Sự khác nhau giữa phim và truyện vợ chồng a phủ

“Vợ chồng A Phủ” từ trang sách của Tô Hoài đến màn ảnh rộng

Thứ hai, 07/07/2014 - 09:05

(Dân trí) - “Vợ chồng A Phủ” là niềm tự hào của văn học và điện ảnh Việt Nam. “Cú đúp” thành công trên trang sách và trên màn ảnh của “Vợ chồng A Phủ” là nhờ có tài năng của nhà văn - nhà biên kịch Tô Hoài.

“Vợ chồng A Phủ” là một truyện ngắn trong tập “Truyện Tây Bắc” của Tô Hoài viết năm 1953, ngay sau chuyến đi thực tế lên vùng cao của tác giả. Tác phẩm đã xuất sắc giành giải nhất ở thể loại truyện ngắn - giải thưởng do Hội nghệ sĩ Việt Nam trao tặng năm 1954-1955.



Về sau, truyện ngắn xuất sắc này được chuyển thể lên màn ảnh rộng, bộ phim điện ảnh cùng tên, sản xuất năm 1961, đã được chính tác giả Tô Hoài chuyển thể kịch bản. Bộ phim được nhận giải Bông sen bạc trong Liên hoan phim Việt Nam lần II năm 1973.

“Vợ chồng A Phủ” là truyện ngắn đặc sắc trong sự nghiệp văn chương của nhà văn Tô Hoài nói riêng và của văn xuôi chống Pháp nói chung. Truyện là bức tranh miêu tả chân thực và sinh động cuộc sống vùng cao, nơi có những thân phận khổ đau, những con người nghèo khó sống dưới ách áp bức, bóc lột của thực dân, phong kiến.



Không chỉ phản ánh nỗi khổ của những người như Mị, như A Phủ, truyện còn là bài ca ca ngợi những phẩm chất cao đẹp, sức sống mãnh liệt và khát vọng tự do cháy bỏng của những người con nơi núi rừng Tây Bắc.

Nếu trước Cách mạng tháng Tám, Tô Hoài nổi tiếng với tác phẩm “Dế mèn phưu lưu ký”, thì sau Cách mạng tháng Tám, sau khi đã đi theo kháng chiến, Tô Hoài tiếp tục khẳng định tài năng của mình bằng tập “Truyện Tây Bắc”.

“Vợ chồng A Phủ” là truyện ngắn thành công nhất trong ba truyện ngắn viết về đề tài Tây Bắc của nhà văn Tô Hoài. Tác phẩm chứa đựng cả giá trị nghệ thuật, giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo.

Cùng với những bộ phim nổi tiếng như “Làng Vũ Đại ngày ấy”, “Chị Dậu”, “Rừng xà nu”, “Số đỏ”…, “Vợ chồng A Phủ” là một trong những “bộ phim văn học” xuất sắc nhất của điện ảnh Việt Nam. Trong bộ phim chuyển thể từ truyện ngắn, có nhiều chi tiết khác với nguyên tác văn học. Tuy vậy, những giá trị hiện thực, giá trị nhân đạo vẫn được giữ gìn nguyên vẹn.

Giá trị hiện thực của tác phẩm đã được thể hiện trong cuộc sống của người dân lao động miền núi Tây Bắc, dưới ách thống trị tàn bạo của bọn thực dân, phong kiến.


Nữ diễn viên Đức Hoàn trong vai Mị

“Ai ở xa về, có dịp vào nhà thống lý Pá Tra thường trông thấy có một cô gái ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tầu ngựa. Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nước dưới khe suối lên, cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi”.

Mị là người con gái đẹp và tài hoa, Mị “uốn chiếc lá trên môi, thổi lá cũng hay như thổi sáo”, nhưng bông hoa đẹp miền sơn cước đó đã phải chịu một cuộc đời cay đắng, tủi nhục. Để giúp cha trả nợ, cô đã phải chịu cảnh làm con dâu gạt nợ trong nhà thống lý Pá Tra.


Mị lầm lũi nơi góc bếp

Là con dâu, nhưng thực tế, Mị giống như người ở không công cho nhà thống lý. Thân phận Mị còn không bằng thân trâu ngựa, bởi “con trâu, con ngựa làm còn có lúc, đêm nó còn được đứng gãi chân, đứng nhai cỏ, đàn bà con gái ở cái nhà này thì vùi vào việc làm cả ngày lẫn đêm”.

Đó là cái khổ về thể chất, còn cái khổ về tinh thần mới thực đáng sợ. Mị ngày nào còn rạo rực yêu đương, bây giờ lặng câm, “lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”.



Mị đã từng muốn chết mà không được chết, vì Mị chết nhưng nợ của cha vẫn còn, Pá Tra lại bắt cha Mị trả nợ mà cha thì già yếu quá rồi. Nhưng sau khi cha Mị đã chết, Mị lúc này cũng không còn nghĩ đến ăn lá ngón tự tử nữa.

“Ở lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi. Bây giờ Mị tưởng mình cũng là con trâu, mình cũng là con ngựa. Con ngựa chỉ biết ăn cỏ, biết đi làm mà thôi. Mị cúi mặt, không nghĩ ngợi nữa”.

Lúc này, Mị còn đáng thương hơn, bởi muốn chết nghĩa là người ta còn muốn kháng cự một cuộc đời - sống không ra sống, xét cho cùng, là còn rất tha thiết với cuộc sống. Còn khi đã chán cuộc sống đến mức không thiết chết, nghĩa là lúc đó người ta đã thực sự thờ ơ với cuộc sống, lúc đó người ta chỉ còn là một cái xác không hồn.

Nỗi thống khổ, sự tủi nhục mà Mị phải gánh chịu như lớp tro tàn phủ lên, che lấp sức sống tiềm tàng trong Mị. Chỉ cần một luồng gió mạnh, thổi đi lớp tro buồn nguội lạnh ấy, đốm lửa sẽ bùng cháy ngay.

Khát vọng ấy đã bất chợt cháy lên trong một đêm xuân đầy ắp tiếng gọi tình yêu. “Ngoài đầu núi, đã có tiếng ai thổi sáo rủ bạn đi chơi. Mị nghe tiếng sáo vọng lại, thiết tha bồi hồi”...



Cũng như Mị, A Phủ là nạn nhân của chế độ độc tài phong kiến miền núi. A Phủ chịu cảnh đi ở đợ gạt nợ cho nhà thống lý. Chẳng may để hổ vồ mất gia súc nhà thống lý, A Phủ bị trói đứng vào cột chờ chết. Trong nguyên tác văn học, mấy hôm đầu thấy A Phủ bị trói, Mị vô cảm: “A Phủ là cái xác chết đứng đó cũng thế thôi” bởi tâm hồn Mị giờ đây đã tê dại.

Bước ngoặt bắt đầu từ những dòng nước mắt của A Phủ: “Đêm ấy A Phủ khóc. Một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen”. Dòng nước mắt kia đã khiến Mị nhớ mình cũng đã từng bị trói đứng thế kia, Mị cũng đã khóc, “nước mắt chảy xuống cổ, xuống cằm không biết lau đi được”.

Khi chứng kiến A Phủ “chỉ đêm mai là người kia chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải chết”, khi thấy dòng nước mắt của A Phủ “lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen”, Mị đã nhớ lại, thấy thương xót cho chính mình và cho A Phủ, Mị nhận ra “chúng nó thật độc ác”, rằng “người kia việc gì mà phải chết”.


Nam diễn viên Trần Phương trong vai A Phủ

Mị cởi trói cho A Phủ để rồi bất ngờ chạy theo A Phủ. Tình yêu cuộc sống như được thổi bùng lên trong Mị. Mị như tìm lại được con người thật đã bị lãng quên bấy lâu, đầy sức sống và khát khao thay đổi số phận.

Trong phim, A Phủ trốn được khỏi Hồng Ngài, tới khu du kích Phiềng Sa. A Phủ trở thành chiến sĩ du kích, tích cực tham gia vào cuộc đấu tranh giải phóng quê hương với hy vọng sẽ một ngày quay về giải phóng Hồng Ngài, tìm lại được Mị.


A Phủ bên người đồng đội A Sinh (nam diễn viên Trịnh Thịnh)

Từ đấu tranh tự phát, A Phủ đã tiến đến cuộc đấu tranh tự giác. Từ bóng tối của cuộc đời đau khổ, tủi nhục, anh đã vươn tới ánh sáng của nhân phẩm, tự do và con đường cách mạng. A Phủ đã quay trở về giải thoát cho cuộc đời Mị và đem lại hạnh phúc đôi lứa cho cả hai người.



Nhà văn Tô Hoài đã viết về Mị, về A Phủ với tất cả lòng yêu thương, cảm thông bằng một ngòi bút chất chứa lòng nhân đạo. Sau này, ông lại góp phần đưa họ trở thành những biểu tượng của một nền điện ảnh Cách mạng.

Clip giới thiệu ca khúc trong phim "Vợ chồng A Phủ", chuyển thể từ tác phẩm văn học của nhà văn Tô Hoài

Bích Ngọc
Tổng hợp

ĐANG ĐƯỢC QUAN TÂM

Ra mắt sách "Những người phụ nữ bé nhỏ" với 4 phiên bản độc đáo

Bố con ông Tấn "Hương vị tình thân" đóng phim "Đại thi hào Nguyễn Du"

Dàn diễn viên gạo cội phim "Sao Tháng Tám" bây giờ ra sao?

Diễn viên Mạnh Trường đóng vai Bác Hồ: Niềm vinh dự lớn trong sự nghiệp

Em bé nổi tiếng trong "Cánh đồng hoang" trở thành tỷ phú nông dân

Vinh danh 16 tác phẩm xuất sắc nhất cuộc thi viết "Làng Việt thời hội nhập"

"Chân dung Madam Phương" có giá 72 tỷ đồng: Kỷ lục mới của hội họa Việt Nam

Cậu bé 13 tuổi đạt giải "Khát vọng Dế Mèn"

Nghệ thuật chuyển thể tác phẩm văn học sang điện ảnh nhìn từ phương diện cốt truyện và nhân vật (qua trường hợp Vợ chồng A Phủ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (974.87 KB, 66 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN

PHẠM THỊ HIỀN

NGHỆ THUẬT CHUYỂN THỂ
TÁC PHẨM VĂN HỌC SANG
ĐIỆN ẢNH TỪ PHƯƠNG DIỆN
CỐT TRUYỆN VÀ NHÂN VẬT
(QUA TRƯỜNG HỢP VỢ CHỒNG
A PHỦ)
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Lí luận văn học

HÀ NỘI – 2017


LỜI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành cảm ơn sâu sắc TS. Nguyễn Thị Kiều Anh đã hướng
dẫn, góp ý trao đổi về phương pháp luận, nội dung nghiên cứu và các hướng
dẫn khoa học khác mà còn động viên, khích lệ để tôi hoàn thành khóa luận
một cách tốt nhất. Đồng thời, tôi cũng xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo
trong khoa Ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 đã tạo mọi điều kiện
để tôi hoàn thành việc nghiên cứu và hoàn thiện khóa luận.


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi và được sự
hướng dẫn khoa học của TS. Nguyễn Thị Kiều Anh. Các nội dung nghiên
cứu, kết quả trong đề tài này là trung thực và chưa công bố dưới bất kỳ hình
thức nào trước đây. Nếu sai tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.



Hà Nội, ngày 27 tháng 04 năm 2017
Sinh viên

Phạm Thị Hiền


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài ......................................................................................... 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề .......................................................................... 3
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu .............................................................. 5
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu............................................................... 6
5. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................ 6
6. Bố cục của khóa luận.................................................................................. 6
CHƯƠNG 1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TỰ SỰ HỌC VÀ HIỆN
TƯỢNG CHUYỂN THỂ TÁC PHẨM ....................................................... 7
1.1. Giới thiệu về tự sự học và chuyển thể tác phẩm ....................................... 7
1.2. Khái niệm, đặc trưng và vai trò của cốt truyện trong tác phẩm văn học và
tác phẩm điện ảnh........................................................................................... 9
1.2.1. Khái niệm về cốt truyện trong tác phẩm văn học

9

1.2.1.1.Khái niệm…………………………………………………………..... 9
1.2.1.2. Đặc trưng và vai trò của cốt truyện trong tác phẩm văn học............. 11
1.2.2. Khái niệm về cốt truyện trong tác phẩm điện ảnh ............................... 12
1.2.2.1.Khái niệm ......................................................................................... 12
1.2.2.2. Đặc trưng và vai trò của cốt truyện trong phim…………………….12
1.3. Khái niệm, đặc trưng và vai trò của nhân vật trong tác phẩm văn học và


tác phẩm điện ảnh......................................................................................... 14
1.3.1. Khái niệm, đặc trưng và vai trò của nhân vật trong tác phẩm văn học 14
1.3.1.1. Khái niệm ........................................................................................ 13
1.3.1.2. Đặc trưng và vai trò của nhân vật trong tác phẩm văn học ............... 15
1.3.2. Khái niệm, đặc trưng và vai trò của nhân vật trong tác phẩm điện ảnh 16
1.3.2.1. Khái niệm ........................................................................................ 16
1.3.2.2. Đặc trưng và vai trò của nhân vật trong phim .................................. 17


1.4. Giới thiệu về truyện ngắn Vợ chồng A Phủ trên bình diện tác phẩm văn
học và điện ảnh ............................................................................................ 18
1.4.1. Vài nét về tác giả Tô Hoài .................................................................. 18
1.4.2. Truyện ngắn Vợ chồng A Phủ trên bình diện tác phẩm văn học và điện
ảnh ............................................................................................................... 19
CHƯƠNG 2. NGHỆ THUẬT CHUYỂN THỂ TÁC PHẨM VĂN HỌC
SANG ĐIỆN ẢNH NHÌN TỪ CỐT TRUYỆN ......................................... 22
2.1. Những tiếp thu, bổ sung và sáng tạo cốt truyện Vợ chồng A Phủ của Tô
Hoài ............................................................................................................. 22
2.1.1. Những tiếp thu từ tác phẩm văn học ................................................... 23
2.1.2. Những bổ sung và sáng tạo từ cốt truyện của tác phẩm....................... 24
2.2. Một số hạn chế ...................................................................................... 28
2.3. Xử lý tình huống truyện......................................................................... 28
2.4. Nghệ thuật chuyển qua việc xây dựng không gian – thời gian ............... 32
2.5. Nghệ thuật chuyển thể qua mở đầu và kết thúc ...................................... 44
CHƯƠNG 3. NGHỆ THUẬT CHUYỂN THỂ TÁC PHẨM VĂN HỌC
SANG ĐIỆN ẢNH NHÌN TỪ NHÂN VẬT .............................................. 47
3.1. Nghệ thuật chuyển thể nhân vật qua hệ thống ........................................ 47
3.2. Nghệ thuật chuyển thể nhân vật qua hành động, tính cách ..................... 49
3.3. Nghệ thuật chuyển thể nhân vật qua ngôn ngữ ...................................... 52
KẾT LUẬN ................................................................................................. 59


