Sự khác nhau giữa văn hóa Việt Nam và Mỹ bằng tiếng Anh

So Sánh Sự Khác Biệt Giữa Văn Hóa Người Mỹ Và Người Việt Nam

Ngày đăng: 18/09/2021 | Lượt xem: 4428 |

Mỗi quốc gia sẽ có một nền văn hóa khác nhau, và sự khác biệt này ảnh hưởng đến tính cách cũng như hành động của họ trong đời sống hằng ngày. Có thể thấy hiện nay người Việt Nam sinh sống tại Mỹ rất nhiều, nhưng họ vẫn luôn giữ được những đặc điểm vốn có của văn hóa người Việt Nam. Vậy lối sống, ngôn ngữ, cách ăn uống, cách chào hỏi,… của người Việt Nam và người Mỹ khác nhau như thế nào?

So Sánh Văn Hóa Nhật Bản Và Văn Hóa Việt Nam

--- Bài mới hơn ---

  • So Sánh Văn Hóa Quốc Gia Giữa Việt Nam Và Nhật Bản
  • So Sánh Văn Hóa Hàn Quốc Và Việt Nam
  • 11 Điểm Khác Biệt Giữa Tiếng Anh Và Tiếng Việt
  • Văn Minh Phương Tây: Vùng Lưỡng Hà
  • Ac Và Eu: Khác Nhau Nhưng Cần Nhau
  • Theo cách phân chia thông thường hiện nay thì Việt Nam và Nhật Bản ở vào hai khu vực văn hoá khác nhau. Nhật Bản là một nước Đông á, còn Việt Nam thuộc Đông Nam á. Không dễ gì đem văn hoá thuộc hai khu vực khác nhau để so sánh, nhưng chúng ta lại rất cần đến nghiên cứu so sánh để có thể hiểu sâu thêm từng đối tượng và hiểu rộng thêm mối quan hệ giữa các đối tượng này. Mặt khác, sự phân chia thành các khu vực văn hoá, thực chất cũng chỉ là một cách làm của các nhà khoa học nhằm phân lập một cách tương đối một thực thể nào đó, chứ hoàn toàn không có nghĩa là chia cắt chúng một cách tuyệt đối. Hơn thế, do tác động của hoàn cảnh lịch sử, các dân tộc thuộc các khu vực văn hoá khác nhau lại có nhiều mối quan hệ trực tiếp hoặc gián tiếp, vì vậy so sánh để tìm ra những mối liên hệ, rút ra những điểm tương đồng và dị biệt lại là việc làm hết sức cần thiết và bổ ích. Nhật Bản và Việt Nam có thể coi là những trường hợp như thế. Hơn nữa, Việt Nam và Nhật Bản lại cùng chịu nhiều ảnh hưởng từ văn minh Trung Hoa, nên có không ít những điểm tương đồng, nhưng nếu nghiên cứu sâu hơn những biểu hiện của ảnh hưởng này lại tìm ra những khác biệt đáng kể.

    Chọn Nhật Bản để so sánh, tác giả muốn đạt tới sự nhận thức sâu sắc hơn về văn hoá Việt Nam và qua đó, góp phần hiểu thêm về mối quan hệ Đông á và Đông Nam á.

    Có nhiều phương pháp so sánh nhưng phương pháp được sử dụng trong bài này là so sánh theo tiêu chí. Theo chúng tôi có thể chọn 5 tiêu chí sau đây:

    1. Điều kiện tự nhiên và môi trường sinh thái.

    Với nhận thức của khoa học ngày nay, điều kiện tự nhiên và môi trường sinh thái được coi là tác nhân cực kỳ quan trọng đến sáng tạo văn hoá của con người. Sự tác động qua lại giữa tự nhiên và con người là nhân tố chính tạo nên đặc trưng văn hoá.

    2. Sự hình thành nhà nước đầu tiên.

    Đây là sự kiện có ý nghĩa cực kỳ quan trọng đối với mọi dân tộc vì sự xuất hiện nhà nước vừa là cái mốc bước nhảy vọt của một cộng đồng cư dân đưa họ bước vào thời đại văn minh vừa là sự kết tinh của những thành tựu về văn hoá đã đạt được trước đó, bước đầu định hình một bản sắc văn hoá.

