“Vợ chồng A Phủ” từ trang sách của Tô Hoài đến màn ảnh rộngThứ hai, 07/07/2014 - 09:05 Show
(Dân trí) - “Vợ chồng A Phủ” là niềm tự hào của văn học và điện ảnh Việt Nam. “Cú đúp” thành công trên trang sách và trên màn ảnh của “Vợ chồng A Phủ” là nhờ có tài năng của nhà văn - nhà biên kịch Tô Hoài. “Vợ chồng A Phủ” là một truyện ngắn trong tập “Truyện Tây Bắc” của Tô Hoài viết năm 1953, ngay sau chuyến đi thực tế lên vùng cao của tác giả. Tác phẩm đã xuất sắc giành giải nhất ở thể loại truyện ngắn - giải thưởng do Hội nghệ sĩ Việt Nam trao tặng năm 1954-1955. Về sau, truyện ngắn xuất sắc này được chuyển thể lên màn ảnh rộng, bộ phim điện ảnh cùng tên, sản xuất năm 1961, đã được chính tác giả Tô Hoài chuyển thể kịch bản. Bộ phim được nhận giải Bông sen bạc trong Liên hoan phim Việt Nam lần II năm 1973. “Vợ chồng A Phủ” là truyện ngắn đặc sắc trong sự nghiệp văn chương của nhà văn Tô Hoài nói riêng và của văn xuôi chống Pháp nói chung. Truyện là bức tranh miêu tả chân thực và sinh động cuộc sống vùng cao, nơi có những thân phận khổ đau, những con người nghèo khó sống dưới ách áp bức, bóc lột của thực dân, phong kiến. Không chỉ phản ánh nỗi khổ của những người như Mị, như A Phủ, truyện còn là bài ca ca ngợi những phẩm chất cao đẹp, sức sống mãnh liệt và khát vọng tự do cháy bỏng của những người con nơi núi rừng Tây Bắc. Nếu trước Cách mạng tháng Tám, Tô Hoài nổi tiếng với tác phẩm “Dế mèn phưu lưu ký”, thì sau Cách mạng tháng Tám, sau khi đã đi theo kháng chiến, Tô Hoài tiếp tục khẳng định tài năng của mình bằng tập “Truyện Tây Bắc”. “Vợ chồng A Phủ” là truyện ngắn thành công nhất trong ba truyện ngắn viết về đề tài Tây Bắc của nhà văn Tô Hoài. Tác phẩm chứa đựng cả giá trị nghệ thuật, giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo. Cùng với những bộ phim nổi tiếng như “Làng Vũ Đại ngày ấy”, “Chị Dậu”, “Rừng xà nu”, “Số đỏ”…, “Vợ chồng A Phủ” là một trong những “bộ phim văn học” xuất sắc nhất của điện ảnh Việt Nam. Trong bộ phim chuyển thể từ truyện ngắn, có nhiều chi tiết khác với nguyên tác văn học. Tuy vậy, những giá trị hiện thực, giá trị nhân đạo vẫn được giữ gìn nguyên vẹn. Giá trị hiện thực của tác phẩm đã được thể hiện trong cuộc sống của người dân lao động miền núi Tây Bắc, dưới ách thống trị tàn bạo của bọn thực dân, phong kiến.
“Ai ở xa về, có dịp vào nhà thống lý Pá Tra thường trông thấy có một cô gái ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tầu ngựa. Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nước dưới khe suối lên, cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi”. Mị là người con gái đẹp và tài hoa, Mị “uốn chiếc lá trên môi, thổi lá cũng hay như thổi sáo”, nhưng bông hoa đẹp miền sơn cước đó đã phải chịu một cuộc đời cay đắng, tủi nhục. Để giúp cha trả nợ, cô đã phải chịu cảnh làm con dâu gạt nợ trong nhà thống lý Pá Tra.
Là con dâu, nhưng thực tế, Mị giống như người ở không công cho nhà thống lý. Thân phận Mị còn không bằng thân trâu ngựa, bởi “con trâu, con ngựa làm còn có lúc, đêm nó còn được đứng gãi chân, đứng nhai cỏ, đàn bà con gái ở cái nhà này thì vùi vào việc làm cả ngày lẫn đêm”. Đó là cái khổ về thể chất, còn cái khổ về tinh thần mới thực đáng sợ. Mị ngày nào còn rạo rực yêu đương, bây giờ lặng câm, “lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”. Mị đã từng muốn chết mà không được chết, vì Mị chết nhưng nợ của cha vẫn còn, Pá Tra lại bắt cha Mị trả nợ mà cha thì già yếu quá rồi. Nhưng sau khi cha Mị đã chết, Mị lúc này cũng không còn nghĩ đến ăn lá ngón tự tử nữa. “Ở lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi. Bây giờ Mị tưởng mình cũng là con trâu, mình cũng là con ngựa. Con ngựa chỉ biết ăn cỏ, biết đi làm mà thôi. Mị cúi mặt, không nghĩ ngợi nữa”. Lúc này, Mị còn đáng thương hơn, bởi muốn chết nghĩa là người ta còn muốn kháng cự một cuộc đời - sống không ra sống, xét cho cùng, là còn rất tha thiết với cuộc sống. Còn khi đã chán cuộc sống đến mức không thiết chết, nghĩa là lúc đó người ta đã thực sự thờ ơ với cuộc sống, lúc đó người ta chỉ còn là một cái xác không hồn. Nỗi thống khổ, sự tủi nhục mà Mị phải gánh chịu như lớp tro tàn phủ lên, che lấp sức sống tiềm tàng trong Mị. Chỉ cần một luồng gió mạnh, thổi đi lớp tro buồn nguội lạnh ấy, đốm lửa sẽ bùng cháy ngay. Khát vọng ấy đã bất chợt cháy lên trong một đêm xuân đầy ắp tiếng gọi tình yêu. “Ngoài đầu núi, đã có tiếng ai thổi sáo rủ bạn đi chơi. Mị nghe tiếng sáo vọng lại, thiết tha bồi hồi”... Cũng như Mị, A Phủ là nạn nhân của chế độ độc tài phong kiến miền núi. A Phủ chịu cảnh đi ở đợ gạt nợ cho nhà thống lý. Chẳng may để hổ vồ mất gia súc nhà thống lý, A Phủ bị trói đứng vào cột chờ chết. Trong nguyên tác văn học, mấy hôm đầu thấy A Phủ bị trói, Mị vô cảm: “A Phủ là cái xác chết đứng đó cũng thế thôi” bởi tâm hồn Mị giờ đây đã tê dại. Bước ngoặt bắt đầu từ những dòng nước mắt của A Phủ: “Đêm ấy A Phủ khóc. Một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen”. Dòng nước mắt kia đã khiến Mị nhớ mình cũng đã từng bị trói đứng thế kia, Mị cũng đã khóc, “nước mắt chảy xuống cổ, xuống cằm không biết lau đi được”. Khi chứng kiến A Phủ “chỉ đêm mai là người kia chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải chết”, khi thấy dòng nước mắt của A Phủ “lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen”, Mị đã nhớ lại, thấy thương xót cho chính mình và cho A Phủ, Mị nhận ra “chúng nó thật độc ác”, rằng “người kia việc gì mà phải chết”.
Mị cởi trói cho A Phủ để rồi bất ngờ chạy theo A Phủ. Tình yêu cuộc sống như được thổi bùng lên trong Mị. Mị như tìm lại được con người thật đã bị lãng quên bấy lâu, đầy sức sống và khát khao thay đổi số phận. Trong phim, A Phủ trốn được khỏi Hồng Ngài, tới khu du kích Phiềng Sa. A Phủ trở thành chiến sĩ du kích, tích cực tham gia vào cuộc đấu tranh giải phóng quê hương với hy vọng sẽ một ngày quay về giải phóng Hồng Ngài, tìm lại được Mị.
Từ đấu tranh tự phát, A Phủ đã tiến đến cuộc đấu tranh tự giác. Từ bóng tối của cuộc đời đau khổ, tủi nhục, anh đã vươn tới ánh sáng của nhân phẩm, tự do và con đường cách mạng. A Phủ đã quay trở về giải thoát cho cuộc đời Mị và đem lại hạnh phúc đôi lứa cho cả hai người. Nhà văn Tô Hoài đã viết về Mị, về A Phủ với tất cả lòng yêu thương, cảm thông bằng một ngòi bút chất chứa lòng nhân đạo. Sau này, ông lại góp phần đưa họ trở thành những biểu tượng của một nền điện ảnh Cách mạng. Clip giới thiệu ca khúc trong phim "Vợ chồng A Phủ", chuyển thể từ tác phẩm văn học của nhà văn Tô Hoài Bích Ngọc ĐANG ĐƯỢC QUAN TÂM Ra mắt sách "Những người phụ nữ bé nhỏ" với 4 phiên bản độc đáoBố con ông Tấn "Hương vị tình thân" đóng phim "Đại thi hào Nguyễn Du"Dàn diễn viên gạo cội phim "Sao Tháng Tám" bây giờ ra sao?Diễn viên Mạnh Trường đóng vai Bác Hồ: Niềm vinh dự lớn trong sự nghiệpEm bé nổi tiếng trong "Cánh đồng hoang" trở thành tỷ phú nông dânVinh danh 16 tác phẩm xuất sắc nhất cuộc thi viết "Làng Việt thời hội nhập""Chân dung Madam Phương" có giá 72 tỷ đồng: Kỷ lục mới của hội họa Việt NamCậu bé 13 tuổi đạt giải "Khát vọng Dế Mèn"Nghệ thuật chuyển thể tác phẩm văn học sang điện ảnh nhìn từ phương diện cốt truyện và nhân vật (qua trường hợp Vợ chồng A Phủ)
Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (974.87 KB, 66 trang ) TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2 Hà Nội, ngày 27 tháng 04 năm 2017 Sinh viên Phạm Thị Hiền MỤC LỤC MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1 1. Lí do chọn đề tài ......................................................................................... 1 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề .......................................................................... 3 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu .............................................................. 5 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu............................................................... 6 5. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................ 6 6. Bố cục của khóa luận.................................................................................. 6 CHƯƠNG 1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TỰ SỰ HỌC VÀ HIỆN TƯỢNG CHUYỂN THỂ TÁC PHẨM ....................................................... 7 1.1. Giới thiệu về tự sự học và chuyển thể tác phẩm ....................................... 7 1.2. Khái niệm, đặc trưng và vai trò của cốt truyện trong tác phẩm văn học và tác phẩm điện ảnh........................................................................................... 9 1.2.1. Khái niệm về cốt truyện trong tác phẩm văn học 9 1.2.1.1.Khái niệm…………………………………………………………..... 9 1.2.1.2. Đặc trưng và vai trò của cốt truyện trong tác phẩm văn học............. 11 1.2.2. Khái niệm về cốt truyện trong tác phẩm điện ảnh ............................... 12 1.2.2.1.Khái niệm ......................................................................................... 12 1.2.2.2. Đặc trưng và vai trò của cốt truyện trong phim…………………….12 1.3. Khái niệm, đặc trưng và vai trò của nhân vật trong tác phẩm văn học và tác phẩm điện ảnh......................................................................................... 14 1.3.1. Khái niệm, đặc trưng và vai trò của nhân vật trong tác phẩm văn học 14 1.3.1.1. Khái niệm ........................................................................................ 13 1.3.1.2. Đặc trưng và vai trò của nhân vật trong tác phẩm văn học ............... 15 1.3.2. Khái niệm, đặc trưng và vai trò của nhân vật trong tác phẩm điện ảnh 16 1.3.2.1. Khái niệm ........................................................................................ 16 1.3.2.2. Đặc trưng và vai trò của nhân vật trong phim .................................. 17 1.4. Giới thiệu về truyện ngắn Vợ chồng A Phủ trên bình diện tác phẩm văn học và điện ảnh ............................................................................................ 18 1.4.1. Vài nét về tác giả Tô Hoài .................................................................. 18 1.4.2. Truyện ngắn Vợ chồng A Phủ trên bình diện tác phẩm văn học và điện ảnh ............................................................................................................... 19 CHƯƠNG 2. NGHỆ THUẬT CHUYỂN THỂ TÁC PHẨM VĂN HỌC SANG ĐIỆN ẢNH NHÌN TỪ CỐT TRUYỆN ......................................... 22 2.1. Những tiếp thu, bổ sung và sáng tạo cốt truyện Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài ............................................................................................................. 22 2.1.1. Những tiếp thu từ tác phẩm văn học ................................................... 23 2.1.2. Những bổ sung và sáng tạo từ cốt truyện của tác phẩm....................... 24 2.2. Một số hạn chế ...................................................................................... 28 2.3. Xử lý tình huống truyện......................................................................... 28 2.4. Nghệ thuật chuyển qua việc xây dựng không gian – thời gian ............... 32 2.5. Nghệ thuật chuyển thể qua mở đầu và kết thúc ...................................... 44 CHƯƠNG 3. NGHỆ THUẬT CHUYỂN THỂ TÁC PHẨM VĂN HỌC SANG ĐIỆN ẢNH NHÌN TỪ NHÂN VẬT .............................................. 