TÀI LIỆU THAM KHẢO


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Trong thực tế, chúng ta thấy rằng, điện ảnh là nghệ thuật ra đời
muộn nhất. Vì vậy, nó tiếp thu được các giá trị tinh hoa của các ngành nghệ
thuật khác. Tuy nhiên ảnh hưởng lớn nhất tới điện ảnh là văn học. Các tác
phẩm văn học luôn là nguồn chất liệu dồi dào và phong phú cho những nhà
làm phim khai thác để tạo nên các tác phẩm điện ảnh. Trên thế giới hầu hết
các phim được làm ra đều dựa trên chất liệu văn học, xét riêng điện ảnh Việt
Nam cũng không ít những tác phẩm được chuyển thể từ các tác phẩm văn
học. Bởi điện ảnh khó vượt qua được sức hấp dẫn từ kho tàng văn học phong
phú và giá trị được làm đầy qua hàng nghìn năm lịch sử.
Có lẽ khán giả sẽ chẳng thể quên được những bộ sử thi đồ sộ như: bản
hùng ca Iliát và Ôđixê, Thần thoại Hi Lạp,… Hay những câu chuyện mang
đậm tính nhân văn sâu sắc trong truyện cổ Grim, truyện cổ Andersen cho đến
những tác phẩm kinh điển như: Chiến tranh và hòa bình (L. N. Tônxtôi),
Cuốn theo chiều gió (M. Mitchen),… Ngoài ra phải kể đến những đạo diễn
Trung Hoa với những bộ phim nổi tiếng như : Tam quốc diễn nghĩa (La Quán
Trung), Thủy Hử (Thi Nại Am), Tây Du Ký (Ngô Thừa Ân),…
Trước sự phát triển của điện ảnh thế giới, điện ảnh Việt Nam cũng đã
tiếp thu những giá trị tinh hoa của thế giới trong việc xuất hiện mối tương tác
giữa văn học và điện ảnh. Trong các bộ phim đầu tiên của nước ta sản xuất
vào những năm 20 của thế kỉ trước như Kim Vân Kiều (1923), cho đến những
bộ phim gắn với những năm tháng kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ của
dân tộc như Chung một dòng sông (1959), Vật kỷ niệm,… Đặc biệt người xem
khó có thể quên được hình bóng cô Mị do diễn viên Đức Hoàn đã hóa thân
thành công trong bộ phim của nhà văn Tô Hoài chuyển thể kịch bản từ tác
phẩm cùng tên Vợ chồng A Phủ (1961). Trong những năm gần đây, dưới sự



1


đầu tư công phu của các biên kịch và đạo diễn tài năng đã tạo nên nhiều bộ
phim gây tiếng vang lớn như: Hương ga (2014) chuyển thể từ tiểu thuyết
Phiên bản của nhà văn Nguyễn Đình Tú, phim Quyên (2015) được chuyển thể
từ tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Nguyễn Văn Thọ và đáng chú ý là bộ
phim Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh (2015) chuyển thể từ cuốn sách cùng tên
của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh như mang một hương vị mới vào phim chuyển
thể của Việt Nam, làm phong phú thêm đời sống tinh thần của nhân dân và
hứa hẹn nhiều bất ngờ, hấp dẫn trong các bộ phim sắp tới.
1.2. Tự sự học là một ngành nghiên cứu còn non trẻ, được định hình từ
những năm 60- 70 của thế kỷ XX ở Pháp, nhưng nhanh chóng vượt ra ngoài
biên giới và có nhiều đóng góp quan trọng trong nghiên cứu khoa học cơ bản.
Nó còn được vận dụng vào nhiều hình thức tự sự khác như: tôn giáo, lịch sử,
triết học, âm nhạc, mỹ thuật, điện ảnh,… Roland Bathes đã từng nói đại ý tự
sự xuất hiện cùng bản thân lịch sử loài người. Trong đó, tự sự học là đối
tượng nghiên cứu lâu đời và phức tạp nhất. Mà điện ảnh lại ra đời muộn, nên
tự sự điện ảnh là em út trong nghiên cứu tự sự học. Nhưng giữa diện ảnh và
văn học có sự kết nối tạo nên mối quan hệ hữu cơ khi so sánh tự sự văn học
với tự sự điện ảnh, mặc dù giữa chúng có nhiều điểm chung nhưng cũng có
không ít điểm khác biệt vì phương thức tác động và chất liệu của hai loại hình
nghệ thuật là khác nhau.
1.3. Mặt khác, người viết với niềm yêu thích văn chương và điện ảnh
mong muốn khám phá sâu hơn vào địa hạt của hai lĩnh vực này, bổ sung cho
mình cũng như những người yêu văn chương và điện ảnh có thêm những kiến
thức quý báu, phát hiện ra vẻ đẹp bí ẩn đằng sau “tảng băng trôi” của mỗi tác
phẩm văn học và điện ảnh. Đồng thời cũng mong muốn tìm ra bí quyết để
một bộ phim chuyển thể từ tác phẩm văn học sang một tác phẩm điện ảnh có


thể thành công từ góc nhìn cốt truyện và nhân vật. Từ những lý do trên, chúng

2


tôi đã chọn đề tài “Nghệ thuật chuyển thể tác phẩm văn học sang điện ảnh
nhìn từ phương diện cốt truyện và nhân vật (qua trường hợp Vợ chồng A Phủ)
cho khoá luận của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Lịch sử nghiên cứu mối quan hệ giữa văn học và điện ảnh
Sự phát triển như vũ bão của kỹ thuật nghe nhìn đã tạo ra cho công
chúng những nhu cầu thưởng thức văn học nghệ thuật theo cách mới mẻ. Điện
ảnh là ngành nghệ thuật đáp ứng đầy đủ nhu cầu mới này bởi điện ảnh tích
hợp được những đặc tính ưu việt của các ngành nghệ thuật khác từ âm nhạc,
hội hoạ, văn học… Các nhà làm phim hoàn toàn có thể làm cho tác phẩm điện
ảnh của mình thành công hơn nếu biết vận dụng càng nhiều sức sáng tạo của
kỹ thuật phim ảnh cũng như sự tham gia của các: kịch gia, diễn viên, nhạc sĩ,
hoạ sĩ… để biến những con chữ trong trang văn trở thành những thực thể sinh
động, có hồn. Chính vì vậy, mối quan hệ đa chiều giữa văn học và điện ảnh là
một thực tế sống động không thể phủ nhận. Ngay từ những ngày đầu có mối
giao duyên ấy, nhiều nhà lí luận đã khẳng định: bên cạnh quá trình điện ảnh
hấp thụ và cải tiến những kinh nghiệm nghệ thuật của văn học, một hiện
tượng không kém phần quan trọng là tác động ngược lại rất to lớn của điện
ảnh đối với văn học. Nghiên cứu về mối quan hệ này, cuốn Văn học với điện
ảnh (Mai Hồng dịch, NXB Văn học, 1961) là cuốn sách tập hợp những bài
giảng của M.Rôm, I. Khây-phít-xơ, E. Ga-bơ-ri-lô-vi-trư đã đưa ra mấy đặc
trưng quan trọng trong việc viết truyện phim, đặc điểm thành phần văn xuôi
trong truyện phim… nhằm “nâng cao tác dụng của văn học trong điện ảnh, để
sáng tạo những truyện phim và những bộ phim kiểu mới thể hiện đời sống vô
cùng phong phú một cách chân thực”. Cuốn sách mới chỉ dừng lại ở mặt gợi mở


cho những nhà làm phim khi chuyển thể từ tác phẩm văn học chứ chưa chỉ ra
một cách có hệ thống và chuyên sâu mối quan hệ giữa văn học với điện ảnh.

3


Bên cạnh đó, cuốn Dẫn luận và nghiên cứu “ Điện ảnh và văn học”
(Timothy Corrigan) đã đưa ra khá nhiều điểm đồng thuận cũng như khác biệt
giữa văn học và điện ảnh trên cơ sở tái hiện một loạt giai đoạn lịch sử, các
phong tục văn hóa và phương pháp phê bình. Điều này giúp các nhà nghiên
cứu có được cái nhìn tổng quan về hai loại hình nghệ thuật này. Tuy nhiên,
xét về góc độ cốt truyện và nhân vật có ý nghĩa như thế nào trong việc chuyển
thể dường như vẫn chưa được người viết chú trọng.
Ngoài ra, báo chí cũng có một số bài viết về vấn đề này như trên báo
Người lao động online có bài Văn học – điện ảnh: Hiệu ứng cộng sinh
(http:nld.com.vn/van-hoa-van-nghe/van-hoc-dien-anh-hieu-ung-cong-sinh
2010112712436129.htm) nói về ảnh hưởng của mối quan hệ này đồng thời
chỉ ra áp lực của nhà làm phim trước dư luận khi chuyển thể một bộ phim từ
tác phẩm văn học nổi tiếng,…
Mỗi công trình nghiên cứu hay bài báo của các tác giả đi trước dù là ở
góc độ nào cũng là những tư liệu quý báu để chúng tôi có có cách nhìn tổng
quát và toàn diện, sâu sắc hơn về vấn đề chuyển thể tác phẩm văn học sang
tác phẩm điện ảnh. Đặc biệt, trong quá trình nghiên cứu, lý thuyết của ngành
tự sự học giúp chúng tôi có “bộ công cụ cơ bản nhất, sắc bén nhất giúp cho
người ta có thể đi sâu vào các lĩnh vực nghiên cứu điện ảnh, giao tiếp, phương
tiện truyền thông, nghiên cứu văn hóa” [ 2, tr.11]. Từ đó, chúng tôi có thêm
những hiểu biết trong việc so sánh giữa các nghành nghệ thuật, đây cũng là
phương tiện quan trọng để chúng tôi tìm ra những điểm tương đồng và khác
biệt giữa hai loại hình tự sự trên và phát hiện, lý giải được quá trình chuyển
thể tác phẩm văn học sang tác phẩm điện ảnh.



4


3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Từ việc tìm hiểu và phân tích nghệ thuật chuyển thể tác phẩm văn học
sang điện ảnh từ phương diện cốt truyện và nhân vật (qua trường hợp Vợ
chồng A Phủ), chúng tôi xem xét mối quan hệ đa chiều giữa văn học và điện
ảnh. Qua đó chỉ ra được những điểm tương đồng và khác biệt giữa tác phẩm
văn học và điện ảnh. Đồng thời thấy được những thành công và hạn chế của
kịch bản bộ phim do nhà văn Tô Hoài chuyển thể từ tác phẩm của mình và
phần nào tìm hiểu được phong cách độc đáo của nhà văn.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Thông qua phim truyện điện ảnh chuyển thể, mối quan hệ giữa văn học
và điện ảnh ngày càng trở nên gắn bó và giá trị của tác phẩm văn học một lần
nữa được khẳng định và thăng hoa. Cho nên, việc nghiên cứu tác phẩm văn học
và điện ảnh nhằm đúc kết lí luận và thực tiễn, đưa ra một số nhiệm vụ sau:
- Đánh giá những ảnh hưởng tác động to lớn và tích cực của lý luận văn
học và tác phẩm văn học trong việc xây dựng kịch bản văn học điện ảnh
và phim truyện chuyển thể điện ảnh qua phương diện cốt truyện và
nhân vật qua trường hợp Vợ chồng A Phủ .
- Phân tích sự tương đồng gần gũi và khác biệt cơ bản giữa tác phẩm
văn học và phim truyện điện ảnh, để từ đó thấy được quá trình sáng tạo nghệ
thuật trong văn chương và điện ảnh đều vô cùng vất vả, đòi hỏi người nghệ sĩ
phải có ý thức, tinh thần trách nhiệm cao.
- Qua đó, giúp chúng ta thêm yêu nghệ thuật có thêm sự hiểu biết sâu
sắc về công việc của các tác giả sáng tạo ra những tác phẩm nghệ thuật.

5




4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Nghệ thuật chuyển thể tác phẩm văn học sang điện ảnh từ phương diện
cốt truyện và nhân vật (qua trường hợp Vợ chồng A Phủ)
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Tác phẩm Vợ chồng A Phủ trong Truyện Tây Bắc - Tô Hoài.
- Bộ phim chuyển thể Vợ chồng A Phủ (biên kịch: Tô Hoài; đạo diễn:
Trần Phương).
5. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp liên ngành: vận dụng các nghiên cứu trong lĩnh vực lịch
sử, văn học,văn hóa, điện ảnh,..
- Phương pháp phân tích tổng hợp: từ việc phân tích những nghiên cứu
về nhân vật và cốt truyện trong văn học và điện ảnh, sau đó chúng tôi tổng
hợp và đưa ra những ý kiến đánh giá riêng về việc chuyển thể tác phẩm văn
học sang tác phẩm điện ảnh.
- Phương pháp so sánh, đối chiếu: vận dụng phương pháp này giúp
người viết có cái nhìn thấu đáo, sâu sắc khi phân tích tác phẩm gốc và tác
phẩm chuyển thể.
- Thao tác thống kê, phân loại được sử dụng linh hoạt trong từng luận
điểm của luận văn,…
6. Bố cục của khóa luận
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, nội dung luận văn
gồm 3 phần:
Chương 1: Khái quát chung về tự sự và hiện tượng chuyển thể tác
phẩm.
Chương 2: Nghệ thuật chuyển thể tác phẩm văn học sang điện ảnh nhìn
từ cốt truyện.
Chương 3: Nghệ thuật chuyển thể tác phẩm văn học sang điện ảnh nhìn


từ nhân vật.

