụ như trong hở van tim) hoặc vận tốc bất thường của dòng máu (ví dụ như trong hẹp van tim). Siêu âm Doppler không cung cấp các thông tin về không gian ví dụ như kích thước và hình dạng của tim và các cấu trúc của tim.

Siêu âm Doppler màu kết hợp siêu âm tim 2 bình diện và siêu âm Doppler để cung cấp thông tin về kích thước và hình dạng của tim và các cấu trúc của nó cũng như vận tốc và hướng dòng máu qua van và các đường ra của tâm thất. Theo quy ước, màu đỏ để chỉ các dòng máu hướng về phía đầu dò, màu xanh để chỉ dòng máu đi xa khỏi đầu dò.

Siêu âm Doppler mô sử dụng kỹ thuật Doppler để đo vận tốc co bóp của cơ tim (chứ không phải là dòng máu). Sự chuyển động của cơ tim cũng có thể được đánh giá siêu âm tim theo dõi, trong đó sử dụng các thuật toán để theo dõi các vết echo cơ tim (tiếng vang đặc trưng từ cơ tim trong quá trình siêu âm) từ khung này sang khung khác. Hình ảnh về sức căng sử dụng những dữ liệu này để tính toán sức co cơ tim (tỷ lệ phần trăm thay đổi số đo giữa thì co cơ tim và thì giãn cơ tim) và tốc độ co cơ tim (tốc độ thay đổi số đo). Sức co và tốc độ co cơ tim có thể giúp đánh giá chức năng tâm thu và tâm trương và xác định tình trạng thiếu máu cơ tim khi làm nghiệm pháp gắng sức.

Siêu âm tim ba bình diện ngày càng được sử dụng rộng rãi; đầu dò đặc biệt tạo ra một hình ảnh ba chiều trong thời gian thực của giải phẫu và chức năng tim. Siêu âm ba chiều đặc biệt hữu ích trong việc đánh giá bộ máy van hai lá để định hướng cho phẫu thuật. Kỹ thuật này vẫn tiếp tục được nghiên cứu và phát triển tuy nhiên việc ứng dụng rộng rãi ở Mỹ bị hạn chế do vấn đề chi phí.

Siêu âm tim gắng sức rất có giá trị trong việc đánh giá mức độ rối loạn huyết động của dòng máu qua van ở bệnh nhân hẹp van động mạch chủ có triệu chứng đáng kể mà chênh áp qua van khi nghỉ không cao rõ rệt. Siêu âm tim gắng sức và nghiệm pháp gắng sức hạt nhân có giá trị tương đương trong việc phát hiện vùng cơ tim thiếu máu. Việc lựa chọn phương pháp nào phụ thuộc vào tính sẵn có, kinh nghiệm của bác sĩ và giá thành.

Siêu âm tim đánh giá chức năng thất phải năm 2024

Bản quyền © 2024 Merck & Co., Inc., Rahway, NJ, USA và các chi nhánh của công ty. Bảo lưu mọi quyền.

Siêu âm tim hết bao nhiêu tiền?

Hiện nay, theo khảo sát về chi phí cho một lần siêu âm tim sẽ dao động trong khoảng từ 200.000 - 500.000 VNĐ. Mức giá cụ thể sẽ phụ thuộc vào cơ sở thăm khám, thiết bị máy móc, y tế hay trình độ chuyên môn của bác sĩ. Chính vì thế, siêu âm tim giá bao nhiêu có lẽ không còn là vấn đề đáng lo ngại đối với người bệnh.

Khi nào nên đi siêu âm tim?

Thông thường, bác sĩ sẽ chỉ định thực hiện kỹ thuật siêu âm tim đối với những bệnh nhân có xuất hiện các triệu chứng về tim hoặc mạch máu như: loạn nhịp tim, tăng huyết áp, khó thở, đau thắt ngực, khó thở… Bên cạnh đó, những bệnh nhân khi phát hiện ra những dấu hiệu bất thường về tim mạch thông qua các xét nghiệm khác ...

Chỉ số TEI là gì?

Và như vậy chỉ số Tei là tổng của hai tỉ lệ thời gian co đồng thể tích và giãn đồng thể tích thất phải với thời gian tống máu, có thể phản ánh được chức năng toàn bộ thất.

TAPSE trọng siêu âm tim là gì?

TAPSE: biên độ dịch chuyển của vòng van ba lá. MAPSE: biên độ dịch chuyển của vòng van hai lá. CO: cung lượng tim. PAPs: áp lực động mạch phổi tâm thu.