47 3.1. Nghệ thuật chuyển thể nhân vật qua hệ thống ........................................ 47 3.2. Nghệ thuật chuyển thể nhân vật qua hành động, tính cách ..................... 49 3.3. Nghệ thuật chuyển thể nhân vật qua ngôn ngữ ...................................... 52 KẾT LUẬN ................................................................................................. 59 TÀI LIỆU THAM KHẢO MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài 1.1. Trong thực tế, chúng ta thấy rằng, điện ảnh là nghệ thuật ra đời muộn nhất. Vì vậy, nó tiếp thu được các giá trị tinh hoa của các ngành nghệ thuật khác. Tuy nhiên ảnh hưởng lớn nhất tới điện ảnh là văn học. Các tác phẩm văn học luôn là nguồn chất liệu dồi dào và phong phú cho những nhà làm phim khai thác để tạo nên các tác phẩm điện ảnh. Trên thế giới hầu hết các phim được làm ra đều dựa trên chất liệu văn học, xét riêng điện ảnh Việt Nam cũng không ít những tác phẩm được chuyển thể từ các tác phẩm văn học. Bởi điện ảnh khó vượt qua được sức hấp dẫn từ kho tàng văn học phong phú và giá trị được làm đầy qua hàng nghìn năm lịch sử. Có lẽ khán giả sẽ chẳng thể quên được những bộ sử thi đồ sộ như: bản hùng ca Iliát và Ôđixê, Thần thoại Hi Lạp,… Hay những câu chuyện mang đậm tính nhân văn sâu sắc trong truyện cổ Grim, truyện cổ Andersen cho đến những tác phẩm kinh điển như: Chiến tranh và hòa bình (L. N. Tônxtôi), Cuốn theo chiều gió (M. Mitchen),… Ngoài ra phải kể đến những đạo diễn Trung Hoa với những bộ phim nổi tiếng như : Tam quốc diễn nghĩa (La Quán Trung), Thủy Hử (Thi Nại Am), Tây Du Ký (Ngô Thừa Ân),… Trước sự phát triển của điện ảnh thế giới, điện ảnh Việt Nam cũng đã tiếp thu những giá trị tinh hoa của thế giới trong việc xuất hiện mối tương tác giữa văn học và điện ảnh. Trong các bộ phim đầu tiên của nước ta sản xuất vào những năm 20 của thế kỉ trước như Kim Vân Kiều (1923), cho đến những bộ phim gắn với những năm tháng kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ của dân tộc như Chung một dòng sông (1959), Vật kỷ niệm,… Đặc biệt người xem khó có thể quên được hình bóng cô Mị do diễn viên Đức Hoàn đã hóa thân thành công trong bộ phim của nhà văn Tô Hoài chuyển thể kịch bản từ tác phẩm cùng tên Vợ chồng A Phủ (1961). Trong những năm gần đây, dưới sự 1 đầu tư công phu của các biên kịch và đạo diễn tài năng đã tạo nên nhiều bộ phim gây tiếng vang lớn như: Hương ga (2014) chuyển thể từ tiểu thuyết Phiên bản của nhà văn Nguyễn Đình Tú, phim Quyên (2015) được chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Nguyễn Văn Thọ và đáng chú ý là bộ phim Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh (2015) chuyển thể từ cuốn sách cùng tên của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh như mang một hương vị mới vào phim chuyển thể của Việt Nam, làm phong phú thêm đời sống tinh thần của nhân dân và hứa hẹn nhiều bất ngờ, hấp dẫn trong các bộ phim sắp tới. 1.2. Tự sự học là một ngành nghiên cứu còn non trẻ, được định hình từ những năm 60- 70 của thế kỷ XX ở Pháp, nhưng nhanh chóng vượt ra ngoài biên giới và có nhiều đóng góp quan trọng trong nghiên cứu khoa học cơ bản. Nó còn được vận dụng vào nhiều hình thức tự sự khác như: tôn giáo, lịch sử, triết học, âm nhạc, mỹ thuật, điện ảnh,… Roland Bathes đã từng nói đại ý tự sự xuất hiện cùng bản thân lịch sử loài người. Trong đó, tự sự học là đối tượng nghiên cứu lâu đời và phức tạp nhất. Mà điện ảnh lại ra đời muộn, nên tự sự điện ảnh là em út trong nghiên cứu tự sự học. Nhưng giữa diện ảnh và văn học có sự kết nối tạo nên mối quan hệ hữu cơ khi so sánh tự sự văn học với tự sự điện ảnh, mặc dù giữa chúng có nhiều điểm chung nhưng cũng có không ít điểm khác biệt vì phương thức tác động và chất liệu của hai loại hình nghệ thuật là khác nhau. 1.3. Mặt khác, người viết với niềm yêu thích văn chương và điện ảnh mong muốn khám phá sâu hơn vào địa hạt của hai lĩnh vực này, bổ sung cho mình cũng như những người yêu văn chương và điện ảnh có thêm những kiến thức quý báu, phát hiện ra vẻ đẹp bí ẩn đằng sau “tảng băng trôi” của mỗi tác phẩm văn học và điện ảnh. Đồng thời cũng mong muốn tìm ra bí quyết để một bộ phim chuyển thể từ tác phẩm văn học sang một tác phẩm điện ảnh có thể thành công từ góc nhìn cốt truyện và nhân vật. Từ những lý do trên, chúng 2 tôi đã chọn đề tài “Nghệ thuật chuyển thể tác phẩm văn học sang điện ảnh nhìn từ phương diện cốt truyện và nhân vật (qua trường hợp Vợ chồng A Phủ) cho khoá luận của mình. 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề Lịch sử nghiên cứu mối quan hệ giữa văn học và điện ảnh Sự phát triển như vũ bão của kỹ thuật nghe nhìn đã tạo ra cho công chúng những nhu cầu thưởng thức văn học nghệ thuật theo cách mới mẻ. Điện ảnh là ngành nghệ thuật đáp ứng đầy đủ nhu cầu mới này bởi điện ảnh tích hợp được những đặc tính ưu việt của các ngành nghệ thuật khác từ âm nhạc, hội hoạ, văn học… Các nhà làm phim hoàn toàn có thể làm cho tác phẩm điện ảnh của mình thành công hơn nếu biết vận dụng càng nhiều sức sáng tạo của kỹ thuật phim ảnh cũng như sự tham gia của các: kịch gia, diễn viên, nhạc sĩ, hoạ sĩ… để biến những con chữ trong trang văn trở thành những thực thể sinh động, có hồn. Chính vì vậy, mối quan hệ đa chiều giữa văn học và điện ảnh là một thực tế sống động không thể phủ nhận. Ngay từ những ngày đầu có mối giao duyên ấy, nhiều nhà lí luận đã khẳng định: bên cạnh quá trình điện ảnh hấp thụ và cải tiến những kinh nghiệm nghệ thuật của văn học, một hiện tượng không kém phần quan trọng là tác động ngược lại rất to lớn của điện ảnh đối với văn học. Nghiên cứu về mối quan hệ này, cuốn Văn học với điện ảnh (Mai Hồng dịch, NXB Văn học, 1961) là cuốn sách tập hợp những bài giảng của M.Rôm, I. Khây-phít-xơ, E. Ga-bơ-ri-lô-vi-trư đã đưa ra mấy đặc trưng quan trọng trong việc viết truyện phim, đặc điểm thành phần văn xuôi trong truyện phim… nhằm “nâng cao tác dụng của văn học trong điện ảnh, để sáng tạo những truyện phim và những bộ phim kiểu mới thể hiện đời sống vô cùng phong phú một cách chân thực”. Cuốn sách mới chỉ dừng lại ở mặt gợi mở cho những nhà làm phim khi chuyển thể từ tác phẩm văn học chứ chưa chỉ ra một cách có hệ thống và chuyên sâu mối quan hệ giữa văn học với điện ảnh. 3 Bên cạnh đó, cuốn Dẫn luận và nghiên cứu “ Điện ảnh và văn học” (Timothy Corrigan) đã đưa ra khá nhiều điểm đồng thuận cũng như khác biệt giữa văn học và điện ảnh trên cơ sở tái hiện một loạt giai đoạn lịch sử, các phong tục văn hóa và phương pháp phê bình. Điều này giúp các nhà nghiên cứu có được cái nhìn tổng quan về hai loại hình nghệ thuật này. Tuy nhiên, xét về góc độ cốt truyện và nhân vật có ý nghĩa như thế nào trong việc chuyển thể dường như vẫn chưa được người viết chú trọng. Ngoài ra, báo chí cũng có một số bài viết về vấn đề này như trên báo Người lao động online có bài Văn học – điện ảnh: Hiệu ứng cộng sinh (http:nld.com.vn/van-hoa-van-nghe/van-hoc-dien-anh-hieu-ung-cong-sinh 2010112712436129.htm) nói về ảnh hưởng của mối quan hệ này đồng thời chỉ ra áp lực của nhà làm phim trước dư luận khi chuyển thể một bộ phim từ tác phẩm văn học nổi tiếng,… Mỗi công trình nghiên cứu hay bài báo của các tác giả đi trước dù là ở góc độ nào cũng là những tư liệu quý báu để chúng tôi có có cách nhìn tổng quát và toàn diện, sâu sắc hơn về vấn đề chuyển thể tác phẩm văn học sang tác phẩm điện ảnh. Đặc biệt, trong quá trình nghiên cứu, lý thuyết của ngành tự sự học giúp chúng tôi có “bộ công cụ cơ bản nhất, sắc bén nhất giúp cho người ta có thể đi sâu vào các lĩnh vực nghiên cứu điện ảnh, giao tiếp, phương tiện truyền thông, nghiên cứu văn hóa” [ 2, tr.11]. Từ đó, chúng tôi có thêm những hiểu biết trong việc so sánh giữa các nghành nghệ thuật, đây cũng là phương tiện quan trọng để chúng tôi tìm ra những điểm tương đồng và khác biệt giữa hai loại hình tự sự trên và phát hiện, lý giải được quá trình chuyển thể tác phẩm văn học sang tác phẩm điện ảnh. 4 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Từ việc tìm hiểu và phân tích nghệ thuật chuyển thể tác phẩm văn học sang điện ảnh từ phương diện cốt truyện và nhân vật (qua trường hợp Vợ chồng A Phủ), chúng tôi xem xét mối quan hệ đa chiều giữa văn học và điện ảnh. Qua đó chỉ ra được những điểm tương đồng và khác biệt giữa tác phẩm văn học và điện ảnh. Đồng thời thấy được những thành công và hạn chế của kịch bản bộ phim do nhà văn Tô Hoài chuyển thể từ tác phẩm của mình và phần nào tìm hiểu được phong cách độc đáo của nhà văn. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Thông qua phim truyện điện ảnh chuyển thể, mối quan hệ giữa văn học và điện ảnh ngày càng trở nên gắn bó và giá trị của tác phẩm văn học một lần nữa được khẳng định và thăng hoa. Cho nên, việc nghiên cứu tác phẩm văn học và điện ảnh nhằm đúc kết lí luận và thực tiễn, đưa ra một số nhiệm vụ sau: - Đánh giá những ảnh hưởng tác động to lớn và tích cực của lý luận văn học và tác phẩm văn học trong việc xây dựng kịch bản văn học điện ảnh và phim truyện chuyển thể điện ảnh qua phương diện cốt truyện và nhân vật qua trường hợp Vợ chồng A Phủ . - Phân tích sự tương đồng gần gũi và khác biệt cơ bản giữa tác phẩm văn học và phim truyện điện ảnh, để từ đó thấy được quá trình sáng tạo nghệ thuật trong văn chương và điện ảnh đều vô cùng vất vả, đòi hỏi người nghệ sĩ phải có ý thức, tinh thần trách nhiệm cao. - Qua đó, giúp chúng ta thêm yêu nghệ thuật có thêm sự hiểu biết sâu sắc về công việc của các tác giả sáng tạo ra những tác phẩm nghệ thuật. 5 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Nghệ thuật chuyển thể tác phẩm văn học sang điện ảnh từ phương diện cốt truyện và nhân vật (qua trường hợp Vợ chồng A Phủ) 4.2. Phạm vi nghiên cứu - Tác phẩm Vợ chồng A Phủ trong Truyện Tây Bắc - Tô Hoài. - Bộ phim chuyển thể Vợ chồng A Phủ (biên kịch: Tô Hoài; đạo diễn: Trần Phương). 