6


NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TỰ SỰ HỌC
VÀ HIỆN TƯỢNG CHUYỂN THỂ TÁC PHẨM

1.1. Giới thiệu về tự sự học và chuyển thể tác phẩm
Tự sự học có nguồn gốc từ truyền thống lí luận tự sự phương Tây có
thể truy đến cùng từ thời Platon và Aristotle nhưng phải đến thời Tezvetan
Todorov, một trong những đại biểu lớn của Cấu trúc luận Pháp xuất bản Ngữ
pháp Câu chuyện mười ngày (1969), ngành nghiên cứu này mới chính thức
có danh xưng Tự sự học và trở thành một ngành nghiên cứu có tính độc lập vì
nội hàm văn hóa của nó.
Tự sự học là bộ môn nghiên cứu liên ngành giàu tiềm năng vì “ nghiên
cứu tự sự học phải liên kết với ngôn ngữ học, sử học, nhân loại học. Tự sự
học không đóng khung trong tiểu thuyết mà vận dụng cả vào các hình thức
“tự sự” khác, như tôn giáo, lịch sử, điện ảnh,khoa học, triết học, chính trị. Nó
là một ngành văn hóa, bởi vì các hình thức tự sự khác nhau có thể chung với
nhau những nguyên tắc siêu tự sự”. [2, tr. 12]. Trải qua quá trình phát triển
lâu dài với cuộc đấu tranh của nhiều trường phái, tự sự học hiện đại bắt đầu
được hình thành từ cuối thế kỉ XX, chia làm ba thời kì: tự sự học trước chủ
nghĩa cấu trúc, tự sự học cấu trúc chủ nghĩa và tự sự học nghiên cứu các thành
phần và chức năng của tự sự.
Nhìn chung, có nhiều trường phái định nghĩa khác nhau về ngành tự sự
học, nhưng tóm lại nội dung chính của ngành này là nghiên cứu cấu trúc văn
bản tự sự và những vấn đề liên quan. Tự sự học phân biệt rõ giữa việc kể “cái


gì” và “kể như thế nào”. Từ đó cho thấy sự phức tạp của cấu trúc tự sự, vấn

7


đề ý thức của chủ thể tự sự, kết cấu của tầng bậc trần thuật, loại hình cốt
truyện,…Những điều này sẽ là cơ sở lý luận để chúng tôi khám phá việc
chuyển thể tác phẩm văn học sang điện ảnh qua lăng kính tự sự ở hai góc
nhìn: cốt truyện và nhân vật, để thấy rõ những điểm tương đồng và khác biệt,
kế thừa và cách tân giữa hai loại hình tự sự này.
Liên văn bản là khái niệm mà nhiều ngành nghệ thuật dùng để nói về
mối quan hệ qua lại, tác động của những tác phẩm nghệ thuật. Người ta chia
làm hai loại liên văn bản: kinh điển và hậu hiện đại. Xét trong góc độ văn học,
khái niệm này có thể được hiểu theo: chiều ngang( chủ thể - người tiếp nhận)
và chiều dọc ( văn bản – văn cảnh) được xuất hiện không chỉ trong tác phẩm
gốc mà có sự liên kết trong nhiều tác phẩm khác nhau. Liên văn bản góp phần
xóa đi ranh giới giữa các thể loại. Tiêu biểu như trong đề tài chiến tranh, khi
các nhà làm phim tái hiện lại lịch sử trên màn ảnh dựa trên tư liệu lịch sử có
sự kết hợp với các yếu tố âm nhạc, mỹ thuật, văn học cũng có điểm khác biệt
dù có khi vay mượn của nhau. Vậy nên, trong trào lưu hậu hiện đại, khái niệm
liên văn bản sẽ có những cách đọc hiểu văn bản khác nhau. Một kịch bản điện
ảnh được chuyển thể từ tác phẩm điện ảnh là một dẫn chứng điển hình cho
việc xóa nhòa đi ranh giới của văn bản.
Cải biên cũng là một dạng của liên văn bản, trong đó khai thác, sang lọc
những yếu tố cơ bản của tác phẩm gốc để sáng tạo ra một sản phẩm mới. Bằng
việc chuyển từ cách đọc này sang cách đọc khác, từ tác phẩm văn học là sản
phẩm của ngôn từ sang điện ảnh là sự kết hợp của nhiều yếu tố. Cải biên là sự
sáng tạo trên cái gốc (tác phẩm văn học) để tạo ra một tác phẩm điện ảnh có
giá trị.


8


1.2. Khái niệm, đặc trưng và vai trò của cốt truyện trong tác phẩm văn học
và tác phẩm điện ảnh
1.2.1. Khái niệm về cốt truyện trong tác phẩm văn học
1.2.1.1. Khái niệm
Trong cuốn Lý luận văn học, do Hà Minh Đức chủ biên đã nhận định
rằng: “Cốt truyện là một hệ thống các sự kiện phản ánh những diễn biến của
cuộc sống, và nhất là những xung đột xã hội một cách nghệ thuật, qua đó, các
tính cách hình thành và phát triển trong những mối quan hệ qua lại của chúng
nhằm sáng tỏ tư tưởng và chủ đề của tác phẩm” [3 , tr.29].
Theo Aristos – người đặt nền móng cho lý thuyết nghiên cứu cốt
truyện: “Cốt truyện là cơ sở, là linh hồn của của bi kịch, sau đó mới đến tính
cách” [4, tr. 13]. Đến L.I.Timofeep, nhận định về cốt truyện trong sự tương
quan với các yếu tố khác của kết cấu tác phẩm nghệ thuật ngôn từ, ông cho
rằng, khi mà các tính cách luôn đóng vai trò “người trung gian” độc đáo giữa
nhà văn và cuộc sống do nhà văn phản ánh thì cốt truyện chính là hệ thống
biến cố mà suy cho cùng những biến cố đó phải phản ánh những mâu thuẫn
và xung đột xã hội.
Hướng nghiên cứu thứ hai là của các nhà nghiên cứu thuộc trường
phái hình thức Nga. Trên quan điểm “nghệ thuật như là thủ pháp”, “chính sự
sáng tạo ra những thủ pháp nghệ thuật sẽ làm phục sinh từ ngữ”, các nhà
nghiên cứu cho rằng để có thể tiếp cận với tính văn của tác phẩm nghệ thuật
thì chúng ta phải “đối xử với tác phẩm văn học như một đối tượng được chế
tác”, nghĩa là như một tổng số các thủ pháp. Nghệ thuật tư duy bằng hình
tượng, song phạm trù đánh dấu sự phát triển của lịch sử văn học phải là lịch
sử của những thủ pháp, chính “những hình thức nghệ thuật mới mới có thể
đem lại cho con người niềm vui sống trên thế gian này, làm phục sinh các sự
vật và thủ tiêu chủ nghĩa bi quan”.



9


B. Tomachevski với tiểu luận Hệ chủ đề, là một trong những người
đầu tiên đi sâu nghiên cứu các thủ pháp cốt truyện. B. Tomachevski phân
biệt khái niệm chuyện kể (fabula, fable) và cốt truyện (sinzhet, subject) khác
với cách phân biệt của A. Veselovski, G.N.Popspelov, L.I.Timofeep. Theo
ông, chuyện kể là tập hợp những biến cố có quan hệ với nhau được thông tin
cho người đọc trong suốt chiều dài tác phẩm, nó có thể được tóm tắt theo trật
tự biên niên hay nhân quả của các biến cố mà không phụ thuộc vào thứ tự
được trình bày. Còn cốt truyện thì đi theo trình tự xuất hiện của các biến cố
trong tác phẩm. Nói cách khác, mối quan hệ giữa các biến cố trong chuyện
kể mang tính thời gian và đi từ nguyên nhân đến kết quả, còn cốt truyện lại
liên kết các môtip theo trình tự xuất hiện trong tác phẩm, và như thế nó hoàn
toàn là một sản phẩm được chế tác, có tính nghệ thuật.
V. Shklovski triển khai việc nghiên cứu các thủ pháp xây dựng văn tự
sự trong các tiểu luận: Nghệ thuật như là thủ pháp; Nghệ thuật dựng truyện
vừa, truyện ngắn và tiểu thuyết. Theo V. Shklovski, nói chung, nhiều tác
phẩm tự sự được xây dựng theo kiểu các chủ đề quán xuyến tích tụ lại thành
các trung tâm nối tiếp nhau như các “chiếu nghỉ cầu thang”. Và cấu trúc
“xoắn ốc” hay “chiếu nghỉ cầu thang” được phức tạp hoá bằng các phát triển
đa dạng, trong đó các tình tiết được sắp xếp thành những tầng nấc kế tiếp
nhau. Chủ đề quán xuyến của truyện có thể được hình thành từ những mâu
thuẫn, phát sinh trên cơ sở của sự trái ngược, của điều không thể xảy ra...
Sơ lược việc điểm qua những nét chính trong quan điểm của các nhà
lý luận trên thế giới về việc nghiên cứu cốt truyện chúng ta có thể nhận ra
tầm quan trọng cũng như sự phức tạp của vấn đề. Điều này trước hết có lẽ
bắt nguồn từ việc hiểu phạm trù khái niệm cốt truyện.


10


1.2.1.2. Đặc trưng và vai trò của cốt truyện trong tác phẩm văn học
Cốt truyện là thành phần nòng cốt trong văn xuôi tự sự, đặc biệt là
trong truyện ngắn. Do đó, nhà văn cần phải tiết chế việc dùng các sự kiện,
chi tiết,…để tạo ra các tình huống độc đáo. Cốt truyện là yếu tố cơ bản để
tạo nên một tác phẩm hay, hấp dẫn và có giá trị. Trong tác phẩm tự sự truyền
thống, nhà văn đặc biệt quan tâm và chuẩn bị kĩ càng trong việc tạo ra các
cốt truyện chuẩn mực. Trong văn học cổ điển, truyện phải có chuyện, cốt
truyện càng công phu bao nhiêu thì chất lượng tác phẩm càng tăng bấy
nhiêu. Chính những cốt truyện li kỳ, độc đáo đã làm nên sức lôi cuốn cho tác
phẩm tự sự. Một mặt, cốt truyện là một phương tiện bộc lộ nhân vật, nhờ cốt
truyện, nhà văn thể hiện sự tác động qua lại giữa các tính cách nhân vật. Mặt
khác, cốt truyện là phương tiện để nhà văn tái hiện xung đột xã hội.
Truyện ngắn hiện đại lại có những nét khác, câu chuyện được viết ra
đôi khi không cần đề cập đến những vấn đề to tát, thậm chí còn không có
chuyện để kể nhưng nó vẫn thành truyện. Có thể thấy, trong văn xuôi hiện
đại khi cốt truyện không chỉ có những hành động bên ngoài, những sự kiện
bề nổi, mà còn có những hành động bên trong, những sự kiện tâm lý. Mục
đích lớn nhất của cốt truyện hiện đại là tạo được ấn tượng sâu đậm trong
lòng độc giả và đem cho họ những suy ngẫm, liên tưởng về nhiều vấn đề của
đời sống.
Vậy nên, những quan niệm về cốt truyện sẽ thay đổi theo thời gian,
nhưng có lẽ vai trò, ý nghĩa của nó đối với tác phẩm tự sự thì không hề thay
đổi. Cốt truyện hấp dẫn, giá trị sẽ luôn thu hút các nhà làm phim đầu tư vào
việc chuyển thể tác phẩm sang điện ảnh.

11



1.2.2. Khái niệm về cốt truyện trong tác phẩm điện ảnh
1.2.2.1.Khái niệm
Cốt tuyện trong phim bao gồm tất cả những sự kiện của câu chuyện
được mô tả trực tiếp trên phim, được sắp xếp một cách có tổ chức, hay “một
chuỗi những sự kiện trong một mối liên hệ nhân quả xảy ra trong không gian
và thời gian” [5, tr. 95].
Có thể có những nhìn nhận khác nhau về cốt truyện. Nhưng căn cứ vào
thực tiễn của chính phim truyện thì chúng ta có thể thấy cốt truyện của phim
(và việc xây dựng nó) chính là một khâu rất quan trọng trong sáng tác điện
ảnh. Nhận diện rõ về cốt truyện đồng thời khám phá những nguyên lý, những
khả năng căn bản phổ biến của việc xây dựng cốt truyện, người làm phim và cả
người thưởng thức phim có thể nắm vững hơn về bộ phim sắp làm, sắp xem.
Cốt truyện có vai trò cơ bản là làm tiền đề để kể tả. Người làm phim
khó có thể diễn đạt một câu chuyện nào đó mà không thông qua việc xây
dựng cốt truyện (trừ dạng phim ít dựa vào cốt truyện). Mới mẻ, độc đáo, hay,
hấp dẫn, chứa đựng ý tưởng quan trọng hoặc đặc biệt. Đây là yêu cầu một số,
đồng thời không dễ dàng đối với cốt truyện. Chính vì vậy, các nhà, các hãng
sản xuất phim luôn săn tìm, để ý đến số lượng lớn những kịch bản gửi đến
nhưng thường chỉ lọc lựa ra được không nhiều các kịch bản đáp ứng yêu cầu
này. Đối với các nhà làm phim thường thường họ cũng không nghĩ ra hoặc
làm được nhiều kịch bản cũng như phim đảm bảo yêu cầu này (trừ một vài
nghệ sĩ có tài năng lớn như Trương Nghệ Mưu hoặc S.Spielberg...).
1.2.2.2. Đặc trưng và vai trò của cốt truyện trong phim
Để rút gọn hơn vào nhìn nhận của những người nghiên cứu cũng như
sáng tác chuyên nghiệp - coi phim là một tác phẩm nghệ thuật, là một sản
phẩm văn hóa cao cấp phục vụ khán giả - thì hay, độc đáo, mới mẻ, hấp dẫn là
những tiêu chí ở yêu cầu cao về nội dung tư tưởng và nghệ thuật. Đã là cao thì

12




trình độ nhìn nhận thẩm định cũng phải cao mới nhận định được. Chẳng thế
mà người ta có câu: Phải có cặp “mắt xanh”, phải biết đãi cát tìm vàng, phải
có cái đầu và cả trái tim dồi dào hiểu biết và nhiệt tâm, công tâm... trong thái
độ xem xét cũng như sáng tác thưởng thức phim. Đương nhiên bất kỳ khái
niệm và tiêu chí (trong khoa học xã hội) nào cũng đều có tính chất tương đối
và tất cả tính tương đối ấy “co dãn” đến đâu đều phụ thuộc vào trình độ nhận
thức của từng cá nhân. Điều này cho thấy có những bộ phim, những cốt
truyện rất có giá trị thoạt xem thường gây tranh cãi: Người bảo nó hay, người
chê nó dở, người tán thành ủng hộ, kẻ hết lời đả phá... Do đó, có những ý
tưởng kịch bản từng chịu số phận trắc trở long đong hoặc đành nằm im trên
giấy bởi cách nhìn nhận chưa đúng đắn về nó. Có những kịch bản cơ sở làm
phim này chê nhưng khi được cơ sở khác tiếp nhận thì đã được hoan nghênh
và phim làm theo kịch bản đó đoạt giải hoặc được dư luận thích, khán giả
hưởng ứng. Thực tiễn sáng tạo điện ảnh nước ta và thế giới chứng minh rất rõ
vấn đề này.
Từ mấy điều mở rộng ở trên có thể kết luận: Để biết thế nào là hay, độc
đáo hấp những người làm phim và cả người thưởng thức, thẩm định phim đều
cần không ngừng nâng cao trình độ hiểu biết về phim truyện nói riêng và văn
hóa nghệ thuật cũng như đời sống nói chung.
Một cốt truyện có giá trị còn phải là cốt truyện chứa đựng nhiều tiềm
năng tốt cho việc biểu đạt của các yếu tố cấu thành thuộc ngôn ngữ nghe nhìn.Trong vấn đề này, cốt truyện của phim mang tính đặc thù của cách biểu
đạt điện ảnh. Nó khác với cốt truyện văn học ở sự diễn đạt phong phú của
hình ảnh và âm thanh. Mỗi giây màn ảnh không chỉ thuần túy là thông tin mà
luôn là sự diễn đạt có tính hình tượng, liên hệ hữu cơ với nhau trong chuỗi
hành động kịch tính hoặc biểu hiện. Từ mấy điều mở rộng ở trên có thể kết
luận: Để biết thế nào là hay, độc đáo hấp những người làm phim và cả người
thưởng thức, thẩm định phim đều cần không ngừng nâng cao trình độ hiểu


13


biết về phim truyện nói riêng và văn hóa nghệ thuật cũng như đời sống nói
chung. Một cốt truyện có giá trị còn phải là cốt truyện chứa đựng nhiều tiềm
năng tốt cho việc biểu đạt của các yếu tố cấu thành thuộc ngôn ngữ nghe - nhìn.
Trong vấn đề này, cốt truyện của phim mang tính đặc thù của cách biểu
đạt điện ảnh. Nó khác với cốt truyện văn học ở sự diễn đạt phong phú của
hình ảnh và âm thanh. Mỗi giây màn ảnh không chỉ thuần túy là thông tin mà
luôn là sự diễn đạt có tính hình tượng, liên hệ hữu cơ với nhau trong chuỗi
hành động kịch tính hoặc biểu hiện.
1.3. Khái niệm, đặc trưng và vai trò của nhân vật trong tác phẩm văn
học và tác phẩm điện ảnh
1.3.1. Khái niệm, đặc trưng và vai trò của nhân vật trong tác phẩm văn học
1.3.1.1. Khái niệm
Nhân vật văn học là con người được nhà văn miêu tả trong tác
phẩm bằng phương tiện văn học. Những con người này có thể được miêu tả
kỹ hay sơ lược, sinh động hay không rõ nét, xuất hiện một hay nhiều lần,
thường xuyên hay từng lúc, giữ vai trò quan trọng nhiều, ít hoặc không ảnh
hưởng nhiều lắm đối với tác phẩm.
Nhân vật văn học là con người cụ thể được miêu tả trong tác phẩm văn
học. Nhân vật văn học có thể có tên riêng cũng có thể không có tên riêng.
Khái niệm nhân vật văn học có khi được sử dụng như một ẩn dụ không chỉ
một con người cụ thể mà chỉ một hiện tượng nổi bật nào đó trong tác phẩm.
Bên cạnh con người, nhân vật văn học có khi còn là các con vật, các loài cây,
các sinh thể hoang đường được gán cho những đặc điểm giống con người.
Nhân vật văn học là một đơn vị nghệ thuật, nó mang tính ước lệ không
thể bị đồng nhất với con người có thật, ngay cả khi tác giả xây dựng nhân vật
với những nét rất gần với nguyên mẫu.