    3. Những đặc điểm về cư dân và đặc trưng văn hoá truyền thống.

    Nói tới văn hoá, không thể không xem xét chính chủ thể của văn hoá, nên nguồn gốc, quá trình tộc người và đặc điểm của cả cộng đồng là những yếu tố không thể bỏ qua. Còn đặc trưng của văn hoá truyền thống ở đây là xét trên những đặc trưng chung nhất của 4 thành tố cấu thành văn hoá.

    4. Các hình thức tổ chức nhà nước trong lịch sử.

    Từ khi nhà nước hình thành, mặc dù là sản phẩm của văn hoá do chính con người tạo ra nhưng các hình thức tổ chức nhà nước có tác động rất mạnh mẽ đến chiều hướng phát triển của lịch sử và chi phối những đặc trưng của xã hội.

    5. Ứng xử với văn hoá ngoại lai.

    Văn hoá được sản sinh trong một không gian nhất định và giới hạn của nó thường là môi trường tự nhiên, nhưng văn hoá không bao giờ là đóng kín. Sự lan toả những giá trị của một nền văn hoá này tới những nền văn hoá khác là một hiện tượng tự nhiên, nhưng cách ứng xử trước hiện tượng tự nhiên ấy là phụ thuộc vào, và vì vậy, phản ánh đặc trưng của chính những nền văn hoá chịu những tác động ấy. Vì vậy đây có thể coi là một trong những tiêu chí để có thể xét sự tương đồng và khác biệt giữa các nền văn hoá.

    Xét theo tiêu chí thứ nhất về điều kiện tự nhiên và môi trường sinh thái, có thể thấy Việt Nam là một bán đảo với diện tích tự nhiên hơn 33 vạn km2 và hơn 3000 km bờ biển. Chỉ số duyên hải (ISCL) tính được ” 106. Trong khi đó, Nhật Bản là một quần đảo với 3.600 hòn đảo lớn nhỏ quây quần xung quanh 4 hòn đảo lớn. Tổng diện tích tự nhiên ” 377.000 km2 và 29.000 km bờ biển, chỉ số ISCL ” 13 (1).

    Do địa hình dốc, mưa theo mùa tạo thành mạng lưới sông ngòi dày đặc (trên có tới gần 3.000 con sông lớn nhỏ), xoè theo hình nan quạt ở phía bờ biển. Do bồi lấp không hoàn chỉnh, vùng đồng bằng hay có úng lụt, tạo thành vùng sinh thái có nhiều mặt nước chiếm chỗ. Người Việt gọi Tổ quốc mình là nước.

    Khí hậu Việt Nam tương đối đa dạng. ở miền Bắc có 4 mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông rõ rệt. Miền Nam chia thành 2 mùa Khô và Mưa. Đặc điểm chung là nóng, ẩm, rất thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp, nhưng cũng là môi trường thuận lợi cho dịch bệnh. Cùng vớí chế độ nhiệt đới gió mùa, hằng năm có bão, thiên nhiên cũng đặt ra không ít những thử thách hiểm nghèo. Mưa, lũ, bão, ẩm, dịch bệnh là những thiên tai mà người Việt thường xuyên phải đối phó.

    Do lãnh thổ trải dài trên 15 vĩ tuyến, lại có nhiều mạch núi cắt ngang, tạo thành nhiều âu khí hậu khác nhau mà rõ nhất là Bắc, Trung, Nam Bộ. Cùng với sự đa dạng về địa hình, sự khác biệt về khí hậu là những yếu tố tự nhiên nên sự đa dạng, phong phú về văn hoá phân bố theo vùng, miền.

    Việt Nam là nước có nguồn tài nguyên khoáng sản đa dạng và phong phú, nhưng nhìn chung trữ lượng không cao. Ưu thế tài nguyên chủ yếu là đất. Nông nghiệp đã xuất hiện sớm và là ngành kinh tế chủ đạo trong suốt mọi thời kỳ lịch sử.

    Một đặc điểm nổi bật của điều kiện tự nhiên Việt Nam là vị trí địa lí giao tiếp, là nơi giao lưu của nhiều dòng văn hoá và là nơi luôn bị tác động của khu vực và thế giới. Lãnh thổ quốc gia được mở rộng dần theo thời gian.