5. Phương pháp nghiên cứu - Phương pháp liên ngành: vận dụng các nghiên cứu trong lĩnh vực lịch sử, văn học,văn hóa, điện ảnh,.. - Phương pháp phân tích tổng hợp: từ việc phân tích những nghiên cứu về nhân vật và cốt truyện trong văn học và điện ảnh, sau đó chúng tôi tổng hợp và đưa ra những ý kiến đánh giá riêng về việc chuyển thể tác phẩm văn học sang tác phẩm điện ảnh. - Phương pháp so sánh, đối chiếu: vận dụng phương pháp này giúp người viết có cái nhìn thấu đáo, sâu sắc khi phân tích tác phẩm gốc và tác phẩm chuyển thể. - Thao tác thống kê, phân loại được sử dụng linh hoạt trong từng luận điểm của luận văn,… 6. Bố cục của khóa luận Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, nội dung luận văn gồm 3 phần: Chương 1: Khái quát chung về tự sự và hiện tượng chuyển thể tác phẩm. Chương 2: Nghệ thuật chuyển thể tác phẩm văn học sang điện ảnh nhìn từ cốt truyện. Chương 3: Nghệ thuật chuyển thể tác phẩm văn học sang điện ảnh nhìn từ nhân vật. 6 NỘI DUNG CHƯƠNG 1 KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TỰ SỰ HỌC VÀ HIỆN TƯỢNG CHUYỂN THỂ TÁC PHẨM 1.1. Giới thiệu về tự sự học và chuyển thể tác phẩm Tự sự học có nguồn gốc từ truyền thống lí luận tự sự phương Tây có thể truy đến cùng từ thời Platon và Aristotle nhưng phải đến thời Tezvetan Todorov, một trong những đại biểu lớn của Cấu trúc luận Pháp xuất bản Ngữ pháp Câu chuyện mười ngày (1969), ngành nghiên cứu này mới chính thức có danh xưng Tự sự học và trở thành một ngành nghiên cứu có tính độc lập vì nội hàm văn hóa của nó. Tự sự học là bộ môn nghiên cứu liên ngành giàu tiềm năng vì “ nghiên cứu tự sự học phải liên kết với ngôn ngữ học, sử học, nhân loại học. Tự sự học không đóng khung trong tiểu thuyết mà vận dụng cả vào các hình thức “tự sự” khác, như tôn giáo, lịch sử, điện ảnh,khoa học, triết học, chính trị. Nó là một ngành văn hóa, bởi vì các hình thức tự sự khác nhau có thể chung với nhau những nguyên tắc siêu tự sự”. [2, tr. 12]. Trải qua quá trình phát triển lâu dài với cuộc đấu tranh của nhiều trường phái, tự sự học hiện đại bắt đầu được hình thành từ cuối thế kỉ XX, chia làm ba thời kì: tự sự học trước chủ nghĩa cấu trúc, tự sự học cấu trúc chủ nghĩa và tự sự học nghiên cứu các thành phần và chức năng của tự sự. Nhìn chung, có nhiều trường phái định nghĩa khác nhau về ngành tự sự học, nhưng tóm lại nội dung chính của ngành này là nghiên cứu cấu trúc văn bản tự sự và những vấn đề liên quan. Tự sự học phân biệt rõ giữa việc kể “cái gì” và “kể như thế nào”. Từ đó cho thấy sự phức tạp của cấu trúc tự sự, vấn 7 đề ý thức của chủ thể tự sự, kết cấu của tầng bậc trần thuật, loại hình cốt truyện,…Những điều này sẽ là cơ sở lý luận để chúng tôi khám phá việc chuyển thể tác phẩm văn học sang điện ảnh qua lăng kính tự sự ở hai góc nhìn: cốt truyện và nhân vật, để thấy rõ những điểm tương đồng và khác biệt, kế thừa và cách tân giữa hai loại hình tự sự này. Liên văn bản là khái niệm mà nhiều ngành nghệ thuật dùng để nói về mối quan hệ qua lại, tác động của những tác phẩm nghệ thuật. Người ta chia làm hai loại liên văn bản: kinh điển và hậu hiện đại. Xét trong góc độ văn học, khái niệm này có thể được hiểu theo: chiều ngang( chủ thể - người tiếp nhận) và chiều dọc ( văn bản – văn cảnh) được xuất hiện không chỉ trong tác phẩm gốc mà có sự liên kết trong nhiều tác phẩm khác nhau. Liên văn bản góp phần xóa đi ranh giới giữa các thể loại. Tiêu biểu như trong đề tài chiến tranh, khi các nhà làm phim tái hiện lại lịch sử trên màn ảnh dựa trên tư liệu lịch sử có sự kết hợp với các yếu tố âm nhạc, mỹ thuật, văn học cũng có điểm khác biệt dù có khi vay mượn của nhau. Vậy nên, trong trào lưu hậu hiện đại, khái niệm liên văn bản sẽ có những cách đọc hiểu văn bản khác nhau. Một kịch bản điện ảnh được chuyển thể từ tác phẩm điện ảnh là một dẫn chứng điển hình cho việc xóa nhòa đi ranh giới của văn bản. Cải biên cũng là một dạng của liên văn bản, trong đó khai thác, sang lọc những yếu tố cơ bản của tác phẩm gốc để sáng tạo ra một sản phẩm mới. Bằng việc chuyển từ cách đọc này sang cách đọc khác, từ tác phẩm văn học là sản phẩm của ngôn từ sang điện ảnh là sự kết hợp của nhiều yếu tố. Cải biên là sự sáng tạo trên cái gốc (tác phẩm văn học) để tạo ra một tác phẩm điện ảnh có giá trị. 8 1.2. Khái niệm, đặc trưng và vai trò của cốt truyện trong tác phẩm văn học và tác phẩm điện ảnh 1.2.1. Khái niệm về cốt truyện trong tác phẩm văn học 1.2.1.1. Khái niệm Trong cuốn Lý luận văn học, do Hà Minh Đức chủ biên đã nhận định rằng: “Cốt truyện là một hệ thống các sự kiện phản ánh những diễn biến của cuộc sống, và nhất là những xung đột xã hội một cách nghệ thuật, qua đó, các tính cách hình thành và phát triển trong những mối quan hệ qua lại của chúng nhằm sáng tỏ tư tưởng và chủ đề của tác phẩm” [3 , tr.29]. Theo Aristos – người đặt nền móng cho lý thuyết nghiên cứu cốt truyện: “Cốt truyện là cơ sở, là linh hồn của của bi kịch, sau đó mới đến tính cách” [4, tr. 13]. Đến L.I.Timofeep, nhận định về cốt truyện trong sự tương quan với các yếu tố khác của kết cấu tác phẩm nghệ thuật ngôn từ, ông cho rằng, khi mà các tính cách luôn đóng vai trò “người trung gian” độc đáo giữa nhà văn và cuộc sống do nhà văn phản ánh thì cốt truyện chính là hệ thống biến cố mà suy cho cùng những biến cố đó phải phản ánh những mâu thuẫn và xung đột xã hội. Hướng nghiên cứu thứ hai là của các nhà nghiên cứu thuộc trường phái hình thức Nga. Trên quan điểm “nghệ thuật như là thủ pháp”, “chính sự sáng tạo ra những thủ pháp nghệ thuật sẽ làm phục sinh từ ngữ”, các nhà nghiên cứu cho rằng để có thể tiếp cận với tính văn của tác phẩm nghệ thuật thì chúng ta phải “đối xử với tác phẩm văn học như một đối tượng được chế tác”, nghĩa là như một tổng số các thủ pháp. Nghệ thuật tư duy bằng hình tượng, song phạm trù đánh dấu sự phát triển của lịch sử văn học phải là lịch sử của những thủ pháp, chính “những hình thức nghệ thuật mới mới có thể đem lại cho con người niềm vui sống trên thế gian này, làm phục sinh các sự vật và thủ tiêu chủ nghĩa bi quan”. 9 B. Tomachevski với tiểu luận Hệ chủ đề, là một trong những người đầu tiên đi sâu nghiên cứu các thủ pháp cốt truyện. B. Tomachevski phân biệt khái niệm chuyện kể (fabula, fable) và cốt truyện (sinzhet, subject) khác với cách phân biệt của A. Veselovski, G.N.Popspelov, L.I.Timofeep. Theo ông, chuyện kể là tập hợp những biến cố có quan hệ với nhau được thông tin cho người đọc trong suốt chiều dài tác phẩm, nó có thể được tóm tắt theo trật tự biên niên hay nhân quả của các biến cố mà không phụ thuộc vào thứ tự được trình bày. Còn cốt truyện thì đi theo trình tự xuất hiện của các biến cố trong tác phẩm. Nói cách khác, mối quan hệ giữa các biến cố trong chuyện kể mang tính thời gian và đi từ nguyên nhân đến kết quả, còn cốt truyện lại liên kết các môtip theo trình tự xuất hiện trong tác phẩm, và như thế nó hoàn toàn là một sản phẩm được chế tác, có tính nghệ thuật. V. Shklovski triển khai việc nghiên cứu các thủ pháp xây dựng văn tự sự trong các tiểu luận: Nghệ thuật như là thủ pháp; Nghệ thuật dựng truyện vừa, truyện ngắn và tiểu thuyết. Theo V. Shklovski, nói chung, nhiều tác phẩm tự sự được xây dựng theo kiểu các chủ đề quán xuyến tích tụ lại thành các trung tâm nối tiếp nhau như các “chiếu nghỉ cầu thang”. Và cấu trúc “xoắn ốc” hay “chiếu nghỉ cầu thang” được phức tạp hoá bằng các phát triển đa dạng, trong đó các tình tiết được sắp xếp thành những tầng nấc kế tiếp nhau. Chủ đề quán xuyến của truyện có thể được hình thành từ những mâu thuẫn, phát sinh trên cơ sở của sự trái ngược, của điều không thể xảy ra... Sơ lược việc điểm qua những nét chính trong quan điểm của các nhà lý luận trên thế giới về việc nghiên cứu cốt truyện chúng ta có thể nhận ra tầm quan trọng cũng như sự phức tạp của vấn đề. Điều này trước hết có lẽ bắt nguồn từ việc hiểu phạm trù khái niệm cốt truyện. 10 1.2.1.2. Đặc trưng và vai trò của cốt truyện trong tác phẩm văn học Cốt truyện là thành phần nòng cốt trong văn xuôi tự sự, đặc biệt là trong truyện ngắn. Do đó, nhà văn cần phải tiết chế việc dùng các sự kiện, chi tiết,…để tạo ra các tình huống độc đáo. Cốt truyện là yếu tố cơ bản để tạo nên một tác phẩm hay, hấp dẫn và có giá trị. Trong tác phẩm tự sự truyền thống, nhà văn đặc biệt quan tâm và chuẩn bị kĩ càng trong việc tạo ra các cốt truyện chuẩn mực. Trong văn học cổ điển, truyện phải có chuyện, cốt truyện càng công phu bao nhiêu thì chất lượng tác phẩm càng tăng bấy nhiêu. Chính những cốt truyện li kỳ, độc đáo đã làm nên sức lôi cuốn cho tác phẩm tự sự. Một mặt, cốt truyện là một phương tiện bộc lộ nhân vật, nhờ cốt truyện, nhà văn thể hiện sự tác động qua lại giữa các tính cách nhân vật. Mặt khác, cốt truyện là phương tiện để nhà văn tái hiện xung đột xã hội. Truyện ngắn hiện đại lại có những nét khác, câu chuyện được viết ra đôi khi không cần đề cập đến những vấn đề to tát, thậm chí còn không có chuyện để kể nhưng nó vẫn thành truyện. Có thể thấy, trong văn xuôi hiện đại khi cốt truyện không chỉ có những hành động bên ngoài, những sự kiện bề nổi, mà còn có những hành động bên trong, những sự kiện tâm lý. Mục đích lớn nhất của cốt truyện hiện đại là tạo được ấn tượng sâu đậm trong lòng độc giả và đem cho họ những suy ngẫm, liên tưởng về nhiều vấn đề của đời sống. Vậy nên, những quan niệm về cốt truyện sẽ thay đổi theo thời gian, nhưng có lẽ vai trò, ý nghĩa của nó đối với tác phẩm tự sự thì không hề thay đổi. Cốt truyện hấp dẫn, giá trị sẽ luôn thu hút các nhà làm phim đầu tư vào việc chuyển thể tác phẩm sang điện ảnh. 11 1.2.2. Khái niệm về cốt truyện trong tác phẩm điện ảnh 1.2.2.1.Khái niệm Cốt tuyện trong phim bao gồm tất cả những sự kiện của câu chuyện được mô tả trực tiếp trên phim, được sắp xếp một cách có tổ chức, hay “một chuỗi những sự kiện trong một mối liên hệ nhân quả xảy ra trong không gian và thời gian” [5, tr. 95]. Có thể có những nhìn nhận khác nhau về cốt truyện. Nhưng căn cứ vào thực tiễn của chính phim truyện thì chúng ta có thể thấy cốt truyện của phim (và việc xây dựng nó) chính là một khâu rất quan trọng trong sáng tác điện ảnh. Nhận diện rõ về cốt truyện đồng thời khám phá những nguyên lý, những khả năng căn bản phổ biến của việc xây dựng cốt truyện, người làm phim và cả người thưởng thức phim có thể nắm vững hơn về bộ phim sắp làm, sắp xem. Cốt truyện có vai trò cơ bản là làm tiền đề để kể tả. Người làm phim khó có thể diễn đạt một câu chuyện nào đó mà không thông qua việc xây dựng cốt truyện (trừ dạng phim ít dựa vào cốt truyện). Mới mẻ, độc đáo, hay, hấp dẫn, chứa đựng ý tưởng quan trọng hoặc đặc biệt. Đây là yêu cầu một số, đồng thời không dễ dàng đối với cốt truyện. Chính vì vậy, các nhà, các hãng sản xuất phim luôn săn tìm, để ý đến số lượng lớn những kịch bản gửi đến nhưng thường chỉ lọc lựa ra được không nhiều các kịch bản đáp ứng yêu cầu này. Đối với các nhà làm phim thường thường họ cũng không nghĩ ra hoặc làm được nhiều kịch bản cũng như phim đảm bảo yêu cầu này (trừ một vài nghệ sĩ có tài năng lớn như Trương Nghệ Mưu hoặc S.Spielberg...). 1.2.2.2. Đặc trưng và vai trò của cốt truyện trong phim Để rút gọn hơn vào nhìn nhận của những người nghiên cứu cũng như sáng tác chuyên nghiệp - coi phim là một tác phẩm nghệ thuật, là một sản phẩm văn hóa cao cấp phục vụ khán giả - thì hay, độc đáo, mới mẻ, hấp dẫn là những tiêu chí ở yêu cầu cao về nội dung tư tưởng và nghệ thuật. Đã là cao thì 12 trình độ nhìn nhận thẩm định cũng phải cao mới nhận định được. Chẳng thế mà người ta có câu: Phải có cặp “mắt xanh”, phải biết đãi cát tìm vàng, phải có cái đầu và cả trái tim dồi dào hiểu biết và nhiệt tâm, công tâm... trong thái độ xem xét cũng như sáng tác thưởng thức phim. Đương nhiên bất kỳ khái niệm và tiêu chí (trong khoa học xã hội) nào cũng đều có tính chất tương đối và tất cả tính tương đối ấy “co dãn” đến đâu đều phụ thuộc vào trình độ nhận thức của từng cá nhân. Điều này cho thấy có những bộ phim, những cốt truyện rất có giá trị thoạt xem thường gây tranh cãi: Người bảo nó hay, người chê nó dở, người tán thành ủng hộ, kẻ hết lời đả phá... Do đó, có những ý tưởng kịch bản từng chịu số phận trắc trở long đong hoặc đành nằm im trên giấy bởi cách nhìn nhận chưa đúng đắn về nó. Có những kịch bản cơ sở làm phim này chê nhưng khi được cơ sở khác tiếp nhận thì đã được hoan nghênh và phim làm theo kịch bản đó đoạt giải hoặc được dư luận thích, khán giả hưởng ứng. Thực tiễn sáng tạo điện ảnh nước ta và thế giới chứng minh rất rõ vấn đề này. Từ mấy điều mở rộng ở trên có thể kết luận: Để biết thế nào là hay, độc đáo hấp những người làm phim và cả người thưởng thức, thẩm định phim đều cần không ngừng nâng cao trình độ hiểu biết về phim truyện nói riêng và văn hóa nghệ thuật cũng như đời sống nói chung. Một cốt truyện có giá trị còn phải là cốt truyện chứa đựng nhiều tiềm năng tốt cho việc biểu đạt của các