14


Trong văn học cổ điển, thông thường nhân vật chính đồng thời là nhân
vật tích cực, chính diện và ngược lại. Tuy nhiên, đối với văn học hiện đại, sự
phân chia nhân vật trong tác phẩm không rõ ràng, rạch ròi như văn học cổ
điển, có nhân vật vừa ác vừa thiện, vừa hiền vừa dữ…
1.3.1.2. Đặc trưng và vai trò của nhân vật trong tác phẩm văn học
Nhân vật khái quát tính cách của con người, khái quát hóa cuộc sống,
hiện thực được cô đặc lại, thu nhỏ lại trong cuộc sống của một nhân vật giống
như qua một giọt nước thấy cả đại dương, qua số phận của một nhân vật có
thể thấy được cả một lớp người, một thời đại, một xã hội. Đó chính là vai trò
phản ánh.
Nhân vật là yếu tố hết sức quan trọng truyền tải tư tưởng của tác giả.
Qua nhân vật, tác giả gửi gắm những tư tưởng, những thông điệp thẩm mỹ tới
người đọc. Đó chính là vai trò tư tưởng.
Nhân vật tạo nên tính thuyết phục cho tác phẩm, khiến người đọc có
cảm giác tin cậy vào những điều nhà văn viết. Vấn đề này hết sức cần thiết
trong hoạt động tiếp nhân văn học. Điều quan trọng của tính thuyết phục là
tính chân thực của tác phẩm, tức là sự phù hợp giữa tác phẩm với những qui
luật của đời sống, mà xét đến cùng, tính chân thực của tác phẩm lại phụ thuộc
vào tính chân thực của nhân vật. Vì vậy, có thể nói, nhân vật tạo nên tính
thuyết phục cho tác phẩm.
Như vậy, trong tác phẩm tự sự, nhà văn “nói” qua nhân vật. Nhân vật
chính là nơi tập trung mang chở nội dung phản ánh, chủ đề, tư tưởng của tác
phẩm, là nơi ký thác quan niệm về con người, về cuộc sống, về nghệ thuật của
nhà văn. Một nhân vật văn học lớn bao giờ cũng thể hiện một số phận, một
quan niệm nhân sinh độc đáo và thường điển hình cho một tầng lớp xã hội,
một giai cấp, thậm chí một thời đại nào đó. Bởi thế, phân tích nhân vật trở


15


thành con đường quan trọng nhất để xác định giá trị của tác phẩm, để nhận ra
lí tưởng thẩm mĩ cùng tài năng, phong cách nghệ thuật của nhà văn.
1.3.2. Khái niệm, đặc trưng và vai trò của nhân vật trong tác phẩm điện ảnh
1.3.2.1. Khái niệm
Nhân vật là một trong những yếu tố quan trọng góp phần tạo nên thành
công cho tác phẩm nghệ thuật. Ở bất cứ bộ môn nghệ thuật nào, việc xây
dựng nhân vật luôn được xem trọng và cần sự sáng tạo của người nghệ sĩ. Đặc
biệt với nghệ thuật điện ảnh, nhân vật lại cần có sức cộng hưởng lớn với
những yếu tố khác trong phim, và có thành công hay không phụ thuộc nhiều
vào tâm huyết, sự cẩn trọng cùng khả năng sáng tạo của những người tạo ra
nó (biên kịch, đạo diễn, diễn viên).
Xây dựng thành công một nhân vật điện ảnh điển hình, khái quát với
tính thẩm mỹ cao và có tầm ảnh hưởng sâu sắc, tác động đến người xem, thực
sự không đơn giản đối với bất kỳ một nhà sáng tác nào. Công việc này đòi hỏi
người nghệ sĩ phải suy nghĩ, trăn trở, dám đi đến tận cùng của sự sáng tạo.
Là đối tượng cơ bản và quan trọng trong lý luận văn học nghệ thuật, nhân
vật được phản ánh, mô tả với những nét cá tính, đặc điểm tính cách cụ thể.
Xây dựng nhân vật là yếu tố cần thiết và quan trọng, có ảnh hưởng
nhiều đến sự thành công hay thất bại của tác phẩm. Tác phẩm có sống
động, tồn tại lâu dài hay không tùy thuộc vào khả năng sáng tạo của người
nghệ sĩ, và xây dựng nhân vật của tác phẩm. Xem một tác phẩm điện ảnh
đã khá lâu, có thể quên tác phẩm ở nhiều điểm, đôi khi quên cả ý nghĩa của
tác phẩm, nhưng với nhân vật thì ta khó lòng quên được, nếu nhân vật đó
có tính cách, cá tính ấn tượng, đời sống tâm lý riêng biệt. Đó còn là môn
nghệ thuật đặc biệt khắt khe trong việc xây dựng nhân vật, điện ảnh có
những đòi hỏi cũng như kỹ thuật trong công việc này.


16


Chính khả năng vận động trên nền bối cảnh thật của hoàn cảnh, của tự
nhiên mà người xem trực tiếp cảm nhận nhân vật bằng mọi giác quan như khi
họ đối diện với những con người thật trong cuộc sống hàng ngày. Trong bối
cảnh thật đó, nhân vật điện ảnh xuất hiện với những hành vi, cử chỉ, hoạt
động đánh ngay vào mắt người xem và họ có thể hiểu hoặc ít nhất là cảm
nhận thấy nhân vật trong phim như thế nào. Nói chính xác hơn, nhân vật
trong điện ảnh giúp người xem thưởng thức chân thực nhất so với nhân vật
trong các loại hình nghệ thuật khác.
Vì vậy muốn tạo được sự chú ý, lấy được cảm xúc của người xem thì
nhân vật trong tác phẩm điện ảnh không thể đứng yên, thiên về suy nghĩ, kém
về hành động, mà phải luôn vận động và biến đổi.
1.3.2.2. Đặc trưng và vai trò của nhân vật trong phim
Xây dựng nhân vật trong tác phẩm điện ảnh có những đặc thù riêng,
nhưng chưa phải bất cứ người làm sáng tác điện ảnh nào cũng nắm bắt được.
Một điều rất căn bản là, nhân vật được người sáng tác làm ra, nhưng nó lại
không tuân theo mong muốn chủ quan của người sáng tạo ra nó mà có quy
luật, một đời sống riêng. Không thể bắt nó phải làm như thế này và nghĩ như
thế kia. Cũng không thể bắt nhân vật của mình phải suy nghĩ gì và hành động
ra sao nếu không theo quy luật phát triển tự nhiên nằm ngay trong bản thân
nhân vật đó. Nhân vật trong phim luôn phải tuân theo một cách chặt chẽ quy
luật khách quan của chính nó, nghĩa là tuân theo tiến trình phát triển của tính
cách và tâm lý của bản thân, hoàn cảnh tạo ra nhân vật đó và nhiều yếu tố nhỏ
lẻ nhưng quan trọng khác nữa. Nếu như người sáng tác bằng ý chí của mình
ép nhân vật phải có những suy nghĩ hành động và đưa ra tuyên ngôn không
phù hợp với hoàn cảnh, không đúng quy luật của cuộc sống, thì nhân vật ấy
cùng với tác phẩm của người sáng tạo sẽ rủ nhau đi vào quên lãng của người


17


xem. Nhân vật trong phim thực sự chỉ tồn tại lâu bền khi nó được sống, chết,
nghĩ và hành động… theo quy luật phát triển tự nhiên hợp logic.
1.4. Giới thiệu về truyện ngắn Vợ chồng A Phủ trên bình diện tác phẩm
văn học và điện ảnh
1.4.1. Vài nét về tác giả Tô Hoài
Tô Hoài tên thật là Nguyễn Sen, sinh ngày 27.9.1920 trong một gia
đình thợ thủ công nghèo làm nghề dệt lụa ở làng Nghĩa Đô, phủ Hoài Đức
tỉnh Hà Đông cũ nay là phường Nghĩa Đô quận Cầu Giấy, Hà Nội. Bút danh
Tô Hoài được xuất phát từ con sông Tô Lịch phủ Hoài Đức của quê ngoại nhà
văn ở phường Nghĩa Đô. Tô Hoài bước vào con đường văn học bằng chính tài
năng của mình khi ông tự mình sáng tác một số những bài thơ rất lãng mạn
hay những cuốn truyện vừa, được viết theo kiểu vô hiệp, nhưng rồi ông
nhanh chóng chuyển sang văn xuôi hiện thực và được chú ý ngay từ những
sáng tác đầu tay, trong đó có Dế Mèn phiêu lưu kí.
Năm 1943, ông gia nhập Hội văn hóa cứu quốc. Trong kháng chiến
chống thực dân Pháp ông làm báo và hoạt động nghệ thuật rất sôi nổi ở Việt
Bắc. Và có thể nói Tô Hoài một người rất có duyên gắn bó máu thịt với quê
hương Tây Bắc và đồng bào các dân tộc nơi đây. Ông là một nhà văn lớn, có
số lượng tác phẩm đạt kỉ lục trong văn học hiện đại Việt Nam. Ông cho rằng:
“Viết văn là một quá trình đấu tranh để nói ra sự thật. Đã là sự thật thì không
tầm thường, cho dù phải đập vỡ những thần tượng trong lòng người đọc”.
Một người tài năng và có trái tim nóng bỏng với sự hiểu biết phong phú, sâu
rộng đặc biệt là về những văn hóa tập quán của nhiều vùng miền trên đất nước
ta. Ông yêu những gì giản dị, yêu những gì thuộc về nét đẹp dân tộc và yêu
nồng hậu những con người của dân tộc ấy. Tô Hoài có biệt tài luôn thu hút
người đọc bởi chính những gì chân thật nhất mà ông đã từng trải qua và ông
viết văn như viết bằng chính máu của mình, cộng thêm lối trần thuật hóm



18


hỉnh, vốn từ vựng giàu có – nhiều khi rất bình dân và thông tục, nhưng nhờ
cách sử dụng đắc địa và tài ba nên có sức lôi cuốn lạ thường động lòng biết
bao trái tim bạn đọc.
Để hiểu hơn về Tô Hoài ta phải nhắc đến nơi đã gắn bó với ông suốt
bao năm tháng, nơi xứ sở của hoa ban, hoa mơ, hoa đào của những đêm tình
mùa xuân lãng mạn, những chợ tình đắm say. Nơi ấy, Tô Hoài sau tám tháng
sống và gắn bó máu thịt đã thốt lên: cảnh và người Tây Bắc đã để thương để
nhớ để cho tôi quá nhiều, niềm thương nỗi nhớ ấy đã thăng hoa thành truyện
ngắn Vợ chồng A Phủ là kiệt tác bất hủ giàu giá trị nhân đạo, ám ảnh lòng
người đến muôn đời.
1.4.2. Truyện ngắn Vợ chồng A Phủ trên bình diện tác phẩm văn học và
điện ảnh
Vợ chồng A Phủ là tác phẩm hay nhất trong tập Truyện Tây Bắc được
nhà văn Tô Hoài viết năm 1952. Sáng tác từng giúp Tô Hoài nhận Giải
thưởng Hồ Chí Minh đợt 1 năm 1996 đã được đưa lên màn ảnh nhỏ và trở
thành một trong những phim kinh điển của Điện ảnh Cách mạng Việt Nam.
Hai nhân vật chính là A Phủ và Mỵ - một đôi nam nữ thanh niên nghèo bị
thống lý Pá Tra, một chúa đất gian ác, cấu kết với Pháp, áp bức bóc lột đến
cùng cực. Hắn bắt Mỵ về làm vợ lẽ cho con trai là A Sử, và bắt A Phủ đến ở
không công suốt đời để trả nợ. Khi A Phủ bị trói vì tội đánh mất bò, sắp chết
đau, chết đói, chết rét, Mị cắt dây trói cứu thoát anh. Hai người trốn đến
Phiềng Sa rồi nên vợ nên chồng. Sau này, nhờ có Đảng lãnh đạo, A Phủ và
Mỵ đã vùng dậy, đấu tranh để tự giải phóng, cùng nhân dân xây dựng một
cuộc đời ấm no, hạnh phúc.
Vợ chồng A Phủ là truyện ngắn đặc sắc trong sự nghiệp văn chương của
nhà văn Tô Hoài nói riêng và của văn xuôi chống Pháp nói chung. Truyện là


bức tranh miêu tả chân thực và sinh động cuộc sống vùng cao, nơi có những

19


thân phận khổ đau, những con người nghèo khó sống dưới ách áp bức, bóc lột
của thực dân, phong kiến.Truyện không chỉ phản ánh nỗi khổ của những
người như Mị, như A Phủ, truyện còn là bài ca ca ngợi những phẩm chất cao
đẹp, sức sống mãnh liệt và khát vọng tự do cháy bỏng của những người con
nơi núi rừng Tây Bắc.
Nếu trước Cách mạng tháng Tám, Tô Hoài nổi tiếng với tác phẩm Dế
mèn phưu lưu ký, thì sau Cách mạng tháng Tám, sau khi đã đi theo kháng chiến,
Tô Hoài tiếp tục khẳng định tài năng của mình bằng tập Truyện Tây Bắc..
Vợ chồng A Phủ là truyện ngắn thành công nhất trong ba truyện ngắn
viết về đề tài Tây Bắc của nhà văn Tô Hoài. Tác phẩm chứa đựng cả giá trị
nghệ thuật, giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo.
Cùng với những bộ phim nổi tiếng như Làng Vũ Đại ngày ấy, Chị Dậu,
Rừng xà nu, Số đỏ…, Vợ chồng A Phủ là một trong những “bộ phim văn học”
xuất sắc nhất của điện ảnh Việt Nam. Trong bộ phim chuyển thể từ truyện
ngắn, có nhiều chi tiết khác với nguyên tác văn học. Tuy vậy, những giá trị
hiện thực, giá trị nhân đạo vẫn được giữ gìn nguyên vẹn.
Giá trị hiện thực của tác phẩm đã được thể hiện trong cuộc sống của
người dân lao động miền núi Tây Bắc, dưới ách thống trị tàn bạo của bọn thực
dân, phong kiến.
Nam chính A Phủ do NSND, đạo diễn Trần Phương thể hiện. Ông sinh
năm 1930, là diễn viên – đạo diễn kiệt xuất của nền điện ảnh Việt Nam.
Ngoài Vợ chồng A Phủ, Trần Phương từng tham gia đóng nhiều phim Cách
mạng, để lại nhiều dấu ấn như Chị Tư Hậu, Tiền tuyến gọi, Vợ chồng anh
Lực... Những bộ phim do ông đạo diễn cũng để lại nhiều tiếng vang, giành
được nhiều giải thưởng lớn: Hy vọng cuối cùng, Tội lỗi cuối cùng, Dòng


sông trắng…

20


Giao thoa giữa văn học và điện ảnh trong Vợ chồng A Phủ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.05 MB, 117 trang )

UBND TỈNH PHÚ THỌ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC HÙNG VƯƠNG

NGUYỄN QUANG CHUNG

GIAO THOA GIỮA VĂN HỌC VÀ ĐIỆN ẢNH
TRONG “VỢ CHỒNG A PHỦ”

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ, VĂN HỌC
VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM
Chuyên ngành: Lí luận văn học
Mã số: 8220120

Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Thị Thúy Hằng

PHÚ THỌ, 2018


i

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các tài
liệu, những kết luận, nhận định là trung thực và chưa được công bố trong bất
cứ công trình nào khác.

Tác giả luận văn

Nguyễn Quang Chung


ii


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn này, tôi đã nhận được sự giúp đỡ vô cùng quý
báu của các tập thể và cá nhân.
Tôi xin tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới TS. Nguyễn Thị Thúy Hằng, người
đã tận tâm hướng dẫn tôi trong quá trình học tập và triển khai đề tài luận văn.
Tôi xin trân trọng cảm ơn Ban giám hiệu trường Đại học Hùng Vương,
Phòng đào tạo, các thầy cô giáo trong khoa Khoa học Xã hội và Nhân văn,
các thầy cô giáo trong bộ môn Ngữ Văn đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi
trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu.
Xin bày tỏ lòng biết ơn gia đình, người thân và bạn bè đã luôn là điểm tựa
vững chắc để tôi hoàn thành luận văn này.

Phú Thọ, ngày 10 tháng 6 năm 2018
Tác giả luận văn

Nguyễn Quang Chung


iii
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
1. Tính cấp thiết của vấn đề nghiên cứu....................................................................... 1
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu ............................................................................... 2
3. Nhiệm vụ và mục tiêu của đề tài ............................................................................10
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ..........................................................................11
5. Phương pháp nghiên cứu.........................................................................................11
6. Cấu trúc luận văn .....................................................................................................12
Chương 1. MỐI QUAN HỆ GIỮA VĂN HỌC VÀ ĐIỆN ẢNH ..........................13
1.1. Bản chất của văn học ............................................................................................13
1.1.1. Văn học ...............................................................................................................13


1.1.2. Đặc trưng của văn học nghệ thuật ....................................................................14
1.2. Bản chất của điện ảnh...........................................................................................18
1.2.1. Nghệ thuật điện ảnh...........................................................................................18
1.2.2. Đặc trưng của ngôn ngữ điện ảnh ....................................................................20
1.3. Mối quan hệ văn học – điện ảnh..........................................................................27
1.3.1. Sự tương đồng, khác biệt giữa văn học và điện ảnh.......................................27
1.3.2. Sự tương tác, hiệu ứng cộng sinh giữa văn học - điện ảnh ............................29
Chương 2. TRUYỆN NGẮN “VỢ CHỒNG A PHỦ” - ĐIỆN ẢNH TRONG
VĂN HỌC ....................................................................................................................33
2.1. Tô Hoài và mảng sáng tác về đề tài miền núi ....................................................33
2.2. Vợ chồng A Phủ - mối giao thoa với điện ảnh ..................................................36
2.2.1. Cốt truyện và nghệ thuật dựng truyện trong Vợ chồng A Phủ ......................37
2.2.2. Nghệ thuật miêu tả - tạo hình trong Vợ chồng A Phủ ....................................44
2.2.3. Nhân vật và nghệ thuật xây dựng nhân vật trong Vợ chồng A Phủ .....49
Chương 3. PHIM “ VỢ CHỒNG A PHỦ” – VĂN HỌC TRONG ĐIỆN ẢNH .55


iv
3.1. Mai Lộc và điện ảnh cách mạng Việt Nam........................................................55
3.2. Vợ chồng A Phủ - sự kết giao nhuần nhuyễn văn học và điện ảnh .................57
3.2.1. Kịch bản phim – những tiếp nhận và sáng tạo................................................57
3.2.2. Âm nhạc, hội họa trong phim Vợ chồng A Phủ ..............................................64
3.2.3. Hệ thống nhân vật – tiếp nhận và sáng tạo......................................................73
PHẦN KẾT LUẬN .....................................................................................................80
TÀI LIỆU THAM KHẢO ..........................................................................................82


1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của vấn đề nghiên cứu


1.1. Trong gia đình nghệ thuật, văn học luôn có mối quan hệ mật thiết
với các loại hình nghệ thuật khác, đặc biệt là với điện ảnh. Văn học là cái
kho vô tận, là nền móng đầu tiên, cung cấp “cái viết” cho điện ảnh. Là một
loại hình nghệ thuật tổng hợp, điện ảnh kết hợp nhuần nhuyễn các yếu tố khác
nhau của văn học, điêu khắc, tạo hình, sân khấu, âm nhạc, khiêu vũ. Thành
công của một tác phẩm điện ảnh là thành công của sự kết giao, hòa hợp giữa
các ngành nghệ thuật. Chuyển thể một tác phẩm văn học thành tác phẩm điện
ảnh là cả một chặng đường dài và cũng không kém phần phức tạp, đòi hỏi cả
hai loại hình nghệ thuật này phải có sự tương tác lẫn nhau một cách hợp lí.
1.2. Vấn đề chuyển thể văn học - ảnh không còn là vấn đề xa lạ của
nghệ thuật điện ảnh trong nước. Thực tế chứng minh hơn 60 năm qua điện
ảnh Việt đã khá thành công trong chuyển thể từ tác phẩm văn học. Tính từ bộ
phim chuyển thể thành công được coi là khởi đầu Lục Vân Tiên dựa theo
truyện Nôm Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu (1957) đến nay, nhiều đạo
diễn, biên kịch đã thể hiện được sức mạnh kết nối và khả năng tương hỗ giữa
hai loại hình nghệ thuật này. Có thể kể đến một số tác phẩm điện ảnh chuyển
thể thành công từ văn học như: Chị Tư Hậu (chuyển thể từ truyện Một chuyện
chép ở bệnh viện của Bùi Đức Ái, 1963), Bến không chồng (chuyển thể từ tiểu
thuyết cùng tên của Dương Hướng, 2000), Người đàn bà mộng du (chuyển
thể từ truyện Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành của Nguyễn Minh Châu,
2003), Mê thảo thời vang bóng (dựa theo tiểu thuyết Chùa Đàn của Nguyễn
Tuân), Long thành cầm giả ca (dựa theo bài thơ chữ Hán cùng tên của
Nguyễn Du), Chuyện của Pao (khởi đầu từ Tiếng đàn môi sau bờ rào đá - Đỗ
Bích Thúy)...
Vợ chồng A Phủ - tác phẩm điện ảnh chuyển thể từ truyện ngắn cùng


2
tên của nhà văn Tô Hoài - đã được coi là một trong những bộ phim chuyển
thể thành công. Bộ phim do xưởng phim Việt Nam sản xuất (Đạo diễn Mai


Lộc) và đã được vinh danh trong Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 2 năm
1973 với giải Bông sen bạc. Nghiên cứu về Vợ chồng A Phủ từ góc độ tự sự
văn học và tự sự điện ảnh cũng là một cách minh định giá trị của tác phẩm từ
nguyên gốc đến tác phẩm chuyển thể. Đây cũng là cách thức khẳng định tính
giao thoa văn học - điện ảnh.
1.3. Chọn một lối đi đúng trong nghiên cứu các loại hình nghệ thuật là
vô cùng cần thiết. Nhìn nhận mối quan hệ tương giao giữa văn học và điện
ảnh cũng là một cách thức để khám phá tiếng nói riêng – chung giữa chúng.
Vợ chồng A Phủ trên hai phương diện - truyện và phim – đều có những đặc
sắc riêng về mặt giá trị loại thể, đồng thời cũng thể hiện dấu ấn cộng hưởng,
tương tác rất rõ nét. Đây là một gợi ý hay cho chúng tôi khi định hướng
nghiên cứu về mối giao thoa giữa văn học và điện ảnh.
Từ các vấn đề lý luận và thực tiễn nói trên, chúng tôi mạnh dạn nghiên
cứu đề tài: “Giao thoa giữa văn học và điện ảnh trong Vợ chồng A Phủ”.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Tô Hoài là một trong những cây bút xuất sắc của nền văn học Việt
Nam hiện đại, là tấm gương tự học, miệt mài cống hiến, say mê lao động
nghệ thuật cho đến tận những năm tháng cuối đời. Kể từ khi trình làng
những tác phẩm đầu tay đến khi từ biệt cõi thế ông đã có hai phần ba thế kỉ
gắn bó với văn nghiệp và để lại một khối lượng sáng tác đồ sộ. Tô Hoài
được ghi nhận không chỉ bởi tên tuổi xuất hiện trong nhiều thể loại văn học:
tiểu thuyết, truyện ngắn, ký sự,...mà còn bởi chất lượng nghệ thuật của mỗi
một sáng tác.
Thành công nhất ở đề tài viết về miền núi, Tô Hoài được mệnh danh
là nhà văn xuất sắc viết về các dân tộc vùng cao Tây Bắc. Những chuyến đi


3
thực tế dài ngày đã giúp nhà văn tích lũy vốn sống, tăng thêm tình cảm sâu
nặng với nhân dân Tây Bắc. Vì sự gắn bó tình nghĩa, thủy chung này mà


các sáng tác về đề tài vùng cao của ông ra đời như một sự trả ơn sâu sắc
với người dân nơi đây. Nhiều tác phẩm về đề tài này gây được tiếng vang
và tạo vị thế quan trọng trong sáng tác của ông. Tiêu biểu là truyện ngắn
Vợ chồng A Phủ trong tập Truyện Tây Bắc. Điều đặc biệt từ khi Vợ chồng A
Phủ được đạo diễn Mai Lộc chuyển thể thành phim thì lại càng nhận được
nhiều sự thu hút, quan tâm từ phía độc giả.
Mai Lộc vốn là một đạo diễn điện ảnh cách mạng và khá thành công
trong mảng đề tài nói trên. Vợ chồng A Phủ cũng được coi là một mốc son
trong sự nghiệp của ông. Với giải Bông sen vàng (1973), Vợ chồng A Phủ
được giới nghiên cứu quan tâm cũng là điều dễ hiểu.
2.1. Những nghiên cứu về truyện ngắn Vợ chồng A Phủ
Trong nguồn mạch sáng tác cho dân tộc vùng cao Vợ chồng A phủ
được đánh giá là một tác phẩm xuất sắc, đặc biệt trong việc thể hiện phong
cách của Tô Hoài. Chính vì lẽ đó truyện ngắn này luôn được nhiều tác giả
quan tâm nghiên cứu. Sau đây là những nghiên cứu tiêu biểu nhất:
Tác giả Vân Thanh đã dành một bài viết khá sâu sắc để khẳng định sự
thành công của Tô Hoài, trước hết là vị trí bước ngoặt của tập Truyện Tây Bắc
(đã từng được giải nhất về tiểu thuyết 1954 -1955 của Hội văn nghệ Việt
Nam) trong sự nghiệp sáng tác của ông. Tác giả viết: “Cho đến nay phần
thành công nhất trong sự nghiệp sáng tác của anh là những tác phẩm viết về
miền núi... Truyện Tây Bắc ra đời đánh dấu bước phát triển mới của Tô Hoài
cả về mặt tư tưởng và mặt nghệ thuật. Đây là một tập truyện xuất sắc trong
văn xuôi kháng chiến...” [14; 121].
Tác giả Huỳnh Lý có một cái nhìn khá toàn diện về Truyện Tây Bắc.
Không chỉ đề cập tới chủ đề, nội dung tác phẩm, Huỳnh Lý còn có những


4
đánh giá sắc sảo về nghệ thuật: “Khi miêu tả một cảnh đẹp, một cuộc vui, một
không khí gia đình đầm ấm, ông không ngại nói nhiều, ông đưa rất đúng lúc


màu sắc, hình ảnh và nhạc điệu vào khiến cho đoạn văn vừa như một khúc
nhạc, một bức tranh, một bài thơ”[14; 241].
Trong bài viết Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài, tác giả Nguyễn Văn Long
thấy “thành công của truyện trước hết ở nghệ thuật xây dựng nhân vật” và
“tác giả đã nắm bắt, lựa chọn được nhiều chi tiết chân thực, sinh động mà có
sức khái quát cao” [14; 256]. Bên cạnh đó tác giả khẳng định tài năng của Tô
Hoài trong việc khắc họa đời sống tâm lí nhân vật: “tác giả đã diễn tả được
những chuyển biến tính tế trong nội tâm nhân vật, nhưng vẫn giữ được tính
chất tự nhiên, chân thực của con người miền núi trong các nhân vật của mình,
tránh được cái nhìn đơn giản cũng như cách tô vẽ giả tạo khi viết về những
con người miền núi”[14; 255].
GS. Hà Minh Đức trong lời giới thiệu “Tuyển tập Tô Hoài” (1987)
cũng đưa ra lời kết luận đáng chú ý về sự gắn bó giữa nhà văn và nhân vật:
“Tô Hoài đã miêu tả nhân vật của mình với tình cảm trân trọng, mến yêu,
không có khoảng cách giữa tác giả và nhân vật”. Ông cũng nhấn mạnh đến sự
hòa hợp giữa ngôn ngữ người kể chuyện và ngôn ngữ nhân vật. Sự dung dị, ít
nói, bút pháp thể hiện nội tâm qua hành động cũng là điều mà Hà Minh Đức
nhấn mạnh trong bài viết [14; 140].
Với tham luận: Quan niệm nghệ thuật về con người trong truyện ngắn của
Tô Hoài về đề tài miền núi (Diễn đàn văn nghệ Việt Nam) Nguyễn Long chỉ rõ:
“Quan niệm nghệ thuật về con người mặc dù trải qua bao nhiêu đau khổ, có lúc
tưởng như buông xuôi nhưng khi được giác ngộ, họ đã vươn dậy mạnh mẽ dưới
ánh sáng cách mạng. Họ xuất hiện với tư cách là người công dân hơn là đối
tượng thẩm mỹ” [14; 442].
Như vậy, nghiên cứu về Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài khá dày dặn.