yếu tố cấu thành thuộc ngôn ngữ nghe nhìn.Trong vấn đề này, cốt truyện của phim mang tính đặc thù của cách biểu đạt điện ảnh. Nó khác với cốt truyện văn học ở sự diễn đạt phong phú của hình ảnh và âm thanh. Mỗi giây màn ảnh không chỉ thuần túy là thông tin mà luôn là sự diễn đạt có tính hình tượng, liên hệ hữu cơ với nhau trong chuỗi hành động kịch tính hoặc biểu hiện. Từ mấy điều mở rộng ở trên có thể kết luận: Để biết thế nào là hay, độc đáo hấp những người làm phim và cả người thưởng thức, thẩm định phim đều cần không ngừng nâng cao trình độ hiểu 13 biết về phim truyện nói riêng và văn hóa nghệ thuật cũng như đời sống nói chung. Một cốt truyện có giá trị còn phải là cốt truyện chứa đựng nhiều tiềm năng tốt cho việc biểu đạt của các yếu tố cấu thành thuộc ngôn ngữ nghe - nhìn. Trong vấn đề này, cốt truyện của phim mang tính đặc thù của cách biểu đạt điện ảnh. Nó khác với cốt truyện văn học ở sự diễn đạt phong phú của hình ảnh và âm thanh. Mỗi giây màn ảnh không chỉ thuần túy là thông tin mà luôn là sự diễn đạt có tính hình tượng, liên hệ hữu cơ với nhau trong chuỗi hành động kịch tính hoặc biểu hiện. 1.3. Khái niệm, đặc trưng và vai trò của nhân vật trong tác phẩm văn học và tác phẩm điện ảnh 1.3.1. Khái niệm, đặc trưng và vai trò của nhân vật trong tác phẩm văn học 1.3.1.1. Khái niệm Nhân vật văn học là con người được nhà văn miêu tả trong tác phẩm bằng phương tiện văn học. Những con người này có thể được miêu tả kỹ hay sơ lược, sinh động hay không rõ nét, xuất hiện một hay nhiều lần, thường xuyên hay từng lúc, giữ vai trò quan trọng nhiều, ít hoặc không ảnh hưởng nhiều lắm đối với tác phẩm. Nhân vật văn học là con người cụ thể được miêu tả trong tác phẩm văn học. Nhân vật văn học có thể có tên riêng cũng có thể không có tên riêng. Khái niệm nhân vật văn học có khi được sử dụng như một ẩn dụ không chỉ một con người cụ thể mà chỉ một hiện tượng nổi bật nào đó trong tác phẩm. Bên cạnh con người, nhân vật văn học có khi còn là các con vật, các loài cây, các sinh thể hoang đường được gán cho những đặc điểm giống con người. Nhân vật văn học là một đơn vị nghệ thuật, nó mang tính ước lệ không thể bị đồng nhất với con người có thật, ngay cả khi tác giả xây dựng nhân vật với những nét rất gần với nguyên mẫu. 14 Trong văn học cổ điển, thông thường nhân vật chính đồng thời là nhân vật tích cực, chính diện và ngược lại. Tuy nhiên, đối với văn học hiện đại, sự phân chia nhân vật trong tác phẩm không rõ ràng, rạch ròi như văn học cổ điển, có nhân vật vừa ác vừa thiện, vừa hiền vừa dữ… 1.3.1.2. Đặc trưng và vai trò của nhân vật trong tác phẩm văn học Nhân vật khái quát tính cách của con người, khái quát hóa cuộc sống, hiện thực được cô đặc lại, thu nhỏ lại trong cuộc sống của một nhân vật giống như qua một giọt nước thấy cả đại dương, qua số phận của một nhân vật có thể thấy được cả một lớp người, một thời đại, một xã hội. Đó chính là vai trò phản ánh. Nhân vật là yếu tố hết sức quan trọng truyền tải tư tưởng của tác giả. Qua nhân vật, tác giả gửi gắm những tư tưởng, những thông điệp thẩm mỹ tới người đọc. Đó chính là vai trò tư tưởng. Nhân vật tạo nên tính thuyết phục cho tác phẩm, khiến người đọc có cảm giác tin cậy vào những điều nhà văn viết. Vấn đề này hết sức cần thiết trong hoạt động tiếp nhân văn học. Điều quan trọng của tính thuyết phục là tính chân thực của tác phẩm, tức là sự phù hợp giữa tác phẩm với những qui luật của đời sống, mà xét đến cùng, tính chân thực của tác phẩm lại phụ thuộc vào tính chân thực của nhân vật. Vì vậy, có thể nói, nhân vật tạo nên tính thuyết phục cho tác phẩm. Như vậy, trong tác phẩm tự sự, nhà văn “nói” qua nhân vật. Nhân vật chính là nơi tập trung mang chở nội dung phản ánh, chủ đề, tư tưởng của tác phẩm, là nơi ký thác quan niệm về con người, về cuộc sống, về nghệ thuật của nhà văn. Một nhân vật văn học lớn bao giờ cũng thể hiện một số phận, một quan niệm nhân sinh độc đáo và thường điển hình cho một tầng lớp xã hội, một giai cấp, thậm chí một thời đại nào đó. Bởi thế, phân tích nhân vật trở 15 thành con đường quan trọng nhất để xác định giá trị của tác phẩm, để nhận ra lí tưởng thẩm mĩ cùng tài năng, phong cách nghệ thuật của nhà văn. 1.3.2. Khái niệm, đặc trưng và vai trò của nhân vật trong tác phẩm điện ảnh 1.3.2.1. Khái niệm Nhân vật là một trong những yếu tố quan trọng góp phần tạo nên thành công cho tác phẩm nghệ thuật. Ở bất cứ bộ môn nghệ thuật nào, việc xây dựng nhân vật luôn được xem trọng và cần sự sáng tạo của người nghệ sĩ. Đặc biệt với nghệ thuật điện ảnh, nhân vật lại cần có sức cộng hưởng lớn với những yếu tố khác trong phim, và có thành công hay không phụ thuộc nhiều vào tâm huyết, sự cẩn trọng cùng khả năng sáng tạo của những người tạo ra nó (biên kịch, đạo diễn, diễn viên). Xây dựng thành công một nhân vật điện ảnh điển hình, khái quát với tính thẩm mỹ cao và có tầm ảnh hưởng sâu sắc, tác động đến người xem, thực sự không đơn giản đối với bất kỳ một nhà sáng tác nào. Công việc này đòi hỏi người nghệ sĩ phải suy nghĩ, trăn trở, dám đi đến tận cùng của sự sáng tạo. Là đối tượng cơ bản và quan trọng trong lý luận văn học nghệ thuật, nhân vật được phản ánh, mô tả với những nét cá tính, đặc điểm tính cách cụ thể. Xây dựng nhân vật là yếu tố cần thiết và quan trọng, có ảnh hưởng nhiều đến sự thành công hay thất bại của tác phẩm. Tác phẩm có sống động, tồn tại lâu dài hay không tùy thuộc vào khả năng sáng tạo của người nghệ sĩ, và xây dựng nhân vật của tác phẩm. Xem một tác phẩm điện ảnh đã khá lâu, có thể quên tác phẩm ở nhiều điểm, đôi khi quên cả ý nghĩa của tác phẩm, nhưng với nhân vật thì ta khó lòng quên được, nếu nhân vật đó có tính cách, cá tính ấn tượng, đời sống tâm lý riêng biệt. Đó còn là môn nghệ thuật đặc biệt khắt khe trong việc xây dựng nhân vật, điện ảnh có những đòi hỏi cũng như kỹ thuật trong công việc này. 16 Chính khả năng vận động trên nền bối cảnh thật của hoàn cảnh, của tự nhiên mà người xem trực tiếp cảm nhận nhân vật bằng mọi giác quan như khi họ đối diện với những con người thật trong cuộc sống hàng ngày. Trong bối cảnh thật đó, nhân vật điện ảnh xuất hiện với những hành vi, cử chỉ, hoạt động đánh ngay vào mắt người xem và họ có thể hiểu hoặc ít nhất là cảm nhận thấy nhân vật trong phim như thế nào. Nói chính xác hơn, nhân vật trong điện ảnh giúp người xem thưởng thức chân thực nhất so với nhân vật trong các loại hình nghệ thuật khác. Vì vậy muốn tạo được sự chú ý, lấy được cảm xúc của người xem thì nhân vật trong tác phẩm điện ảnh không thể đứng yên, thiên về suy nghĩ, kém về hành động, mà phải luôn vận động và biến đổi. 1.3.2.2. Đặc trưng và vai trò của nhân vật trong phim Xây dựng nhân vật trong tác phẩm điện ảnh có những đặc thù riêng, nhưng chưa phải bất cứ người làm sáng tác điện ảnh nào cũng nắm bắt được. Một điều rất căn bản là, nhân vật được người sáng tác làm ra, nhưng nó lại không tuân theo mong muốn chủ quan của người sáng tạo ra nó mà có quy luật, một đời sống riêng. Không thể bắt nó phải làm như thế này và nghĩ như thế kia. Cũng không thể bắt nhân vật của mình phải suy nghĩ gì và hành động ra sao nếu không theo quy luật phát triển tự nhiên nằm ngay trong bản thân nhân vật đó. Nhân vật trong phim luôn phải tuân theo một cách chặt chẽ quy luật khách quan của chính nó, nghĩa là tuân theo tiến trình phát triển của tính cách và tâm lý của bản thân, hoàn cảnh tạo ra nhân vật đó và nhiều yếu tố nhỏ lẻ nhưng quan trọng khác nữa. Nếu như người sáng tác bằng ý chí của mình ép nhân vật phải có những suy nghĩ hành động và đưa ra tuyên ngôn không phù hợp với hoàn cảnh, không đúng quy luật của cuộc sống, thì nhân vật ấy cùng với tác phẩm của người sáng tạo sẽ rủ nhau đi vào quên lãng của người 17 xem. Nhân vật trong phim thực sự chỉ tồn tại lâu bền khi nó được sống, chết, nghĩ và hành động… theo quy luật phát triển tự nhiên hợp logic. 1.4. Giới thiệu về truyện ngắn Vợ chồng A Phủ trên bình diện tác phẩm văn học và điện ảnh 1.4.1. Vài nét về tác giả Tô Hoài Tô Hoài tên thật là Nguyễn Sen, sinh ngày 27.9.1920 trong một gia đình thợ thủ công nghèo làm nghề dệt lụa ở làng Nghĩa Đô, phủ Hoài Đức tỉnh Hà Đông cũ nay là phường Nghĩa Đô quận Cầu Giấy, Hà Nội. Bút danh Tô Hoài được xuất phát từ con sông Tô Lịch phủ Hoài Đức của quê ngoại nhà văn ở phường Nghĩa Đô. Tô Hoài bước vào con đường văn học bằng chính tài năng của mình khi ông tự mình sáng tác một số những bài thơ rất lãng mạn hay những cuốn truyện vừa, được viết theo kiểu vô hiệp, nhưng rồi ông nhanh chóng chuyển sang văn xuôi hiện thực và được chú ý ngay từ những sáng tác đầu tay, trong đó có Dế Mèn phiêu lưu kí. Năm 1943, ông gia nhập Hội văn hóa cứu quốc. Trong kháng chiến chống thực dân Pháp ông làm báo và hoạt động nghệ thuật rất sôi nổi ở Việt Bắc. Và có thể nói Tô Hoài một người rất có duyên gắn bó máu thịt với quê hương Tây Bắc và đồng bào các dân tộc nơi đây. Ông là một nhà văn lớn, có số lượng tác phẩm đạt kỉ lục trong văn học hiện đại Việt Nam. Ông cho rằng: “Viết văn là một quá trình đấu tranh để nói ra sự thật. Đã là sự thật thì không tầm thường, cho dù phải đập vỡ những thần tượng trong lòng người đọc”. Một người tài năng và có trái tim nóng bỏng với sự hiểu biết phong phú, sâu rộng đặc biệt là về những văn hóa tập quán của nhiều vùng miền trên đất nước ta. Ông yêu những gì giản dị, yêu những gì thuộc về nét đẹp dân tộc và yêu nồng hậu những con người của dân tộc ấy. Tô Hoài có biệt tài luôn thu hút người đọc bởi chính những gì chân thật nhất mà ông đã từng trải qua và ông viết văn như viết bằng chính máu của mình, cộng thêm lối trần thuật hóm 18 hỉnh, vốn từ vựng giàu có – nhiều khi rất bình dân và thông tục, nhưng nhờ cách sử dụng đắc địa và tài ba nên có sức lôi cuốn lạ thường động lòng biết bao trái tim bạn đọc. Để hiểu hơn về Tô Hoài ta phải nhắc đến nơi đã gắn bó với ông suốt bao năm tháng, nơi xứ sở của hoa ban, hoa mơ, hoa đào của những đêm tình mùa xuân lãng mạn, những chợ tình đắm say. Nơi ấy, Tô Hoài sau tám tháng sống và gắn bó máu thịt đã thốt lên: cảnh và người Tây Bắc đã để thương để nhớ để cho tôi quá nhiều, niềm thương nỗi nhớ ấy đã thăng hoa thành truyện ngắn Vợ chồng A Phủ là kiệt tác bất hủ giàu giá trị nhân đạo, ám ảnh lòng người đến muôn đời. 1.4.2. Truyện ngắn Vợ chồng A Phủ trên bình diện tác phẩm văn học và điện ảnh Vợ chồng A Phủ là tác phẩm hay nhất trong tập Truyện Tây Bắc được nhà văn Tô Hoài viết năm 1952. Sáng tác từng giúp Tô Hoài nhận Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt 1 năm 1996 đã được đưa lên màn ảnh nhỏ và trở thành một trong những phim kinh điển của Điện ảnh Cách mạng Việt Nam. Hai nhân vật chính là A Phủ và Mỵ - một đôi nam nữ thanh niên nghèo bị thống lý Pá Tra, một chúa đất gian ác, cấu kết với Pháp, áp bức bóc lột đến cùng cực. Hắn bắt Mỵ về làm vợ lẽ cho con trai là A Sử, và bắt A Phủ đến ở không công suốt đời để trả nợ. Khi A Phủ bị trói vì tội đánh mất bò, sắp chết đau, chết đói, chết rét, Mị cắt dây trói cứu thoát anh. Hai người trốn đến Phiềng Sa rồi nên vợ nên chồng. Sau này, nhờ có Đảng lãnh đạo, A Phủ và Mỵ đã vùng dậy, đấu tranh để tự giải phóng, cùng nhân dân xây dựng một cuộc đời ấm no, hạnh phúc. Vợ chồng A Phủ là truyện ngắn đặc sắc trong sự nghiệp văn chương của nhà văn Tô Hoài nói riêng và của văn xuôi chống Pháp nói chung. Truyện là bức tranh miêu tả chân thực và sinh động