5
Đây chính là tiền đề là thành tựu quan trọng mà thế hệ sau được kế thừa.
2.2. Nghiên cứu về bộ phim “Vợ chồng A Phủ”


Bộ phim Vợ chồng A Phủ của đạo diễn Mai Lộc ra đời lập tức thu hút
được khá nhiều sự quan tâm của công chúng và giới nghiên cứu, phê bình.
Một vài ví dụ:
- “Vợ chồng A Phủ - bộ phim từ tác phẩm để đời của Tô Hoài” (Tiểu
Uyên)
- “Bản mẫu của văn học – điện ảnh đề tài miền núi” (Thi Thi,
http://hanoimoi.com.vn/Ban-in/Van-hoa)
- “Những bí mật thú vị về phim Vợ chồng A Phủ” (Bích Đào https://www.nguoiduatin.vn)
- “Vợ chồng A Phủ, độ chênh giữa truyện và phim” ( Đỗ Thành Dương
- http://www.giaoduc.edu.vn)
- “Vợ chồng A Phủ từ trang sách của Tô Hoài đến màn ảnh rộng” (Bích
Ngọc - http://dantri.com.vn/)...
Trong bài: “Vợ chồng A Phủ - bộ phim từ tác phẩm để đời của Tô
Hoài”, tác giả Tiểu Uyên nhận định: “Sáng tác từng giúp Tô Hoài nhận giải
thưởng Hồ Chí Minh đợt 1 năm 1996 đã được đưa lên màn ảnh nhỏ và trở
thành bộ phim kinh điển của điện ảnh cách mạng Việt Nam”. Tác giả hết lời
khen nhân vật nữ chính với khả năng diễn xuất của Đức Hoàn: diễn viên “đã
trút bỏ hoàn toàn những kiểu cách của một tiểu thư khuê các Hà Thành để
hóa thân thành một cô gái Mông thực thụ. Từ cách đi đứng, ngoáy mông,
vuốt tóc cho tới quấn khăn theo kiểu người Mông” [44]. Cũng không có gì là
khoa trương khi nhấn mạnh diễn xuất của Đức Hoàn. Bởi với vai diễn này
bà đã nhận được giải Bông sen Bạc tại Liên hoan phim Việt Nam lần thứ hai
năm 1973
Với “Vợ chồng A Phủ từ trang sách đến của Tô Hoài đến màn ảnh


6
rộng”, tác giả Bích Ngọc đã viết về sự thành công của bộ phim: “ cùng với
những bộ phim nổi tiếng như Làng Vũ Đại ngày ấy, Chị Dậu, Rừng xà nu, Số
đỏ..., Vợ chồng A Phủ là một trong những bộ phim văn học xuất sắc của điện


ảnh Việt Nam. Trong bộ phim chuyển thể từ truyện ngắn, có nhiều chi tiết
khác với nguyên tác văn học. Tuy vậy, những giá trị hiện thực, giá trị nhân
đạo vẫn được giữ gìn nguyên vẹn [38].
Đa số các bài viết tập trung chỉ ra cái hay, cái còn tồn tại của bộ phim
chuyển thể. Những khen – chê làm rộn diễn đàn không chỉ một thời này giống
như một tất yếu về một hiện tượng đáng được quan tâm. Bên cạnh cái thành
công được khẳng định, bộ phim cũng nhận được một vài tiếc nuối (khi nói về
sự vênh lệch trong quá trình chuyển thể). Tuy nhiên chúng tôi muốn nhấn
mạnh: đó là sự kĩ tính không thể tránh khỏi khi độc giả đã ngấm quá sâu cái
thành công của một tác phẩm văn học xuất sắc của một nhà văn có tiếng.
2.3. Nghiên cứu về mối giao thoa giữa văn học và điện ảnh trong
tác phẩm Vợ chồng A Phủ
2.3.1. Nghiên cứu về mối giao thoa giữa văn học và điện ảnh
Văn học và điện ảnh với mối nghệ thuật tương giao luôn là một vấn đề
cuốn hút giới nghiên cứu và phê bình. Nhiều bài viết, công trình đã bàn về
vấn đề này. Chẳng hạn như, Lý thuyết cải biên học - từ tác phẩm văn học đến
tác phẩm điện ảnh - trường hợp Kurosawa Akira của tác giả Đào Lê Na. Cải
biên tác phẩm văn học sang kịch bản điện ảnh của Lê Cẩm Lượng; Tác phẩm
chuyển thể nhiều mặt mạnh và yếu của Huyền Thanh; Ngoài ra, Phạm Hồng
Thinh cho biết Cần tránh tùy tiện trong việc chuyển tác phẩm văn học sang
điện ảnh của; Trịnh Đình Khôi khẳng định Tính chuyên nghiệp của điện ảnh;
Hải Ninh Thử bàn về một số phong cách trong điện ảnh Việt Nam ...
Như vậy, vấn đề chuyển thể đã không còn là mới và hiện nay đã trở nên
rất phổ biến ở Việt Nam cũng như trên thế giới. Thực sự khó khăn nếu muốn


7
thống kê chính xác con số những tác phẩm văn học đã được chuyển thể
thành phim. Duy có một điều chắc chắn, những tác phẩm kinh điển ở mỗi
quốc gia, mỗi dân tộc ít nhất một lần từng bén duyên với bộ môn nghệ thuật


thứ bảy này.
Kim Vân Kiều (chuyển thể từ Truyện Kiều - Nguyễn Du) là bộ phim
chuyển thể đầu tiên của được công chiếu năm 1924 ở Việt Nam. Kể từ đó,
văn học đã được nhìn nhận là mảnh đất tiềm năng thì vẫn còn khá hiếm. Mãi
đến những năm đầu thế kỉ XX, vấn đề này được hâm nóng trong một số
công trình. Năm 2009, Luận văn Từ tác phẩm văn học đến phim truyện điện
ảnh của Trương Nữ Diệu Linh (Trường Đại học Khoa học và Nhân văn
thành phố Hồ Chí Minh) đã tìm hiểu khá cặn kẽ về thuật ngữ điện ảnh, sự
tương tác giữa tác phẩm văn học và điện ảnh cũng như những kiến thức
chung nhất về chuyển thể.
Với luận văn Vấn đề chuyển thể tác phẩm văn học sang tác phẩm điện
ảnh (từ góc nhìn tự sự), Đỗ Thị Ngọc Diệp cũng đã cung cấp một cái nhìn khá
toàn diện về chuyển thể: “Khi chuyển thể tác phẩm văn học lên màn ảnh,
người chuyển thể có thể vay mượn, tiếp thu nhiều yếu tố tự sự từ tác phẩm
văn học gốc: đường dây cốt truyện chính; các chi tiết nghệ thuật đặc sắc; hệ
thống sự kiện, biến cố; nhân vật và tính cách nhân vật... Một tác phẩm văn
học có cốt truyện hay, tình tiết hấp dẫn, cấu trúc mới lạ, tính cách nhân vật
sắc nét... luôn thu hút sự quan tâm của các nhà làm phim [46; 90].
Có thể kể thêm hai chuyên luận nghiên cứu về vấn đề này như: Từ
Chùa Đàn đến Mê Thảo: Liên văn bản trong văn chương và điện ảnh
(Nguyễn Nam); Về quá trình chuyển thể tiểu thuyết thành phim (qua tác
phẩm Triệu phú ổ chuột) (Phạm Ngọc Hiền). Những nghiên cứu này đều có
những phân tích và so sánh tác phẩm văn học gốc với phim chuyển thể để thấy
những mối tương quan giữa chúng.


8
Năm 2014, TS. Phan Bích Thủy trong cuốn sách Từ tác phẩm văn học
đến tác phẩm điện ảnh đã đi sâu phân tích các yếu tố cơ bản của quá trình
chuyển thể, rút ra lý giải hữu ích, góp phần nâng cao nghệ thuật chuyển thể


tác phẩm văn học sang điện ảnh trong bối cảnh sáng tác phim truyện hiện nay.
Chuyên luận đồng thời khảo sát được một số trường hợp chuyển thể thành
công của điện ảnh Việt Nam từ trước đến nay.
Công trình “Lí thuyết cải biên học: Từ tác phẩm văn học đến tác phẩm
điện ảnh- trường hợp Kurosawa Akira” của Đào Lê Na (Trường Đại học
Khoa học Xã hội và Nhân văn Thành phố Hồ Chí Minh năm 2015) một lần
nữa lại cung cấp cho chúng ta một lượng kiến thức mới mẻ về vấn đề chuyển
thể, cải biên tác phẩm văn học sang điện ảnh.
Gần đây, TS. Lê Thị Dương (2016) với công trình Chuyển thể văn học
- điển ảnh (nghiên cứu liên văn bản) đã tiếp cận vấn đề chuyển thể từ lí thuyết
liên văn bản. Cuốn sách cũng khai thác khá sâu những dạng thức của chuyển
thể: chuyển thể trung thành và chuyển thể tự do.
Bên cạnh đó, mối quan hệ mật thiết giữa văn học và điện ảnh luôn thu
hút quan tâm của giới nghiên cứu, phê bình. Tiêu biểu:
- Minh Trí (2002), “Mối quan hệ giữa văn học và điện ảnh”, Tạp chí
văn hóa nghệ thuật, số 12.
- Hương Nguyên (2001), “Từ văn học đến điện ảnh”, Tạp chí Văn hoá
nghệ thuật, số 2.
- Phạm Vũ Dũng (1999), “Từ Văn học đến điện ảnh”, Tạp chí Văn hoá
nghệ thuật, số 6.
Tác giả Tiểu Quyên (2012) trong bài viết Văn học - điện ảnh: Hiệu ứng
cộng sinh đã nói về ảnh hưởng của mối quan hệ giữa văn học điện ảnh, đồng
thời chỉ ra áp lực của các nhà làm phim từ công chúng khi chuyển thể một bộ
phim từ tác phẩm văn học. Bài viết Chuyển thể văn học thành tác phẩm điện


9
ảnh: Khó để so sánh tác giả Mỹ Trân (2015) thì khái quát tình hình chung của
một số bộ phim chuyển thể gần đây dưới sự đánh giá của người xem và của
chính người hoài thai tác phẩm được chuyển thể. Song, đa số các ý kiến đồng


thuận: phim là sự sáng tạo lại với những đặc trưng riêng của loại hình nghệ
thuật mang tính trực tiếp chứ không phải là bản sao của nguyên tác.
Dù nhìn nhận và đánh giá ở nhiều góc độ khác nhau nhưng các bài viết
đều khẳng định mối quan hệ mật thiết giữa hai loại hình nghệ thuật văn học
và điện ảnh.
2.3.2. Nghiên cứu về mối giao thoa giữa văn học và điện ảnh trong
“Vợ chồng A Phủ”
Trên phương diện tiếp nhận, nhiều đánh giá khen chê khá khắt khe khi
đối sánh giữa thành công của truyện và phim. Có bàn định về nhân vật, về vai
diễn, về sự phát triển của cốt truyện, về cả những hạn chế khi phim công
chiếu…
Tiểu Nhi, trong bài “Vợ chồng A Phủ” được Tô Hoài chắp cánh đã đưa
ra nhận xét: nhà văn Tô Hoài đã viết về Mỵ, A Phủ với tất cả lòng yêu thương
bằng một ngòi bút chan chứa tính nhân văn. Có những khác biệt giữa truyện
và phim trong “Vợ chồng A Phủ” nhưng tài năng của nhà văn Tô Hoài thì
không ai có thể phủ nhận [41].
Bài viết Vợ chồng A Phủ - từ trang sách đến màn ảnh của tác giả
Nguyễn Hằng Nga đã nhấn mạnh đến sự thành công của chuyển thể: “Bộ
phim đã mang đến một làn gió mới trong việc cảm nhận câu chuyện “Vợ
chồng A Phủ” đã trở nên quen thuộc với thế hệ độc giả. Cả truyện ngắn và
phim đều là những thành công của Tô Hoài khi chính ông là người chắp bút
để chuyển thể kịch bản thành phim”[40].
Phan Bích Hà cho rằng: “Trong bộ phim Vợ chồng A Phủ, các nhân vật
được xây dựng đã có chiều sâu, và cá tính đã đậm nét hơn. Bộ phim khá thành


10
công với nghệ thuật biểu hiện mang sắc thái của dân tộc. Tuy nhiên, bên cạnh
các nhân vật đã có chiều sâu như Mị và người vợ cả được thể hiện khá đậm
nét, thì nhân vật trung tâm A Phủ lại vẫn chưa “vượt thoát” được khỏi sự ảnh


hưởng của mô hình”[12; 178].
Tác giả Bích Ngọc trong bài viết Vợ chồng A phủ từ trang sách đến
màn ảnh rộng đã viết: “Vợ chồng A phủ là niềm tự hào của văn học điện ảnh
Việt Nam. “Cú đúp” thành công trên trang sách và trên màn ảnh của Vợ
chồng A Phủ là nhờ tài năng của nhà văn – nhà biên kịch Tô Hoài” [38]…
Có thể nói, các bài báo, các nghiên cứu nói trên chủ yếu tập trung vào
khẳng định tài năng của Tô Hoài. Một số nghiên cứu có “đụng chạm” ít nhiều
đến chuyển thể, nhấn mạnh đến sự lan tỏa cộng hưởng khi Vợ chồng A Phủ
được chuyển thể thành phim. Tuy nhiên, nghiên cứu giao thoa giữa văn học và
điện ảnh trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ một cách hệ thống, toàn diện thì chưa
có một công trình nghiên cứu nào đề cập tới. Do đó, chúng tôi thực hiện đề tài
nghiên cứu này, vì đây là điều thực sự cần thiết.
3. Nhiệm vụ và mục tiêu của đề tài
3.1. Mục tiêu
- Tìm hiểu sự giao thoa giữa văn học - điện ảnh, trường hợp: Vợ
chồng A Phủ.
- Khẳng định giá trị của tác phẩm văn học Vợ chồng A Phủ, đánh giá
về những thành công và hạn chế của bộ phim chuyển thể từ truyện ngắn
cùng tên (đạo diễn Mai Lộc).
3.2. Nhiệm vụ
- Xác lập tiền đề lí luận: văn học, điện ảnh, đặc trưng của văn học và
điện ảnh; mối quan hệ văn học và điện ảnh.
- Tìm hiểu sự giao thoa giữa văn học và điện ảnh trong truyện ngắn Vợ


11
chồng A Phủ và bộ phim cùng tên. Cụ thể là: các yếu tố điện ảnh trong tác
phẩm văn học và các yếu tố văn học trong tác phẩm điện ảnh.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1 Đối tượng


- Sự giao thoa giữa văn học và điện ảnh, trường hợp Vợ chồng A Phủ
của nhà văn Tô Hoài và bộ phim cùng tên (đạo diễn Mai Lộc).
4.2. Phạm vi
- Truyện ngắn Vợ chồng A Phủ - Tô Hoài (trong tập truyện Tây Bắc,
NXB Văn học, 1969).
- Bộ phim Vợ chồng A Phủ
Đạo diễn: Mai Lộc
Nhà sản xuất: Xưởng phim chuyện Hà Nội
Năm sản xuất: 1961
5. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện tốt vấn đề nghiên cứu người viết đã sử dụng phối kết hợp
các phương pháp sau:
- Phương pháp liên ngành: Giúp người viết thực hiện tốt nhiệm vụ
nghiên cứu, chỉ ra được bản chất của văn học điện ảnh, từ đó làm rõ mối quan
hệ, tính chất giao thoa được thể hiện trong “Vợ chồng A Phủ”.
- Phương pháp phân tích tổng hợp: Cũng được vận dụng triệt để trong
khai thác các tài liệu liên quan đến nội dung luận văn. Từ việc phân tích
những nghiên cứu về vấn đề chuyển thể, về cuộc đời nhà văn Tô Hoài, tuyến
nhân nhân vật và kết cấu cốt truyện trong văn học và điện ảnh, người viết
tổng hợp và đưa ra những ý kiến đánh giá riêng về việc chuyển thể tác phẩm
văn học sang tác phẩm điện ảnh trên các phương diện đó.