cuộc sống vùng cao, nơi có những 19 thân phận khổ đau, những con người nghèo khó sống dưới ách áp bức, bóc lột của thực dân, phong kiến.Truyện không chỉ phản ánh nỗi khổ của những người như Mị, như A Phủ, truyện còn là bài ca ca ngợi những phẩm chất cao đẹp, sức sống mãnh liệt và khát vọng tự do cháy bỏng của những người con nơi núi rừng Tây Bắc. Nếu trước Cách mạng tháng Tám, Tô Hoài nổi tiếng với tác phẩm Dế mèn phưu lưu ký, thì sau Cách mạng tháng Tám, sau khi đã đi theo kháng chiến, Tô Hoài tiếp tục khẳng định tài năng của mình bằng tập Truyện Tây Bắc.. Vợ chồng A Phủ là truyện ngắn thành công nhất trong ba truyện ngắn viết về đề tài Tây Bắc của nhà văn Tô Hoài. Tác phẩm chứa đựng cả giá trị nghệ thuật, giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo. Cùng với những bộ phim nổi tiếng như Làng Vũ Đại ngày ấy, Chị Dậu, Rừng xà nu, Số đỏ…, Vợ chồng A Phủ là một trong những “bộ phim văn học” xuất sắc nhất của điện ảnh Việt Nam. Trong bộ phim chuyển thể từ truyện ngắn, có nhiều chi tiết khác với nguyên tác văn học. Tuy vậy, những giá trị hiện thực, giá trị nhân đạo vẫn được giữ gìn nguyên vẹn. Giá trị hiện thực của tác phẩm đã được thể hiện trong cuộc sống của người dân lao động miền núi Tây Bắc, dưới ách thống trị tàn bạo của bọn thực dân, phong kiến. Nam chính A Phủ do NSND, đạo diễn Trần Phương thể hiện. Ông sinh năm 1930, là diễn viên – đạo diễn kiệt xuất của nền điện ảnh Việt Nam. Ngoài Vợ chồng A Phủ, Trần Phương từng tham gia đóng nhiều phim Cách mạng, để lại nhiều dấu ấn như Chị Tư Hậu, Tiền tuyến gọi, Vợ chồng anh Lực... Những bộ phim do ông đạo diễn cũng để lại nhiều tiếng vang, giành được nhiều giải thưởng lớn: Hy vọng cuối cùng, Tội lỗi cuối cùng, Dòng sông trắng… 20 Giao thoa giữa văn học và điện ảnh trong Vợ chồng A Phủ
Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.05 MB, 117 trang ) UBND TỈNH PHÚ THỌ LỜI CẢM ƠN Để hoàn thành luận văn này, tôi đã nhận được sự giúp đỡ vô cùng quý báu của các tập thể và cá nhân. Tôi xin tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới TS. Nguyễn Thị Thúy Hằng, người đã tận tâm hướng dẫn tôi trong quá trình học tập và triển khai đề tài luận văn. Tôi xin trân trọng cảm ơn Ban giám hiệu trường Đại học Hùng Vương, Phòng đào tạo, các thầy cô giáo trong khoa Khoa học Xã hội và Nhân văn, các thầy cô giáo trong bộ môn Ngữ Văn đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu. Xin bày tỏ lòng biết ơn gia đình, người thân và bạn bè đã luôn là điểm tựa vững chắc để tôi hoàn thành luận văn này. Phú Thọ, ngày 10 tháng 6 năm 2018 Tác giả luận văn Nguyễn Quang Chung iii MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1 1. Tính cấp thiết của vấn đề nghiên cứu....................................................................... 1 2. Tổng quan tình hình nghiên cứu ............................................................................... 2 3. Nhiệm vụ và mục tiêu của đề tài ............................................................................10 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ..........................................................................11 5. Phương pháp nghiên cứu.........................................................................................11 6. Cấu trúc luận văn .....................................................................................................12 Chương 1. MỐI QUAN HỆ GIỮA VĂN HỌC VÀ ĐIỆN ẢNH ..........................13 1.1. Bản chất của văn học ............................................................................................13 1.1.1. Văn học ...............................................................................................................13 1.1.2. Đặc trưng của văn học nghệ thuật ....................................................................14 1.2. Bản chất của điện ảnh...........................................................................................18 1.2.1. Nghệ thuật điện ảnh...........................................................................................18 1.2.2. Đặc trưng của ngôn ngữ điện ảnh ....................................................................20 1.3. Mối quan hệ văn học – điện ảnh..........................................................................27 1.3.1. Sự tương đồng, khác biệt giữa văn học và điện ảnh.......................................27 1.3.2. Sự tương tác, hiệu ứng cộng sinh giữa văn học - điện ảnh ............................29 Chương 2. TRUYỆN NGẮN “VỢ CHỒNG A PHỦ” - ĐIỆN ẢNH TRONG VĂN HỌC ....................................................................................................................33 2.1. Tô Hoài và mảng sáng tác về đề tài miền núi ....................................................33 2.2. Vợ chồng A Phủ - mối giao thoa với điện ảnh ..................................................36 2.2.1. Cốt truyện và nghệ thuật dựng truyện trong Vợ chồng A Phủ ......................37 2.2.2. Nghệ thuật miêu tả - tạo hình trong Vợ chồng A Phủ ....................................44 2.2.3. Nhân vật và nghệ thuật xây dựng nhân vật trong Vợ chồng A Phủ .....49 Chương 3. PHIM “ VỢ CHỒNG A PHỦ” – VĂN HỌC TRONG ĐIỆN ẢNH .55 iv 3.1. Mai Lộc và điện ảnh cách mạng Việt Nam........................................................55 3.2. Vợ chồng A Phủ - sự kết giao nhuần nhuyễn văn học và điện ảnh .................57 3.2.1. Kịch bản phim – những tiếp nhận và sáng tạo................................................57 3.2.2. Âm nhạc, hội họa trong phim Vợ chồng A Phủ ..............................................64 3.2.3. Hệ thống nhân vật – tiếp nhận và sáng tạo......................................................73 PHẦN KẾT LUẬN .....................................................................................................80 TÀI LIỆU THAM KHẢO ..........................................................................................82 1 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của vấn đề nghiên cứu 1.1. Trong gia đình nghệ thuật, văn học luôn có mối quan hệ mật thiết với các loại hình nghệ thuật khác, đặc biệt là với điện ảnh. Văn học là cái kho vô tận, là nền móng đầu tiên, cung cấp “cái viết” cho điện ảnh. Là một loại hình nghệ thuật tổng hợp, điện ảnh kết hợp nhuần nhuyễn các yếu tố khác nhau của văn học, điêu khắc, tạo hình, sân khấu, âm nhạc, khiêu vũ. Thành công của một tác phẩm điện ảnh là thành công của sự kết giao, hòa hợp giữa các ngành nghệ thuật. Chuyển thể một tác phẩm văn học thành tác phẩm điện ảnh là cả một chặng đường dài và cũng không kém phần phức tạp, đòi hỏi cả hai loại hình nghệ thuật này phải có sự tương tác lẫn nhau một cách hợp lí. 1.2. Vấn đề chuyển thể văn học - ảnh không còn là vấn đề xa lạ của nghệ thuật điện ảnh trong nước. Thực tế chứng minh hơn 60 năm qua điện ảnh Việt đã khá thành công trong chuyển thể từ tác phẩm văn học. Tính từ bộ phim chuyển thể thành công được coi là khởi đầu Lục Vân Tiên dựa theo truyện Nôm Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu (1957) đến nay, nhiều đạo diễn, biên kịch đã thể hiện được sức mạnh kết nối và khả năng tương hỗ giữa hai loại hình nghệ thuật này. Có thể kể đến một số tác phẩm điện ảnh chuyển thể thành công từ văn học như: Chị Tư Hậu (chuyển thể từ truyện Một chuyện chép ở bệnh viện của Bùi Đức Ái, 1963), Bến không chồng (chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên của Dương Hướng, 2000), Người đàn bà mộng du (chuyển thể từ truyện Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành của Nguyễn Minh Châu, 2003), Mê thảo thời vang bóng (dựa theo tiểu thuyết Chùa Đàn của Nguyễn Tuân), Long thành cầm giả ca (dựa theo bài thơ chữ Hán cùng tên của Nguyễn Du), Chuyện của Pao (khởi đầu từ Tiếng đàn môi sau bờ rào đá - Đỗ Bích Thúy)... Vợ chồng A Phủ - tác phẩm điện ảnh chuyển thể từ truyện ngắn cùng 2 tên của nhà văn Tô Hoài - đã được coi là một trong những bộ phim chuyển thể thành công. Bộ phim do xưởng phim Việt Nam sản xuất (Đạo diễn Mai Lộc) và đã được vinh danh trong Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 2 năm 1973 với giải Bông sen bạc. Nghiên cứu về Vợ chồng A Phủ từ góc độ tự sự văn học và tự sự điện ảnh cũng là một cách minh định giá trị của tác phẩm từ nguyên gốc đến tác phẩm chuyển thể. Đây cũng là cách thức khẳng định tính giao thoa văn học - điện ảnh. 1.3. Chọn một lối đi đúng trong nghiên cứu các loại hình nghệ thuật là vô cùng cần thiết. Nhìn nhận mối quan hệ tương giao giữa văn học và điện ảnh cũng là một cách thức để khám phá tiếng nói riêng – chung giữa chúng. Vợ chồng A Phủ trên hai phương diện - truyện và phim – đều có những đặc sắc riêng về mặt giá trị loại thể, đồng thời cũng thể hiện dấu ấn cộng hưởng, tương tác rất rõ nét. Đây là một gợi ý hay cho chúng tôi khi định hướng nghiên cứu về mối giao thoa giữa văn học và điện ảnh. Từ các vấn đề lý luận và thực tiễn nói trên, chúng tôi mạnh dạn nghiên cứu đề tài: “Giao thoa giữa văn học và điện ảnh trong Vợ chồng A Phủ”. 2. Tổng quan tình hình nghiên cứu Tô Hoài là một trong những cây bút xuất sắc của nền văn học Việt Nam hiện đại, là tấm gương tự học, miệt mài cống hiến, say mê lao động nghệ thuật cho đến tận những năm tháng cuối đời. Kể từ khi trình làng những tác phẩm đầu tay đến khi từ biệt cõi thế ông đã có hai phần ba thế kỉ gắn bó với văn nghiệp và để lại một khối lượng sáng tác đồ sộ. Tô Hoài được ghi nhận không chỉ bởi tên tuổi xuất hiện trong nhiều thể loại văn học: tiểu thuyết, truyện ngắn, ký sự,...mà còn bởi chất lượng nghệ thuật của mỗi một sáng tác. Thành công nhất ở đề tài viết về miền núi, Tô Hoài được mệnh danh là nhà văn xuất sắc viết về các dân tộc vùng cao Tây Bắc. Những chuyến đi 3 thực tế dài ngày đã giúp nhà văn tích lũy vốn sống, tăng thêm tình cảm sâu nặng với nhân dân Tây Bắc. Vì sự gắn bó tình nghĩa, thủy chung này mà các sáng tác về đề tài vùng cao của ông ra đời như một sự trả ơn sâu sắc với người dân nơi đây. Nhiều tác phẩm về đề tài này gây được tiếng vang và tạo vị thế quan trọng trong sáng tác của ông. Tiêu biểu là truyện ngắn Vợ chồng A Phủ trong tập Truyện Tây Bắc. Điều đặc biệt từ khi Vợ chồng A Phủ được đạo diễn Mai Lộc chuyển thể thành phim thì lại càng nhận được nhiều sự thu hút, quan tâm từ phía độc giả. Mai Lộc vốn là một đạo diễn điện ảnh cách mạng và khá thành công trong mảng đề tài nói trên. Vợ chồng A Phủ cũng được coi là một mốc son trong sự nghiệp của ông. Với giải Bông sen vàng (1973), Vợ chồng A Phủ được giới nghiên cứu quan tâm cũng là điều dễ hiểu. 2.1. Những nghiên cứu về truyện ngắn Vợ chồng A Phủ Trong nguồn mạch sáng tác cho dân tộc vùng cao Vợ chồng A phủ được đánh giá là một tác phẩm xuất sắc, đặc biệt trong việc thể hiện phong cách của Tô Hoài. Chính vì lẽ đó truyện ngắn này luôn được nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu. Sau đây là những nghiên cứu tiêu biểu nhất: Tác giả Vân Thanh đã dành một bài viết khá sâu sắc để khẳng định sự thành công của Tô Hoài, trước hết là vị trí bước ngoặt của tập Truyện Tây Bắc (đã từng được giải nhất về tiểu thuyết 1954 -1955 của Hội văn nghệ Việt Nam) trong sự nghiệp sáng tác của ông. Tác giả viết: “Cho đến nay phần thành công nhất trong sự nghiệp sáng tác của anh là những tác phẩm viết về miền núi... Truyện Tây Bắc ra đời đánh dấu bước phát triển mới của Tô