12
- Phương pháp so sánh, đối chiếu: sử dụng để soi chiếu những thay
đổi của tác phẩm điện ảnh so với nguyên gốc, nhằm tìm ra nguyên nhân,
mục đích thay đổi của các nhà làm phim. Đồng thời giúp người viết thực
hiện tốt nhiệm vụ khác khi triển khai vấn đề.
- Phương pháp nghiên cứu liên văn bản: cho thấy sự chuyển dịch ký
hiệu của các văn bản trong mối tương tác giữa văn học với điện ảnh.


- Phương pháp so sánh - loại hình: Dùng phương pháp so sánh - loại
hình để tìm hiểu cái giống và khác nhau giữa hai loại hình nghệ thuật văn học
và điện ảnh.
- Thao tác thống kê, phân loại được vận dụng tập hợp ngữ liệu, chỉ ra
các khía cạnh tương ứng và khác biệt trong tác phẩm văn học và tác phẩm
điện ảnh.
6. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần Mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, luận văn được chia
làm 3 chương:
Chương 1: Mối quan hệ giữa văn học và điện ảnh
Chương 2: Truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” - điện ảnh trong văn học
Chương 3: Phim “Vợ chồng A Phủ” - văn học trong điện ảnh


13
Chương 1
MỐI QUAN HỆ GIỮA VĂN HỌC VÀ ĐIỆN ẢNH
Nghệ thuật là quá trình sáng tạo ra những sản phẩm (vật thể, phi vật thể)
chứa đựng giá trị lớn về tư tưởng, thẩm mĩ, văn hóa,… tác động tới người
thưởng thức trên nhiều phương diện. Nghệ thuật là sản phẩm kì diệu, vĩ đại nhất
của trí tuệ và tâm hồn nhân loại. Trong các loại hình nghệ thuật, văn học và điện
ảnh là hai loại hình được coi là có mối lương duyên kỳ diệu và đáng chú ý nhất.
Vậy văn học và điện ảnh thực sự là gì? Mối quan hệ, khả năng tương tác
giữa chúng? Chúng tôi sẽ dành toàn bộ chương 1 để tìm hiểu những vấn đề này.
1.1. Bản chất của văn học
1.1.1. Khái niệm văn học
Theo từ điển Tiếng Việt: văn học “là nghệ thuật dùng ngôn ngữ và hình
tượng để thể hiện đời sống và xã hội con người” [31; 1100].
Với tư cách là bộ môn nghệ thuật (lấy con người và các vấn đề đời
sống xã hội liên quan đến con người làm đối tượng nhận thức trung tâm, lấy


việc xây dựng hình tượng làm phương thức biểu đạt nội dung và lấy ngôn từ
làm chất liệu xây dựng hình tượng), văn học nhận thức thế giới, xã hội, con
người với toàn bộ tính tổng hợp, toàn vẹn, sống động trong các mối quan hệ
của nó trên phương diện thẩm mĩ. Không phải lúc nào văn học cũng trực tiếp
miêu tả con người nhưng dù thế nào chăng nữa con người vẫn luôn là đối
tượng trung tâm của văn học. Đặc biệt, văn học không phản ánh đời sống con
người một cách máy móc, loại hình nghệ thuật này còn phản ánh, ca ngợi,
hình tượng hóa mơ ước, khát vọng, tâm tư, tình cảm trong chiều sâu thăm
thẳm của thế giới tâm hồn con người. Văn học còn có khả năng chiếm lĩnh
không gian thời gian, mở rộng biên độ phản ánh đời sống. Văn học cũng
khiến các ngành nghệ thuật khác ganh tị ở khả năng tái hiện lời nói cũng như


14
tư tưởng của con người.
1.1.2. Đặc trưng của văn học nghệ thuật
Làm nên tính đặc trưng riêng biệt của văn học chính là yếu tố ngôn từ.
Với tất cả phẩm chất thẩm mĩ và khả năng nghệ thuật của mình, ngôn từ đã
tạo ra thành công của loại hình nghệ thuật này.
1.1.2.1. Tính phi vật thể của ngôn từ văn học
Với chất liệu là ngôn từ, văn học phát huy thế mạnh với các hình tượng
“phi vật thể”, đưa người đọc thâm nhập vào thế giới của cảm xúc, ấn tượng,
suy tưởng, liên tưởng mà ngôn ngữ thông thường ít khi truyền đạt được.
Không ai có thể nhìn hình tượng văn học bằng con mắt thật, bên ngoài, nó chỉ
bộc lộ qua cái nhìn sâu thẳm bên trong. Ngôn ngữ với tác động “ma thuật”
của nó đã dẫn dắt người đọc đồng sáng tạo với nhà văn, từ đó, góp phần tạo
tiếng nói đa thanh, đa chiều cho tác phẩm.
Khác với các loại hình nghệ thuật khác, hình tượng văn học không thể
cảm nhận trực tiếp bằng thính giác ( như khi ta nghe một bản nhạc), thị giác
(như khi ta xem một bức tranh)... Ở đây, văn học cần độc giả tưởng tượng suy


ngẫm và chỉ ra cái hình tượng, hàm ý nghệ thuật sâu xa mà nhà văn gửi gắm
vào trong tác phẩm. Tuy nhiên, ngôn ngữ cùng sự sáng tạo giúp các nhà văn
có thể tạo ra cả những cái hữu hình và cái vô hình để người đọc cảm nhận
bằng mọi giác quan. Như trong bài thơ Tương ứng của Baudlaire: “Có những
mùi hương thơm mát như da thịt trẻ con/ êm nhẹ như tiếng sáo xanh mướt
như cỏ non...”, chúng ta có thể cảm nhận được sự chuyển đổi của nhiều giác
quan, người đọc cảm nhận trong không gian tương ứng từ thị giác đến thính
giác thiên nhiên tươi đẹp tràn đầy sức sống. Ngôn ngữ của văn học là ngôn
ngữ độc đáo có tính chất nội chỉ, biểu hiện cái thế giới được hư cấu trong tâm
hồn của người và trong văn bản. Ngôn ngữ mở ra hình ảnh ở trong tâm trí,
phát huy trí tưởng tượng, trường liên tưởng của mỗi chúng ta.


15
Như vậy, tính phi vật thể của hình tượng ngôn từ là một đặc điểm tiêu
biểu để phân biệt văn học với các loại hình nghệ thuật khác. Đặc tính này giúp
cho nhà văn mở rộng được hiện thực da dạng, cùng với sự liên tưởng phong
phú của con người.
1.1.2.2. Khả năng miêu tả đời sống, tâm lí nhân vật
Ngôn ngữ văn học có vai trò quan trọng trong đời sống con người.
Ngôn ngữ đã giúp nhà văn khai thác thế giới tinh thần, khám phá những suy
tư phức tạp, những xúc cảm, rung động tế vi nhất của lòng người. Cảm xúc,
tâm trạng, trạng thái tâm lý bất kỳ nào đó của con người cũng cung cấp cho
nhà văn những thông tin, dữ liệu, góp phần tạo nên những kiệt tác, những bức
tranh hiện thực một cách cụ thể, sinh động. Đây là một lợi thế của văn học
với tư cách là một loại hình nghệ thuật ngôn từ.
Tâm lí được coi là một trong những yếu tố quan trọng nhất của nhân
vật. Tâm lí là cái thể hiện khả năng độc lập về nhân cách của một cá thể người
được nhà văn miêu tả trong tác phẩm. Dĩ nhiên, trong giai đoạn văn học chưa
phát triển, yếu tố tâm lý không đóng vai trò quan trọng trong sự tả, kể về con


người. Điều này được minh chứng trong hệ thống nhân vật của các tác phẩm
tự sự dân gian, khi yếu tố tâm lí hầu như không xuất hiện. Ngay cả tiểu thuyết
thời trung đại, hầu như các nhà văn cũng chưa có ý thức làm rõ trạng thái tinh
thần của nhân vật. Tam quốc diễn nghĩa của La Quán Trung không miêu tả
tâm trạng của Lưu Bị sau trận hỗn chiến Tương Dương. Cảm xúc hỗn độn,
suy tính đắn đo của nhân vật chỉ được đọc, đoán, nhận biết thông qua hành
động Lưu Bị ném A Đẩu xuống đất... Càng về sau, khi văn học đã phát triển
thêm một bước mới, mối quan tâm đối với tâm lý nhân vật càng được chú ý.
Văn học Tây Âu thế kỷ XVIII đã tạo được một bước tiến lớn trong khả năng
phân tích, mổ xẻ tâm lí nhân vật. Những tác phẩm như Julie hay là nàng
Héloise mới của J.J. Rousseau, Những nỗi đau của chàng Verter của J.V.


16
Goethe... là những thành tựu nổi bật của một thời. Ở Việt Nam, các nhà
nghiên cứu nhận định rằng Truyện Kiều (Nguyễn Du) thực sự thành công
trong nghệ thuật tự sự thể hiện khả năng khám phá thế giới tâm hồn các nhân
vật, trước hết là nhân vật Thúy Kiều. Các đại diện của chủ nghĩa hiện thực
văn học Âu – Mĩ thế kỉ XIX , XX (L. Tolstoi, F. Dostoievski) còn phát hiện ra
cái gọi là “Phép biện chứng của tâm hồn” (không chỉ miêu tả các trạng thái
tinh thần của con người, hơn thế, phát hiện cả quá trình, cơ chế nảy sinh các
trạng thái ấy nữa. Do nắm được bí mật của tâm hồn, các nhà văn không khó
để đi sâu vào mỗi cuộc đời, mỗi số phận. Nhiều tác giả văn học Việt Nam
hiện đại (Nam Cao, Tô Hoài, Nguyễn Thi...) đã chứng tỏ được tài năng của
mình khi đi vào tận cùng nhữngrung cảm diễn ra trong tâm hồn con người.
Có ai đó đã nói: khách thể của văn học là “vương quốc bất tận của tinh
thần”. Ngôn ngữ là điều kiện tiên quyết giúp văn học khám phá từng chi tiết
cấu trúc tạo nên vương quốc tâm hồn và dẫn dắt độc giả cảm nhận nó. Suy tư
trong lòng nhân vật tưởng như vô hình mà lại hữu hình. Bởi ngôn ngữ tạo ra
cảm giác về thực tại, hiển hiện với đủ cảm giác: vui sướng, tê dại, đau khổ,


hân hoan trên từng đường gân, thớ thịt… Nguyễn Ngọc Tư rất tài trong cách
thể hiện nỗi đau, từ hành động gắng an nhiên với những gì đang buốt nhói:
“tôi ngồi quẹt tay lau nước mắt đi, kỹ càng, để gương mặt an nhiên, ráo hoảnh.
Tôi quyết không để cha thấy mình buồn”[30; 182] đến xúc cảm dửng dưng, cô
đơn tột cùng giữa giống người. Cái cách Ngọc Tư để cho nhân vật “nghe” được
tiếng vịt nhưng lại khó khăn khi dùng tiếng người: “những kí ức chắp vá, đứt
đoạn được chúng tôi kể khá chậm, một phần vì đã lâu không dùng cách giao tiếp
bằng lời, một phần do vài chi tiết khiến chúng tôi phải dừng câu chuyện lại, vì
thấy nhói ở đâu đó”[dẫn theo 30; 205].

1.1.2.3. Khả năng chiếm lĩnh không gian và thời gian
Khác hẳn các loại hình nghệ thuật khác, văn học thuộc loại hình nghệ


17
thuật thời gian - mọi sự vật, hiện tượng tồn tại trong nó đều mở dần, lan rộng
và phát triển theo thời gian. Nhờ chất liệu ngôn từ, khả năng cảm nhận thời
gian trong văn học là vô tận. Thời gian có thể kéo dài, rút gọn, dồn nén, đảo
lộn… Dòng thời gian trần thuật của văn học vì vậy vô cùng phong phú. Văn
học có thể đưa con người trở về với thời gian của quá khứ, hay đưa con người
đi cùng chiều với thời gian của hiện tại và tương lai. Văn học dường như đã
thâu tóm được toàn bộ thời gian của vũ trụ, chiếm lĩnh được mọi lĩnh vực của
đời sống hiện thực. Không đơn thuần là thời gian vật lí, thời gian trong văn
học còn là thời gian tâm lí của nhân vật.
Giống như thời gian, không gian trong văn học cũng không hề bị giới
hạn. Nhà văn hoàn toàn có thể mở rộng không gian miêu tả, có thể chuyển đổi
hoặc đồng hiện không gian. Vận dụng khả năng ảo diệu của ngôn từ, nhà văn
cho độc giả đắm chìm trong nhiều không gian khác nhau. Chẳng hạn không
gian ba chiều trong Tràng Giang của Huy Cận: “Nắng xuống, trời lên sâu
chót vót/ Sông dài trời rộng bến cô liêu”. Qua câu thơ ấy con người có thể


biểu hiện trực tiếp tư tưởng, tình cảm thẩm mĩ một cách sống động mang tính
đặc thù. Hoặc trong Cánh đồng bất tận, Nguyễn Ngọc Tư đã tạo ra một không
gian chủ đạo là những cánh đồng quê nắng cháy khô, hoang hoải gió, kênh
rạch chằng chịt. Cuộc sống của cha con Út Vũ liên tục xê dịch bởi kế sinh
nhai cùng đàn vịt, nay cánh đồng này, mai dòng kênh khác, lênh đênh không
biết tới ngày mai.
Văn học còn có khả năng tạo ra những giới hạn khác của không gian,
nó tạo ra thế giới nội tâm, suy tư và tình cảm, những mơ ước khát khao của
con người, tạo ra không gian lịch sử. Nhìn vào không gian trong một tác
phẩm văn học, chúng ta có thể nhìn thấy cảnh buổi sáng làng quê, mùi hương
cốm thơm dịu, những giọt sương long lanh,...Văn học có thể phản ảnh đời
sống hiện thực trong một sự trọn vẹn, hoàn bị và đầy đủ của nó.