Hoài cả về mặt tư tưởng và mặt nghệ thuật. Đây là một tập truyện xuất sắc trong văn xuôi kháng chiến...” [14; 121]. Tác giả Huỳnh Lý có một cái nhìn khá toàn diện về Truyện Tây Bắc. Không chỉ đề cập tới chủ đề, nội dung tác phẩm, Huỳnh Lý còn có những 4 đánh giá sắc sảo về nghệ thuật: “Khi miêu tả một cảnh đẹp, một cuộc vui, một không khí gia đình đầm ấm, ông không ngại nói nhiều, ông đưa rất đúng lúc màu sắc, hình ảnh và nhạc điệu vào khiến cho đoạn văn vừa như một khúc nhạc, một bức tranh, một bài thơ”[14; 241]. Trong bài viết Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài, tác giả Nguyễn Văn Long thấy “thành công của truyện trước hết ở nghệ thuật xây dựng nhân vật” và “tác giả đã nắm bắt, lựa chọn được nhiều chi tiết chân thực, sinh động mà có sức khái quát cao” [14; 256]. Bên cạnh đó tác giả khẳng định tài năng của Tô Hoài trong việc khắc họa đời sống tâm lí nhân vật: “tác giả đã diễn tả được những chuyển biến tính tế trong nội tâm nhân vật, nhưng vẫn giữ được tính chất tự nhiên, chân thực của con người miền núi trong các nhân vật của mình, tránh được cái nhìn đơn giản cũng như cách tô vẽ giả tạo khi viết về những con người miền núi”[14; 255]. GS. Hà Minh Đức trong lời giới thiệu “Tuyển tập Tô Hoài” (1987) cũng đưa ra lời kết luận đáng chú ý về sự gắn bó giữa nhà văn và nhân vật: “Tô Hoài đã miêu tả nhân vật của mình với tình cảm trân trọng, mến yêu, không có khoảng cách giữa tác giả và nhân vật”. Ông cũng nhấn mạnh đến sự hòa hợp giữa ngôn ngữ người kể chuyện và ngôn ngữ nhân vật. Sự dung dị, ít nói, bút pháp thể hiện nội tâm qua hành động cũng là điều mà Hà Minh Đức nhấn mạnh trong bài viết [14; 140]. Với tham luận: Quan niệm nghệ thuật về con người trong truyện ngắn của Tô Hoài về đề tài miền núi (Diễn đàn văn nghệ Việt Nam) Nguyễn Long chỉ rõ: “Quan niệm nghệ thuật về con người mặc dù trải qua bao nhiêu đau khổ, có lúc tưởng như buông xuôi nhưng khi được giác ngộ, họ đã vươn dậy mạnh mẽ dưới ánh sáng cách mạng. Họ xuất hiện với tư cách là người công dân hơn là đối tượng thẩm mỹ” [14; 442]. Như vậy, nghiên cứu về Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài khá dày dặn. 5 Đây chính là tiền đề là thành tựu quan trọng mà thế hệ sau được kế thừa. 2.2. Nghiên cứu về bộ phim “Vợ chồng A Phủ” Bộ phim Vợ chồng A Phủ của đạo diễn Mai Lộc ra đời lập tức thu hút được khá nhiều sự quan tâm của công chúng và giới nghiên cứu, phê bình. Một vài ví dụ: - “Vợ chồng A Phủ - bộ phim từ tác phẩm để đời của Tô Hoài” (Tiểu Uyên) - “Bản mẫu của văn học – điện ảnh đề tài miền núi” (Thi Thi, http://hanoimoi.com.vn/Ban-in/Van-hoa) - “Những bí mật thú vị về phim Vợ chồng A Phủ” (Bích Đào https://www.nguoiduatin.vn) - “Vợ chồng A Phủ, độ chênh giữa truyện và phim” ( Đỗ Thành Dương - http://www.giaoduc.edu.vn) - “Vợ chồng A Phủ từ trang sách của Tô Hoài đến màn ảnh rộng” (Bích Ngọc - http://dantri.com.vn/)... Trong bài: “Vợ chồng A Phủ - bộ phim từ tác phẩm để đời của Tô Hoài”, tác giả Tiểu Uyên nhận định: “Sáng tác từng giúp Tô Hoài nhận giải thưởng Hồ Chí Minh đợt 1 năm 1996 đã được đưa lên màn ảnh nhỏ và trở thành bộ phim kinh điển của điện ảnh cách mạng Việt Nam”. Tác giả hết lời khen nhân vật nữ chính với khả năng diễn xuất của Đức Hoàn: diễn viên “đã trút bỏ hoàn toàn những kiểu cách của một tiểu thư khuê các Hà Thành để hóa thân thành một cô gái Mông thực thụ. Từ cách đi đứng, ngoáy mông, vuốt tóc cho tới quấn khăn theo kiểu người Mông” [44]. Cũng không có gì là khoa trương khi nhấn mạnh diễn xuất của Đức Hoàn. Bởi với vai diễn này bà đã nhận được giải Bông sen Bạc tại Liên hoan phim Việt Nam lần thứ hai năm 1973 Với “Vợ chồng A Phủ từ trang sách đến của Tô Hoài đến màn ảnh 6 rộng”, tác giả Bích Ngọc đã viết về sự thành công của bộ phim: “ cùng với những bộ phim nổi tiếng như Làng Vũ Đại ngày ấy, Chị Dậu, Rừng xà nu, Số đỏ..., Vợ chồng A Phủ là một trong những bộ phim văn học xuất sắc của điện ảnh Việt Nam. Trong bộ phim chuyển thể từ truyện ngắn, có nhiều chi tiết khác với nguyên tác văn học. Tuy vậy, những giá trị hiện thực, giá trị nhân đạo vẫn được giữ gìn nguyên vẹn [38]. Đa số các bài viết tập trung chỉ ra cái hay, cái còn tồn tại của bộ phim chuyển thể. Những khen – chê làm rộn diễn đàn không chỉ một thời này giống như một tất yếu về một hiện tượng đáng được quan tâm. Bên cạnh cái thành công được khẳng định, bộ phim cũng nhận được một vài tiếc nuối (khi nói về sự vênh lệch trong quá trình chuyển thể). Tuy nhiên chúng tôi muốn nhấn mạnh: đó là sự kĩ tính không thể tránh khỏi khi độc giả đã ngấm quá sâu cái thành công của một tác phẩm văn học xuất sắc của một nhà văn có tiếng. 2.3. Nghiên cứu về mối giao thoa giữa văn học và điện ảnh trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ 2.3.1. Nghiên cứu về mối giao thoa giữa văn học và điện ảnh Văn học và điện ảnh với mối nghệ thuật tương giao luôn là một vấn đề cuốn hút giới nghiên cứu và phê bình. Nhiều bài viết, công trình đã bàn về vấn đề này. Chẳng hạn như, Lý thuyết cải biên học - từ tác phẩm văn học đến tác phẩm điện ảnh - trường hợp Kurosawa Akira của tác giả Đào Lê Na. Cải biên tác phẩm văn học sang kịch bản điện ảnh của Lê Cẩm Lượng; Tác phẩm chuyển thể nhiều mặt mạnh và yếu của Huyền Thanh; Ngoài ra, Phạm Hồng Thinh cho biết Cần tránh tùy tiện trong việc chuyển tác phẩm văn học sang điện ảnh của; Trịnh Đình Khôi khẳng định Tính chuyên nghiệp của điện ảnh; Hải Ninh Thử bàn về một số phong cách trong điện ảnh Việt Nam ... Như vậy, vấn đề chuyển thể đã không còn là mới và hiện nay đã trở nên rất phổ biến ở Việt Nam cũng như trên thế giới. Thực sự khó khăn nếu muốn 7 thống kê chính xác con số những tác phẩm văn học đã được chuyển thể thành phim. Duy có một điều chắc chắn, những tác phẩm kinh điển ở mỗi quốc gia, mỗi dân tộc ít nhất một lần từng bén duyên với bộ môn nghệ thuật thứ bảy này. Kim Vân Kiều (chuyển thể từ Truyện Kiều - Nguyễn Du) là bộ phim chuyển thể đầu tiên của được công chiếu năm 1924 ở Việt Nam. Kể từ đó, văn học đã được nhìn nhận là mảnh đất tiềm năng thì vẫn còn khá hiếm. Mãi đến những năm đầu thế kỉ XX, vấn đề này được hâm nóng trong một số công trình. Năm 2009, Luận văn Từ tác phẩm văn học đến phim truyện điện ảnh của Trương Nữ Diệu Linh (Trường Đại học Khoa học và Nhân văn thành phố Hồ Chí Minh) đã tìm hiểu khá cặn kẽ về thuật ngữ điện ảnh, sự tương tác giữa tác phẩm văn học và điện ảnh cũng như những kiến thức chung nhất về chuyển thể. Với luận văn Vấn đề chuyển thể tác phẩm văn học sang tác phẩm điện ảnh (từ góc nhìn tự sự), Đỗ Thị Ngọc Diệp cũng đã cung cấp một cái nhìn khá toàn diện về chuyển thể: “Khi chuyển thể tác phẩm văn học lên màn ảnh, người chuyển thể có thể vay mượn, tiếp thu nhiều yếu tố tự sự từ tác phẩm văn học gốc: đường dây cốt truyện chính; các chi tiết nghệ thuật đặc sắc; hệ thống sự kiện, biến cố; nhân vật và tính cách nhân vật... Một tác phẩm văn học có cốt truyện hay, tình tiết hấp dẫn, cấu trúc mới lạ, tính cách nhân vật sắc nét... luôn thu hút sự quan tâm của các nhà làm phim [46; 90]. Có thể kể thêm hai chuyên luận nghiên cứu về vấn đề này như: Từ Chùa Đàn đến Mê Thảo: Liên văn bản trong văn chương và điện ảnh (Nguyễn Nam); Về quá trình chuyển thể tiểu thuyết thành phim (qua tác phẩm Triệu phú ổ chuột) (Phạm Ngọc Hiền). Những nghiên cứu này đều có những phân tích và so sánh tác phẩm văn học gốc với phim chuyển thể để thấy những mối tương quan giữa chúng. 8 Năm 2014, TS. Phan Bích Thủy trong cuốn sách Từ tác phẩm văn học đến tác phẩm điện ảnh đã đi sâu phân tích các yếu tố cơ bản của quá trình chuyển thể, rút ra lý giải hữu ích, góp phần nâng cao nghệ thuật chuyển thể tác phẩm văn học sang điện ảnh trong bối cảnh sáng tác phim truyện hiện nay. Chuyên luận đồng thời khảo sát được một số trường hợp chuyển thể thành công của điện ảnh Việt Nam từ trước đến nay. Công trình “Lí thuyết cải biên học: Từ tác phẩm văn học đến tác phẩm điện ảnh- trường hợp Kurosawa Akira” của Đào Lê Na (Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Thành phố Hồ Chí Minh năm 2015) một lần nữa lại cung cấp cho chúng ta một lượng kiến thức mới mẻ về vấn đề chuyển thể, cải biên tác phẩm văn học sang điện ảnh. Gần đây, TS. Lê Thị Dương (2016) với công trình Chuyển thể văn học - điển ảnh (nghiên cứu liên văn bản) đã tiếp cận vấn đề chuyển thể từ lí thuyết liên văn bản. Cuốn sách cũng khai thác khá sâu những dạng thức của chuyển thể: chuyển thể trung thành và chuyển thể tự do. Bên cạnh đó, mối quan hệ mật thiết giữa văn học và điện ảnh luôn thu hút quan tâm của giới nghiên cứu, phê bình. Tiêu biểu: - Minh Trí (2002), “Mối quan hệ giữa văn học và điện ảnh”, Tạp chí văn hóa nghệ thuật, số 12. - Hương Nguyên (2001), “Từ văn học đến điện ảnh”, Tạp chí Văn hoá nghệ thuật, số 2. - Phạm Vũ Dũng (1999), “Từ Văn học đến điện ảnh”, Tạp chí Văn hoá nghệ thuật, số 6. Tác giả Tiểu Quyên (2012) trong bài viết Văn học - điện ảnh: Hiệu ứng cộng sinh đã nói về ảnh hưởng của mối quan hệ giữa văn học điện ảnh, đồng thời chỉ ra áp lực của các nhà làm phim từ công chúng khi chuyển thể một bộ phim từ tác phẩm văn học. Bài viết Chuyển thể văn học thành tác phẩm điện 9 ảnh: Khó để so sánh tác giả Mỹ Trân (2015) thì khái quát tình hình chung của một số bộ phim chuyển thể gần đây dưới sự đánh giá của người xem và của chính người hoài thai tác phẩm được chuyển thể. Song, đa số các ý kiến đồng thuận: phim là sự sáng tạo lại với những đặc trưng riêng của loại hình nghệ thuật mang tính trực tiếp chứ không phải là bản sao của nguyên tác. Dù nhìn nhận và đánh giá ở nhiều góc độ khác nhau nhưng các bài viết đều khẳng định mối quan hệ mật thiết giữa hai loại hình nghệ thuật văn học và điện ảnh. 2.3.2. Nghiên cứu về mối giao thoa giữa văn học và điện ảnh trong “Vợ chồng A Phủ” Trên phương diện tiếp nhận, nhiều đánh giá khen chê khá khắt khe khi đối sánh giữa thành công của truyện và phim. Có bàn định về nhân vật, về vai diễn, về sự phát triển của cốt truyện, về cả những hạn chế khi phim công chiếu… Tiểu Nhi, trong bài “Vợ chồng A Phủ” được Tô Hoài chắp cánh đã đưa ra nhận xét: nhà văn Tô Hoài đã viết về Mỵ, A Phủ với tất cả lòng yêu thương bằng một ngòi bút chan chứa tính nhân văn. Có những khác biệt giữa truyện và phim trong “Vợ chồng A Phủ” nhưng tài năng của nhà văn Tô Hoài thì không ai có thể phủ nhận [41]. Bài viết Vợ chồng A Phủ - từ trang sách đến màn ảnh của tác giả Nguyễn Hằng Nga đã nhấn mạnh đến sự thành công của chuyển thể: “Bộ phim đã mang đến một làn gió mới trong việc cảm nhận câu chuyện “Vợ chồng A Phủ” đã trở nên quen thuộc với thế hệ độc giả. Cả truyện ngắn và phim đều là những thành công của Tô Hoài khi chính ông là người chắp bút để chuyển thể kịch bản thành phim”[40]. Phan Bích Hà cho rằng: “Trong bộ phim Vợ chồng A Phủ, các nhân vật được xây dựng đã có chiều sâu, và cá tính đã đậm nét hơn. Bộ phim khá thành 10 công với nghệ thuật biểu hiện mang sắc thái của dân tộc. Tuy nhiên, bên cạnh các nhân vật đã có chiều sâu như Mị và người vợ cả được thể hiện khá đậm nét, thì nhân vật trung tâm A Phủ lại vẫn chưa “vượt thoát” được khỏi sự ảnh hưởng của mô hình”[12; 178]. Tác giả Bích Ngọc trong bài viết Vợ chồng A phủ từ trang sách đến màn ảnh rộng đã viết: “Vợ chồng A phủ là niềm tự hào của văn học điện ảnh Việt Nam. “Cú đúp” thành công trên trang sách và trên màn ảnh của Vợ chồng A Phủ là nhờ tài năng của nhà văn – nhà biên kịch Tô Hoài” [38]… Có thể nói, các bài báo, các nghiên cứu nói trên chủ yếu tập trung vào khẳng định tài năng của Tô Hoài. Một số nghiên cứu có “đụng chạm” ít nhiều đến chuyển thể, nhấn mạnh đến sự lan tỏa cộng hưởng khi Vợ chồng A Phủ được chuyển thể thành phim. Tuy nhiên, nghiên cứu giao thoa giữa văn học và điện ảnh trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ một cách hệ thống, toàn diện thì chưa có một công trình nghiên cứu nào đề cập tới. Do đó, chúng tôi thực hiện đề tài nghiên cứu này, vì đây là điều thực sự cần thiết. 3. Nhiệm vụ và mục tiêu của đề tài 3.1. Mục tiêu - Tìm hiểu sự giao thoa giữa văn học - điện ảnh, trường hợp: Vợ chồng A Phủ. - Khẳng định giá trị của tác phẩm văn học Vợ chồng A Phủ, đánh giá về những thành công và hạn chế của bộ phim chuyển thể từ truyện ngắn cùng tên (đạo diễn Mai Lộc). 3.2. Nhiệm vụ - Xác lập tiền đề lí luận: văn học, điện ảnh, đặc trưng của văn học và điện ảnh; mối quan hệ văn học và điện ảnh. - Tìm hiểu sự giao thoa giữa văn học và điện ảnh trong truyện ngắn Vợ 11 chồng A Phủ và bộ phim cùng tên. Cụ thể là: các yếu tố điện ảnh trong tác phẩm văn học và các yếu tố văn học trong tác phẩm điện ảnh. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1 Đối tượng - Sự giao thoa giữa văn học và điện ảnh, trường hợp Vợ chồng A Phủ của nhà văn Tô Hoài và bộ phim cùng tên (đạo diễn Mai Lộc). 4.2. Phạm vi - Truyện ngắn Vợ chồng A Phủ - Tô Hoài (trong tập truyện Tây Bắc, NXB Văn học, 1969). - Bộ phim Vợ chồng A Phủ Đạo diễn: Mai Lộc Nhà sản xuất: Xưởng phim chuyện Hà Nội Năm sản xuất: 1961 5. Phương pháp nghiên cứu Để thực hiện tốt vấn đề nghiên cứu người viết đã sử dụng phối kết hợp các phương pháp sau: - Phương pháp liên ngành: Giúp người viết thực hiện tốt nhiệm vụ nghiên cứu, chỉ ra được bản chất của văn học điện ảnh, từ đó làm rõ mối quan hệ, tính chất giao thoa được thể hiện trong “Vợ chồng A Phủ”. - Phương pháp phân tích tổng hợp: Cũng được vận dụng triệt để trong khai thác các tài liệu liên quan đến nội dung luận văn. Từ việc phân tích những nghiên cứu về vấn đề chuyển thể, về cuộc đời nhà văn Tô Hoài, tuyến nhân nhân vật và kết cấu cốt truyện trong văn học và điện ảnh, người viết tổng hợp và đưa ra những ý kiến đánh giá riêng về việc chuyển thể tác phẩm văn học sang tác phẩm điện ảnh trên các phương diện đó. 12 - Phương pháp so sánh, đối chiếu: sử dụng để soi chiếu những thay đổi của tác phẩm điện ảnh so với nguyên gốc, nhằm tìm ra nguyên nhân, mục đích thay đổi của các nhà làm phim. Đồng thời giúp người viết thực hiện tốt nhiệm vụ khác khi triển khai vấn đề. - Phương pháp nghiên cứu liên văn bản: cho thấy sự chuyển dịch ký hiệu của các văn bản trong mối tương tác giữa văn học với điện ảnh. - Phương pháp so sánh - loại hình: Dùng phương pháp so sánh - loại hình để tìm hiểu cái giống và khác nhau giữa hai loại hình nghệ thuật văn học và điện ảnh. - Thao tác thống kê, phân loại được vận dụng tập hợp ngữ liệu, chỉ ra các khía cạnh tương ứng và khác biệt trong tác phẩm văn học và tác phẩm điện ảnh. 6. Cấu trúc luận văn Ngoài phần Mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, luận văn được chia làm 3 chương: Chương 1: Mối quan hệ giữa văn học và điện ảnh Chương 2: Truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” - điện ảnh trong văn học Chương 3: Phim “Vợ chồng A Phủ” - văn học trong điện ảnh 13 Chương 1 MỐI QUAN HỆ GIỮA VĂN HỌC VÀ ĐIỆN ẢNH Nghệ thuật là quá trình sáng tạo ra những sản phẩm (vật thể, phi vật thể) chứa đựng giá trị lớn về tư tưởng, thẩm mĩ, văn hóa,… tác động tới người thưởng thức trên nhiều phương diện. Nghệ thuật là sản phẩm kì diệu, vĩ đại nhất của trí tuệ và tâm hồn nhân loại. Trong các loại hình nghệ thuật, văn học và điện ảnh là hai loại hình được coi là có mối lương duyên kỳ diệu và đáng chú ý nhất. Vậy văn học và điện ảnh thực sự là gì? Mối quan hệ, khả năng tương tác giữa chúng? Chúng tôi sẽ dành toàn bộ chương 1 để tìm hiểu những vấn đề này. 1.1. Bản chất của văn học 1.1.1. Khái niệm văn học Theo từ điển Tiếng Việt: văn học “là nghệ thuật dùng ngôn ngữ và hình tượng để thể hiện đời sống và xã hội con người” [31; 1100]. Với tư cách là bộ môn nghệ thuật (lấy con người và các vấn đề đời sống xã hội liên quan đến con người làm đối tượng nhận thức trung tâm, lấy việc xây dựng hình tượng làm phương thức biểu đạt nội dung và lấy ngôn từ làm chất liệu xây dựng hình tượng), văn học nhận thức thế giới, xã hội, con người với toàn bộ tính tổng hợp, toàn vẹn, sống động trong các mối quan hệ của nó trên phương diện thẩm mĩ. Không phải lúc nào văn học cũng trực tiếp miêu tả con người nhưng dù thế nào chăng nữa con người vẫn luôn là đối tượng trung tâm của văn học. Đặc biệt, văn học không phản ánh đời sống con người một cách máy móc, loại hình nghệ thuật này còn phản ánh, ca ngợi, hình tượng hóa mơ ước, khát vọng, tâm tư, tình cảm trong chiều sâu thăm thẳm của thế giới tâm hồn con người. Văn học còn có khả năng chiếm lĩnh không gian thời gian, mở rộng biên độ phản ánh đời sống. Văn học cũng khiến các ngành nghệ thuật khác ganh tị ở khả năng tái hiện lời nói cũng như 14 tư tưởng của con người. 1.1.2. Đặc trưng của văn học nghệ thuật Làm nên tính đặc trưng riêng biệt của văn học chính là yếu tố ngôn từ. Với tất cả phẩm chất thẩm mĩ và khả năng nghệ thuật của mình, ngôn từ đã tạo ra thành công của loại hình nghệ thuật này. 1.1.2.1. Tính phi vật thể của ngôn từ văn học Với chất liệu là ngôn từ, văn học phát huy thế mạnh với các hình tượng “phi vật thể”, đưa người đọc thâm nhập vào thế giới của cảm xúc, ấn tượng, suy tưởng, liên tưởng mà ngôn ngữ thông thường ít khi truyền đạt được. Không ai có thể nhìn hình tượng văn học bằng con mắt thật, bên ngoài, nó chỉ bộc lộ qua cái nhìn sâu thẳm bên trong. Ngôn ngữ với tác động “ma thuật” của nó đã dẫn dắt người đọc đồng sáng tạo với nhà văn, từ đó, góp phần tạo tiếng nói đa thanh, đa chiều cho tác phẩm. Khác với các loại hình nghệ thuật khác, hình tượng văn học không thể cảm nhận trực tiếp bằng thính giác ( như khi ta nghe một bản nhạc), thị giác (như khi ta xem một bức tranh)... Ở đây, văn học cần độc giả tưởng tượng suy ngẫm và chỉ ra cái hình tượng, hàm ý nghệ thuật sâu xa mà nhà văn gửi gắm vào trong tác phẩm. Tuy nhiên, ngôn ngữ cùng sự sáng tạo giúp các nhà văn có thể tạo ra cả những cái hữu hình và cái vô hình để người đọc cảm nhận bằng mọi giác quan. Như trong bài thơ Tương ứng của Baudlaire: “Có những mùi hương thơm mát như da thịt trẻ con/ êm nhẹ như tiếng sáo xanh mướt như cỏ non...”, chúng ta có thể cảm nhận được sự chuyển đổi của nhiều giác quan, người đọc cảm nhận trong không gian tương ứng từ thị giác đến thính giác thiên nhiên tươi đẹp tràn đầy sức sống. Ngôn ngữ của văn học là ngôn ngữ độc đáo có tính chất nội chỉ, biểu hiện cái thế giới được hư cấu trong tâm hồn của người và trong văn bản. Ngôn ngữ mở ra hình ảnh ở trong tâm trí, phát huy trí tưởng tượng, trường liên tưởng của mỗi chúng ta. 15 Như vậy, tính phi vật thể của hình tượng ngôn từ là một đặc điểm tiêu biểu để phân biệt văn học với các loại hình nghệ thuật khác. Đặc tính này giúp cho nhà văn mở rộng được hiện thực da dạng, cùng với sự liên tưởng phong phú của con người. 1.1.2.2. Khả năng miêu tả đời sống, tâm lí nhân vật Ngôn ngữ văn học có vai trò quan trọng trong đời sống con người. Ngôn ngữ đã giúp nhà văn khai thác thế giới tinh thần, khám phá những suy tư phức tạp, những xúc cảm, rung động tế vi nhất của lòng người. Cảm xúc, tâm trạng, trạng thái tâm lý bất kỳ nào đó của con người cũng cung cấp cho nhà văn những thông tin, dữ liệu, góp phần tạo nên những kiệt tác, những bức tranh hiện thực một cách cụ thể, sinh động. Đây là một lợi thế của văn học với tư cách là một loại hình nghệ thuật ngôn từ. Tâm lí được coi là một trong những yếu tố quan trọng nhất của nhân vật. Tâm lí là cái thể hiện khả năng độc lập về nhân cách của một cá thể người được nhà văn miêu tả trong tác phẩm. Dĩ nhiên, trong giai đoạn văn học chưa phát triển, yếu tố tâm lý không đóng vai trò quan trọng trong sự tả, kể về con người. Điều này được minh chứng trong hệ thống nhân vật của các tác phẩm tự sự dân gian, khi yếu tố tâm lí hầu như không xuất hiện. Ngay cả tiểu thuyết thời trung đại, hầu như các nhà văn cũng chưa có ý thức làm rõ trạng thái tinh thần của nhân vật. Tam quốc diễn nghĩa của La Quán Trung không miêu tả tâm trạng của Lưu Bị sau trận hỗn chiến Tương Dương. Cảm xúc hỗn độn, suy tính đắn đo của nhân vật chỉ được đọc, đoán, nhận biết thông qua hành động Lưu Bị ném A Đẩu xuống đất... Càng về sau, khi văn học đã phát triển thêm một bước mới, mối quan tâm đối với tâm lý nhân vật càng được chú ý. Văn học Tây Âu thế kỷ XVIII đã tạo được một bước tiến lớn trong khả năng phân tích, mổ xẻ tâm lí nhân vật. Những tác phẩm như Julie hay là nàng Héloise mới của J.J. Rousseau, Những nỗi đau của chàng Verter của J.V. 16 Goethe... là những thành tựu nổi bật của một thời. Ở Việt Nam, các nhà nghiên cứu nhận định rằng Truyện Kiều (Nguyễn Du) thực sự thành công trong nghệ thuật tự sự thể hiện khả năng khám phá thế giới tâm hồn các nhân vật, trước hết là nhân vật Thúy Kiều. Các đại diện của chủ nghĩa hiện thực văn học Âu – Mĩ thế kỉ XIX , XX (L. Tolstoi, F. Dostoievski) còn phát hiện ra cái gọi là “Phép biện chứng của tâm hồn” (không chỉ miêu tả các trạng thái tinh thần của con người, hơn thế, phát hiện cả quá trình, cơ chế nảy sinh các trạng thái ấy nữa. Do nắm được bí mật của tâm hồn, các nhà văn không khó để đi sâu vào mỗi cuộc đời, mỗi số phận. Nhiều tác giả văn học Việt Nam hiện đại (Nam Cao, Tô Hoài, Nguyễn Thi...) đã chứng tỏ được tài năng của mình khi đi vào tận cùng nhữngrung cảm diễn ra trong tâm hồn con người. Có ai đó đã nói: khách thể của văn học là “vương quốc bất tận của tinh thần”. Ngôn ngữ là điều kiện tiên quyết giúp văn học khám phá từng chi tiết cấu trúc tạo nên vương quốc tâm hồn và dẫn dắt độc giả cảm nhận nó. Suy tư trong lòng nhân vật tưởng như vô hình mà lại hữu hình. Bởi ngôn ngữ tạo ra cảm giác về thực tại, hiển hiện với đủ cảm giác: vui sướng, tê dại, đau khổ, hân hoan trên từng đường gân, thớ thịt… Nguyễn Ngọc Tư rất tài trong cách thể hiện nỗi đau, từ hành động gắng an nhiên với những gì đang buốt nhói: “tôi ngồi quẹt tay lau nước mắt đi, kỹ càng, để gương mặt an nhiên, ráo hoảnh. Tôi quyết không để cha thấy mình buồn”[30; 182] đến xúc cảm dửng dưng, cô đơn tột cùng giữa giống người. Cái cách Ngọc Tư để cho nhân vật “nghe” được tiếng vịt nhưng lại khó khăn khi dùng tiếng người: “những kí ức chắp vá, đứt đoạn được chúng tôi kể khá chậm, một phần vì đã lâu không dùng cách giao tiếp bằng lời, một phần do vài chi tiết khiến chúng tôi phải dừng câu chuyện lại, vì thấy nhói ở đâu đó”[dẫn theo 30; 205]. 