18
1.2. Bản chất của điện ảnh
1.2.1. Nghệ thuật điện ảnh
Tính đến nay, điện ảnh đã ra đời hơn một thế kỷ. Là loại hình nghệ
thuật “sinh sau đẻ muộn” song điện ảnh không thua kém các ngành nghệ thuật
“anh chị”, đặc biệt là về những thành tựu và khả năng tác động mạnh mẽ đến
đời sống tinh thần nhân loại.
Vậy “điện ảnh” là gì ? Đã có nhiều định nghĩa khác nhau về “đứa con
út” xuất sắc này. Cuốn Đại từ điển tiếng Việt cho rằng điện ảnh là “Kỹ thuật
thu vào phim những hình cử động liên tục và chiếu lại trên màn ảnh; Ngành
nghệ thuật dùng kỹ thuật để thu phát kịch bản được dàn dựng, đạo diễn công
phu”[32; 634]. Từ điển tiếng Việt tường giải và liên tưởng thì cho rằng đây
là “nghệ thuật phản ánh hiện thực bằng những hình ảnh hoạt động liên tục,
thu vào phim (nhựa, video) để chiếu các cử động lên màn ảnh”[10; 905].
Cũng có nhiều quan niệm mang tính chủ quan khác. Ví như: “điện ảnh là âm
nhạc của ánh sáng”, “là nghệ thuật của sự biến đổi”, “là hình ảnh chuyển


động”, “là con đẻ của khoa học kỹ thuật”…Tuy nhiên những cách hiểu đó
hầu như chưa thể hiện được hết nội hàm của thuật ngữ này. Chúng tôi cho
rằng, để đưa ra một khái niệm toàn diện tương đối, cần tìm hiểu trước hết từ
chính những đặc trưng của nó.
Là một loại hình nghệ thuật tổng hợp, điện ảnh mang tính quần chúng,
tính dân tộc, tính quốc tế. Điện ảnh cũng thiên về giải trí dù không hề coi
nhẹ tính kinh tế, thương mại, đồng thời mang giá trị nhân văn sâu sắc.
Điện ảnh là một ngành nghệ thuật tổng hợp tinh hoa của các nghệ thuật
khác. Khi xem phim, chúng ta được dịp thưởng thức cùng một lúc nhiều loại
hình nghệ thuật: văn học, âm nhạc, ca múa, hội họa, kiến trúc…Các ngành
nghệ thuật ấy khi đến với điện ảnh đã từ bỏ tính độc diễn của chúng để hòa
tan trong những hình ảnh và âm thanh sinh động, tạo ra chất tổng hợp hoàn


19
toàn mới. Điện ảnh kế thừa khá nhiều từ văn học (đề tài, cốt truyện, tư tưởng,
thủ pháp nghệ thuật...). Bên cạnh đó, điện ảnh cũng sử dụng nhiều ý tưởng
của hội hoạ, điêu khắc, kiến trúc, âm nhạc... Chính những tiếp nhận và sáng
tạo từ các loại hình nghệ thuật đã tạo nên tính tổng hợp của nghệ thuật điện
ảnh. Đa chiều trong phản ánh, điện ảnh tạo một mãnh lực đối với công chúng,
thấm sâu vào mọi giác quan, thức nhận mỹ cảm của từng cá thể đối với các
phương diện của đời sống hiện thực.
Giống như một người phụ nữ duyên dáng, thông minh, điện ảnh không
kiêu kì đỏng đảnh mà chân tình, dễ gần và để lại nhiều nhung nhớ. Lênin đã
từng coi nghệ thuật điện ảnh là quan trọng nhất trên khía cạnh dễ gần và hết
sức quần chúng.
Điện ảnh cũng mang dấu ấn riêng của mỗi cộng đồng do nó bị quy định
bởi thị hiếu, văn hóa cộng đồng. Tuy nhiên, bên cạnh dấu ấn cộng đồng, dân
tộc, điện ảnh cũng chịu ảnh hưởng đồng thời vươn rộng khả năng học hỏi tới
các nước trên thế giới. Vì vậy, đặc tính quốc tế luôn rõ nét. Bên cạnh đó, yếu


tố giải trí của truyền hình được đánh giá không kém gì truyền hình, báo chí,
mạng..., đúng như một nhà nghiên cứu khẳng định: “điện ảnh cũng nằm trong
cấu trúc văn hóa và truyền thông đại chúng”.
Nói về thời điểm ra đời của điện ảnh, người ta ghi nhận ngày cuộn
phim ghi lại những hình ảnh chuyển động dầu tiên ra đời tại Leeds – Anh năm
1988. Đây là thử nghiệm của một nhà phát minh người Pháp Louis Le Prince.
Tiếp đó, ngày 28/12/1989 hai anh em kỹ sư nhiếp ảnh gia người Pháp là
Louis Lumiere và August Lumiere đã cho ra đời bộ phim đầu tiên của nhân
loại, chiếu tại thủ đô Pari. Từ đó đến nay, điện ảnh đã phát triển mạnh với
những bước tiến khổng lồ. Bắt đầu từ những thước phim câm đến nay, điện
ảnh đã gặt hái nhiều thành công với những bước bứt phá ngoạn mục…Sự phát
triển của kỹ thuật và công nghệ hiện đại đã giúp điện ảnh phát huy thế mạnh.


20
Có thể nói, chẳng một góc khuất nào của tâm hồn con người, chẳng một ngõ
ngách nào của đời sống mà điện ảnh không chạm tới.. Đó cũng là lý do mà có
người cho rằng vị thần linh bảo hộ cho điện ảnh là khoa học và công nghệ.
Điện ảnh cũng có tính kinh tế thương mại cao. Vì đặc trưng này mà
điện ảnh còn được xếp vào ngành công nghiệp - công nghiệp điện ảnh.
Tuy nhiên, một tác phẩm điện ảnh có giá trị thực sự phải chứa đựng
một chiều sâu tư tưởng nhân sinh, để lại những ấn tượng, suy tư trong lòng
khán giả.
Như vậy, theo chúng tôi, có thể quan niệm: điện ảnh là một ngành nghệ
thuật tổng hợp, nằm trong cấu trúc văn hóa truyền thống, có tính quần chúng,
tính dân tộc, tính quốc tế, tính giải trí, tính kinh tế thương mại và mang giá trị
tư tưởng nhân sinh sâu sắc.
1.2.2. Đặc trưng của ngôn ngữ điện ảnh
Đặc trưng tổng hợp của điện ảnh là khá rõ. Tuy nhiên, cái cốt lõi, đặc
trưng, linh hồn của điện ảnh lại chính là hình ảnh. Vì vậy, ở một phương diện


nào đó, ngôn ngữ điện ảnh gần hơn với ngôn ngữ nhiếp ảnh, ngôn ngữ hội họa.
Điện ảnh được biết đến là một loại hình nghệ thuật tổng hợp, cho nên
ngôn ngữ của nó cũngmang tính tổng hợp; đó là sự kết hợp hài hòa giữa ngôn
ngữ thị giác, ngôn ngữ thính giác và kỹ thuật dựng phim.
Nếu tác phẩm văn chương chỉ là cái viết duy nhất của duy nhất tác
giả thì tác phẩm điện ảnh là kết quả của một cộng đồng sáng tạo bao gồm
số đông, và mang tính liên hoàn giữa các công đoạn mà không thể lược bớt
đi bất cứ một công đoạn nào, ở đó văn chương mới là công đọan thứ nhất
mang tính khởi đầu. Bộ phim khi đã được khởi hành từ tác phẩm văn
chương tức là đã bỏ qua cái viết, cái đọc, là hai thao tác quan trọng của nhà
văn và người đọc, để đi đến cái diễn của đạo diễn, của diễn viên và cuối
cùng nhằm phục vụ cho cái nghe nhìn của người xem, như một thưởng thức


'Vợ chồng A Phủ' - bộ phim từ tác phẩm để đời của Tô Hoài

07:00:00 08/07/2014 0

(Theo Zing) Sáng tác từng giúp Tô Hoài nhận Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt 1 năm 1996 đã được đưa lên màn ảnh nhỏ và trở thành một trong những phim kinh điển của Điện ảnh Cách mạng Việt Nam.

Vợ chồng A Phủ là tác phẩm hay nhất trong tập Truyện Tây Bắc được nhà văn Tô Hoài viết năm 1952. Hai nhân vật chính là A Phủ và Mỵ - một đôi nam nữ thanh niên nghèo bị thống lý Pá Tra, một chúa đất gian ác, cấu kết với Pháp, áp bức bóc lột đến cùng cực. Hắn bắt Mỵ về làm vợ lẽ cho con trai là A Sử, và bắt A Phủ đến ở không công suốt đời để trả nợ. Khi A Phủ bị trói vì tội đánh mất trâu, sắp chết đau, chết đói, chết rét, Mị cắt dây trói cứu thoát anh. Hai người trốn đến Phiềng Sa rồi nên vợ nên chồng. Sau này, nhờ có Đảng lãnh đạo, A Phủ và Mỵ đã vùng dậy, đấu tranh để tự giải phóng, cùng nhân dân xây dựng một cuộc đời ấm no, hạnh phúc.


Sự khác nhau giữa phim và truyện vợ chồng a phủ

Vợ chồng A Phủlà tác phẩm văn học nổi tiếng của cố nhà văn Tô Hoài. Bộ phim được chuyển thể từ truyện cũng nhận được phản hồi tích cực của khán giả.

Nhắc tới tác phẩm Vợ chồng A Phủ, nhà văn Tô Hoài từng chia sẻ: "Tôi viết truyện ấy từ những năm đi thực tế làm báo Cứu quốc. Đó là một câu chuyện gần như có thật của một đôi vợ chồng người Mông ở Phù Yên nay là Bắc Yên, tỉnh Sơn La. Ngày ấy, trên đường đi thực tế kháng chiến, tôi đã gặp cặp vợ chồng ấy đi ăn Tết Mông. Câu chuyện của họ cùng với những tư liệu anh em du kích kể là đề tài để tôi viết. Đến năm 1960, truyện chuyển thành kịch bản làm phim. Phim ấy, lấy nguyên cốt truyện, đầy đủ nhân vật".

Nam chính A Phủ do NSND, đạo diễn Trần Phương thể hiện. Ông sinh năm 1930, là diễn viên – đạo diễn kiệt xuất của nền điện ảnh Việt Nam. NgoàiVợ chồng A Phủ, Trần Phương từng tham gia đóng nhiều phim Cách mạng, để lại nhiều dấu ấn nhưChị Tư Hậu, Tiền tuyến gọi, Vợ chồng anh Lực... Những bộ phim do ông đạo diễn cũng để lại nhiều tiếng vang, giành được nhiều giải thưởng lớn:Hy vọng cuối cùng, Tội lỗi cuối cùng, Dòng sông trắng…

Sự khác nhau giữa phim và truyện vợ chồng a phủ

Nam chính A Phủ do NSND, đạo diễn Trần Phương thể hiện.

A Phủ là vai diễn đầu tiên trong cuộc đời của đạo diễn Trần Phương. Để vào vai thành công, ông đã phải học cách chăn bò, cưỡi ngựa của người Tà Sùa. Ba tháng ròng rã sống chung cùng gia đình anh hùng quân đội Sùng Phai Sình trên núi cao, cả Trần Phương và Đức Hoàn (người vào vai Mị lúc bấy giờ) gần như đã trở thành người Mông thực thụ. Các diễn viên đã cùng lên nương làm rẫy, cùng gùi nước đi bộ hàng mấy cây số về bản và cùng ăn ngô và có thể nói tiếng Mông sành sỏi trong quá trình thực hiện bộ phim.

Ông từng chia sẻ: "Họ cưỡi ngựa quanh năm mà không cần cương. Mình không quen với cách đó nên mình mẩy cứ xây xước hết, mấy lần suýt bị què chân. Nhưng khi bộ phim hoàn thành, mình cũng kịp trở thành một tay chăn bò, cưỡi ngựa cừ khôi không kém một chàng trai Mông nào".

Cố nghệ sĩ Đức Hoàn (1937-2003) - người vào vai Mỵ - cũng giống như nam chính, vừa được biết tới với vai trò diễn viên, vừa là đạo diễn, biên kịch của nhiều bộ phim. Năm 1961, bà được đạo diễn Mai Lộc chọn vào vai cô Mỵ trong bộ phimVợ chồng A Phủ(kịch bản Tô Hoài). Đây là vai diễn đầu tiên cũng là vai diễn xuất sắc nhất của Đức Hoàn. Với vai diễn này bà đã nhận được Bông sen Bạc tại Liên hoan phim Việt Nam lần thứ hai năm 1973.

Cố nghệ sĩ Đức Hoàn - người vào vai Mị - được nhận xét, đã trút bỏ hoàn toàn những kiểu cách của một tiểu thư khuê các Hà thành để hóa thân thành một cô gái Mông thực thụ. Từ cách đi đứng, ngoáy mông, vuốt tóc cho tới quấn khăn theo kiểu người Mông được Đức Hoàn thể hiện giống y như thật. Ngoài khả năng diễn xuất, cả NSND Trần Phương và cố nghệ sĩ Đức Hoàn đều nhận được rất nhiều sự ngưỡng mộ vì sở hữu ngoại hình đẹp.

Sự khác nhau giữa phim và truyện vợ chồng a phủ

Cố nghệ sĩ Đức Hoàn trong vai Mị.

Vợ chồng A phủđược chính tay Tô Hoài chuyển thể thành kịch bản và được "nhào nặn" bởi đạo diễn Mai Lộc. Với cốt truyện hấp dẫn, cảm động, bộ phim tiếp tục lôi cuốn người xem bằng hình ảnh đẹp của miền Tây Bắc và phần âm nhạc xuất sắc của nhạc sĩ Nguyễn Văn Thương. Bài hátBài ca trên núiqua giọng hát của nghệ sĩ Kiều Hưng cũng nhận được sự yêu thích của đông đảo người yêu nhạc.

Bộ phim do xưởng phim Việt Nam sản xuất và đã được trao giải thưởng Bông sen bạc trong Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 2 năm 1973.


Nguồn Zing News

Sự khác nhau giữa phim và truyện vợ chồng a phủ

tô hoài, vợ chồng a phủ

Có thể bạn quan tâm

  • Tô Hoài - hạt ngọc của làng văn học Việt Nam

  • 5 cặp đôi không tưởng tượng nổi của 'Vừa đi vừa khóc'

  • Những phim sequel từng khiến khán giả chờ đợi lâu nhất

  • Huyền Lizzie lần đầu đóng phim kinh dị

  • Tina Tình vào vai 'gái bán hoa' mưu sinh trên sông nước

  • Lưu Hiểu Khánh ngoài 60 tuổi vào vai gái đôi mươi

  • Đạo diễn ‘Transformers 4’ không quan tâm phim bị chê

  • Huỳnh Đông vất vả vào vai người chồng hóa điên

  • "Tiên Hắc Ám" mới bị chê kém xa Angelina Jolie

  • NSND Nguyễn Hữu Tuấn - Sống với đam mê khác