1.1.2.3. Khả năng chiếm lĩnh không gian và thời gian Khác hẳn các loại hình nghệ thuật khác, văn học thuộc loại hình nghệ 17 thuật thời gian - mọi sự vật, hiện tượng tồn tại trong nó đều mở dần, lan rộng và phát triển theo thời gian. Nhờ chất liệu ngôn từ, khả năng cảm nhận thời gian trong văn học là vô tận. Thời gian có thể kéo dài, rút gọn, dồn nén, đảo lộn… Dòng thời gian trần thuật của văn học vì vậy vô cùng phong phú. Văn học có thể đưa con người trở về với thời gian của quá khứ, hay đưa con người đi cùng chiều với thời gian của hiện tại và tương lai. Văn học dường như đã thâu tóm được toàn bộ thời gian của vũ trụ, chiếm lĩnh được mọi lĩnh vực của đời sống hiện thực. Không đơn thuần là thời gian vật lí, thời gian trong văn học còn là thời gian tâm lí của nhân vật. Giống như thời gian, không gian trong văn học cũng không hề bị giới hạn. Nhà văn hoàn toàn có thể mở rộng không gian miêu tả, có thể chuyển đổi hoặc đồng hiện không gian. Vận dụng khả năng ảo diệu của ngôn từ, nhà văn cho độc giả đắm chìm trong nhiều không gian khác nhau. Chẳng hạn không gian ba chiều trong Tràng Giang của Huy Cận: “Nắng xuống, trời lên sâu chót vót/ Sông dài trời rộng bến cô liêu”. Qua câu thơ ấy con người có thể biểu hiện trực tiếp tư tưởng, tình cảm thẩm mĩ một cách sống động mang tính đặc thù. Hoặc trong Cánh đồng bất tận, Nguyễn Ngọc Tư đã tạo ra một không gian chủ đạo là những cánh đồng quê nắng cháy khô, hoang hoải gió, kênh rạch chằng chịt. Cuộc sống của cha con Út Vũ liên tục xê dịch bởi kế sinh nhai cùng đàn vịt, nay cánh đồng này, mai dòng kênh khác, lênh đênh không biết tới ngày mai. Văn học còn có khả năng tạo ra những giới hạn khác của không gian, nó tạo ra thế giới nội tâm, suy tư và tình cảm, những mơ ước khát khao của con người, tạo ra không gian lịch sử. Nhìn vào không gian trong một tác phẩm văn học, chúng ta có thể nhìn thấy cảnh buổi sáng làng quê, mùi hương cốm thơm dịu, những giọt sương long lanh,...Văn học có thể phản ảnh đời sống hiện thực trong một sự trọn vẹn, hoàn bị và đầy đủ của nó. 18 1.2. Bản chất của điện ảnh 1.2.1. Nghệ thuật điện ảnh Tính đến nay, điện ảnh đã ra đời hơn một thế kỷ. Là loại hình nghệ thuật “sinh sau đẻ muộn” song điện ảnh không thua kém các ngành nghệ thuật “anh chị”, đặc biệt là về những thành tựu và khả năng tác động mạnh mẽ đến đời sống tinh thần nhân loại. Vậy “điện ảnh” là gì ? Đã có nhiều định nghĩa khác nhau về “đứa con út” xuất sắc này. Cuốn Đại từ điển tiếng Việt cho rằng điện ảnh là “Kỹ thuật thu vào phim những hình cử động liên tục và chiếu lại trên màn ảnh; Ngành nghệ thuật dùng kỹ thuật để thu phát kịch bản được dàn dựng, đạo diễn công phu”[32; 634]. Từ điển tiếng Việt tường giải và liên tưởng thì cho rằng đây là “nghệ thuật phản ánh hiện thực bằng những hình ảnh hoạt động liên tục, thu vào phim (nhựa, video) để chiếu các cử động lên màn ảnh”[10; 905]. Cũng có nhiều quan niệm mang tính chủ quan khác. Ví như: “điện ảnh là âm nhạc của ánh sáng”, “là nghệ thuật của sự biến đổi”, “là hình ảnh chuyển động”, “là con đẻ của khoa học kỹ thuật”…Tuy nhiên những cách hiểu đó hầu như chưa thể hiện được hết nội hàm của thuật ngữ này. Chúng tôi cho rằng, để đưa ra một khái niệm toàn diện tương đối, cần tìm hiểu trước hết từ chính những đặc trưng của nó. Là một loại hình nghệ thuật tổng hợp, điện ảnh mang tính quần chúng, tính dân tộc, tính quốc tế. Điện ảnh cũng thiên về giải trí dù không hề coi nhẹ tính kinh tế, thương mại, đồng thời mang giá trị nhân văn sâu sắc. Điện ảnh là một ngành nghệ thuật tổng hợp tinh hoa của các nghệ thuật khác. Khi xem phim, chúng ta được dịp thưởng thức cùng một lúc nhiều loại hình nghệ thuật: văn học, âm nhạc, ca múa, hội họa, kiến trúc…Các ngành nghệ thuật ấy khi đến với điện ảnh đã từ bỏ tính độc diễn của chúng để hòa tan trong những hình ảnh và âm thanh sinh động, tạo ra chất tổng hợp hoàn 19 toàn mới. Điện ảnh kế thừa khá nhiều từ văn học (đề tài, cốt truyện, tư tưởng, thủ pháp nghệ thuật...). Bên cạnh đó, điện ảnh cũng sử dụng nhiều ý tưởng của hội hoạ, điêu khắc, kiến trúc, âm nhạc... Chính những tiếp nhận và sáng tạo từ các loại hình nghệ thuật đã tạo nên tính tổng hợp của nghệ thuật điện ảnh. Đa chiều trong phản ánh, điện ảnh tạo một mãnh lực đối với công chúng, thấm sâu vào mọi giác quan, thức nhận mỹ cảm của từng cá thể đối với các phương diện của đời sống hiện thực. Giống như một người phụ nữ duyên dáng, thông minh, điện ảnh không kiêu kì đỏng đảnh mà chân tình, dễ gần và để lại nhiều nhung nhớ. Lênin đã từng coi nghệ thuật điện ảnh là quan trọng nhất trên khía cạnh dễ gần và hết sức quần chúng. Điện ảnh cũng mang dấu ấn riêng của mỗi cộng đồng do nó bị quy định bởi thị hiếu, văn hóa cộng đồng. Tuy nhiên, bên cạnh dấu ấn cộng đồng, dân tộc, điện ảnh cũng chịu ảnh hưởng đồng thời vươn rộng khả năng học hỏi tới các nước trên thế giới. Vì vậy, đặc tính quốc tế luôn rõ nét. Bên cạnh đó, yếu tố giải trí của truyền hình được đánh giá không kém gì truyền hình, báo chí, mạng..., đúng như một nhà nghiên cứu khẳng định: “điện ảnh cũng nằm trong cấu trúc văn hóa và truyền thông đại chúng”. Nói về thời điểm ra đời của điện ảnh, người ta ghi nhận ngày cuộn phim ghi lại những hình ảnh chuyển động dầu tiên ra đời tại Leeds – Anh năm 1988. Đây là thử nghiệm của một nhà phát minh người Pháp Louis Le Prince. Tiếp đó, ngày 28/12/1989 hai anh em kỹ sư nhiếp ảnh gia người Pháp là Louis Lumiere và August Lumiere đã cho ra đời bộ phim đầu tiên của nhân loại, chiếu tại thủ đô Pari. Từ đó đến nay, điện ảnh đã phát triển mạnh với những bước tiến khổng lồ. Bắt đầu từ những thước phim câm đến nay, điện ảnh đã gặt hái nhiều thành công với những bước bứt phá ngoạn mục…Sự phát triển của kỹ thuật và công nghệ hiện đại đã giúp điện ảnh phát huy thế mạnh. 20 Có thể nói, chẳng một góc khuất nào của tâm hồn con người, chẳng một ngõ ngách nào của đời sống mà điện ảnh không chạm tới.. Đó cũng là lý do mà có người cho rằng vị thần linh bảo hộ cho điện ảnh là khoa học và công nghệ. Điện ảnh cũng có tính kinh tế thương mại cao. Vì đặc trưng này mà điện ảnh còn được xếp vào ngành công nghiệp - công nghiệp điện ảnh. Tuy nhiên, một tác phẩm điện ảnh có giá trị thực sự phải chứa đựng một chiều sâu tư tưởng nhân sinh, để lại những ấn tượng, suy tư trong lòng khán giả. Như vậy, theo chúng tôi, có thể quan niệm: điện ảnh là một ngành nghệ thuật tổng hợp, nằm trong cấu trúc văn hóa truyền thống, có tính quần chúng, tính dân tộc, tính quốc tế, tính giải trí, tính kinh tế thương mại và mang giá trị tư tưởng nhân sinh sâu sắc. 1.2.2. Đặc trưng của ngôn ngữ điện ảnh Đặc trưng tổng hợp của điện ảnh là khá rõ. Tuy nhiên, cái cốt lõi, đặc trưng, linh hồn của điện ảnh lại chính là hình ảnh. Vì vậy, ở một phương diện nào đó, ngôn ngữ điện ảnh gần hơn với ngôn ngữ nhiếp ảnh, ngôn ngữ hội họa. Điện ảnh được biết đến là một loại hình nghệ thuật tổng hợp, cho nên ngôn ngữ của nó cũngmang tính tổng hợp; đó là sự kết hợp hài hòa giữa ngôn ngữ thị giác, ngôn ngữ thính giác và kỹ thuật dựng phim. Nếu tác phẩm văn chương chỉ là cái viết duy nhất của duy nhất tác giả thì tác phẩm điện ảnh là kết quả của một cộng đồng sáng tạo bao gồm số đông, và mang tính liên hoàn giữa các công đoạn mà không thể lược bớt đi bất cứ một công đoạn nào, ở đó văn chương mới là công đọan thứ nhất mang tính khởi đầu. Bộ phim khi đã được khởi hành từ tác phẩm văn chương tức là đã bỏ qua cái viết, cái đọc, là hai thao tác quan trọng của nhà văn và người đọc, để đi đến cái diễn của đạo diễn, của diễn viên và cuối cùng nhằm phục vụ cho cái nghe nhìn của người xem, như một thưởng thức 'Vợ chồng A Phủ' - bộ phim từ tác phẩm để đời của Tô Hoài07:00:00 08/07/2014 0 (Theo Zing) Sáng tác từng giúp Tô Hoài nhận Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt 1 năm 1996 đã được đưa lên màn ảnh nhỏ và trở thành một trong những phim kinh điển của Điện ảnh Cách mạng Việt Nam. Vợ chồng A Phủ là tác phẩm hay nhất trong tập Truyện Tây Bắc được nhà văn Tô Hoài viết năm 1952. Hai nhân vật chính là A Phủ và Mỵ - một đôi nam nữ thanh niên nghèo bị thống lý Pá Tra, một chúa đất gian ác, cấu kết với Pháp, áp bức bóc lột đến cùng cực. Hắn bắt Mỵ về làm vợ lẽ cho con trai là A Sử, và bắt A Phủ đến ở không công suốt đời để trả nợ. Khi A Phủ bị trói vì tội đánh mất trâu, sắp chết đau, chết đói, chết rét, Mị cắt dây trói cứu thoát anh. Hai người trốn đến Phiềng Sa rồi nên vợ nên chồng. Sau này, nhờ có Đảng lãnh đạo, A Phủ và Mỵ đã vùng dậy, đấu tranh để tự giải phóng, cùng nhân dân xây dựng một cuộc đời ấm no, hạnh phúc. Vợ chồng A Phủlà tác phẩm văn học nổi tiếng của cố nhà văn Tô Hoài. Bộ phim được chuyển thể từ truyện cũng nhận được phản hồi tích cực của khán giả. Nhắc tới tác phẩm Vợ chồng A Phủ, nhà văn Tô Hoài từng chia sẻ: "Tôi viết truyện ấy từ những năm đi thực tế làm báo Cứu quốc. Đó là một câu chuyện gần như có thật của một đôi vợ chồng người Mông ở Phù Yên nay là Bắc Yên, tỉnh Sơn La. Ngày ấy, trên đường đi thực tế kháng chiến, tôi đã gặp cặp vợ chồng ấy đi ăn Tết Mông. Câu chuyện của họ cùng với những tư liệu anh em du kích kể là đề tài để tôi viết. Đến năm 1960, truyện chuyển thành kịch bản làm phim. Phim ấy, lấy nguyên cốt truyện, đầy đủ nhân vật". Nam chính A Phủ do NSND, đạo diễn Trần Phương thể hiện. Ông sinh năm 1930, là diễn viên – đạo diễn kiệt xuất của nền điện ảnh Việt Nam. NgoàiVợ chồng A Phủ, Trần Phương từng tham gia đóng nhiều phim Cách mạng, để lại nhiều dấu ấn nhưChị Tư Hậu, Tiền tuyến gọi, Vợ chồng anh Lực... Những bộ phim do ông đạo diễn cũng để lại nhiều tiếng vang, giành được nhiều giải thưởng lớn:Hy vọng cuối cùng, Tội lỗi cuối cùng, Dòng sông trắng… Nam chính A Phủ do NSND, đạo diễn Trần Phương thể hiện. A Phủ là vai diễn đầu tiên trong cuộc đời của đạo diễn Trần Phương. Để vào vai thành công, ông đã phải học cách chăn bò, cưỡi ngựa của người Tà Sùa. Ba tháng ròng rã sống chung cùng gia đình anh hùng quân đội Sùng Phai Sình trên núi cao, cả Trần Phương và Đức Hoàn (người vào vai Mị lúc bấy giờ) gần như đã trở thành người Mông thực thụ. Các diễn viên đã cùng lên nương làm rẫy, cùng gùi nước đi bộ hàng mấy cây số về bản và cùng ăn ngô và có thể nói tiếng Mông sành sỏi trong quá trình thực hiện bộ phim. Ông từng chia sẻ: "Họ cưỡi ngựa quanh năm mà không cần cương. Mình không quen với cách đó nên mình mẩy cứ xây xước hết, mấy lần suýt bị què chân. Nhưng khi bộ phim hoàn thành, mình cũng kịp trở thành một tay chăn bò, cưỡi ngựa cừ khôi không kém một chàng trai Mông nào". Cố nghệ sĩ Đức Hoàn (1937-2003) - người vào vai Mỵ - cũng giống như nam chính, vừa được biết tới với vai trò diễn viên, vừa là đạo diễn, biên kịch của nhiều bộ phim. Năm 1961, bà được đạo diễn Mai Lộc chọn vào vai cô Mỵ trong bộ phimVợ chồng A Phủ(kịch bản Tô Hoài). Đây là vai diễn đầu tiên cũng là vai diễn xuất sắc nhất của Đức Hoàn. Với vai diễn này bà đã nhận được Bông sen Bạc tại Liên hoan phim Việt Nam lần thứ hai năm 1973. Cố nghệ sĩ Đức Hoàn - người vào vai Mị - được nhận xét, đã trút bỏ hoàn toàn những kiểu cách của một tiểu thư khuê các Hà thành để hóa thân thành một cô gái Mông thực thụ. Từ cách đi đứng, ngoáy mông, vuốt tóc cho tới quấn khăn theo kiểu người Mông được Đức Hoàn thể hiện giống y như thật. Ngoài khả năng diễn xuất, cả NSND Trần Phương và cố nghệ sĩ Đức Hoàn đều nhận được rất nhiều sự ngưỡng mộ vì sở hữu ngoại hình đẹp. Cố nghệ sĩ Đức Hoàn trong vai Mị. Vợ chồng A phủđược chính tay Tô Hoài chuyển thể thành kịch bản và được "nhào nặn" bởi đạo diễn Mai Lộc. Với cốt truyện hấp dẫn, cảm động, bộ phim tiếp tục lôi cuốn người xem bằng hình ảnh đẹp của miền Tây Bắc và phần âm nhạc xuất sắc của nhạc sĩ Nguyễn Văn Thương. Bài hátBài ca trên núiqua giọng hát của nghệ sĩ Kiều Hưng cũng nhận được sự yêu thích của đông đảo người yêu nhạc. Bộ phim do xưởng phim Việt Nam sản xuất và đã được trao giải thưởng Bông sen bạc trong Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 2 năm 1973.
Có thể bạn quan tâm
|