    Tuy có diện tích tự nhiên rộng hơn, nhưng khác với Việt Nam, Nhật Bản có tới 75% diện tích là núi và 67% rừng xanh che phủ. Với lượng mưa không lớn (trung bình khoảng 300mm/năm) và do địa hình núi gần biển, Nhật Bản không có nhiều sông. 13 con sông được ghi trong các sách địa lý đều ngắn, nhỏ và nghèo phù sa. Nhật Bản hầu như không có đồng bằng châu thổ (2). Ngay cả những vùng được gọi là đồng bằng như vùng Kanto và Kansai, thực chất cũng chỉ là những thung lũng lớn được tạo thành bởi nham thạch của núi lửa. Nhật Bản có tới 200 núi lửa, 60 ngọn trong số đó vẫn còn đang hoạt động. Chính vì vậy mà biểu tượng của người Nhật là núi lửa Fuji.Cả nước có khoảng 300 thung lũng, bị chia cắt thành 7 vùng núi lửa.

    Bù lại sự chật hẹp về đất đai cư trú và trồng trọt, Nhật Bản có hệ thống cảng biển dày đặc.

    Khí hậu Nhật Bản có sự cách biệt khá xa. Có vùng lạnh như Siberi (đảo Hokkaido), lại có vùng ấm như Đông Nam á (Okinawa và các đảo cực nam). Quanh năm có 4 mùa rõ rệt nhưng độ ẩm không cao. Khí hậu nói chung không thật thuận lợi cho phát triển nông nghiệp. Trong khi đó, Nhật Bản được coi là nước thiên tai rất khắc nghiệt với sự hoành hành thường xuyên của động đất, lũ quét, sóng thần, bão biển và núi lửa.

    Do địa hình chia cắt, văn hoá Nhật Bản có thể chia thành nhiều vùng – địa phương. Nghèo về tài nguyên (3) kể cả đất canh tác, Nhật Bản chỉ có khoảng 2,5 triệu ha đất có thể canh tác được nhưng chỉ trong một vụ xuân hè.

    Nhật Bản nằm giữa biển, nhưng trong các giai đoạn lịch sử trước khi có sự xuất hiện của người châu Âu, vị trí địa lý của quần đảo tương đối cách biệt nên ít chịu tác động tự nhiên mà thường chủ động du nhập các yếu tố văn minh từ bên ngoài.

    Những nét tương đồng có thể thấy qua những đặc điểm mang tính hình thức như diện tích tự nhiên (33 vạn/38 vạn km2), địa hình, khí hậu đa dạng với đủ các vùng rừng núi, đồng bằng và duyên hải. Cả hai quốc gia đều phải đối phó với những thiên tai hiểm nghèo… Phân tích sâu hơn những tham số tự nhiên thì thấy những điểm dị biệt là rất đáng kể. Trước hết đó là sự khác nhau giữa một bán đảo với một quần đảo, do đó chỉ số ISCL chênh nhau tới hơn 8 lần (13/106). Do đặc điểm này mà tác động của yếu tố biển tới đời sống văn hoá của mỗi dân tộc rất khác nhau. Sự khác biệt còn thể hiện ở mức độ thuận lợi và thử thách do thiên nhiên đem lại như khắc nghiệt của thiên tai, sự phong phú giàu có về tài nguyên và ảnh hưởng của vị trí địa lý.

    Trong tiêu chí thứ hai: cư dân và đặc trưng văn hoá, Việt Nam luôn được nhận diện như một quốc gia đa tộc người, ít nhất có tới 54 tộc người với ngôn ngữ và truyền thống văn hoá khác nhau, nhưng có một dân tộc chủ thể là người Kinh (hay Việt).

    Đặc trưng văn hoá Việt được hình thành trong quá trình lịch sử lâu dài do tác động của nhiều nhân tố, nhưng về đại thể có thể coi những nhân tố sau đây có vai trò tác động chính yếu:

    – Tác động của môi trường “nước”. Do tác động này mà hình thành các dạng thức văn hoá sông – nước với những tính cách của cư dân ở gần/trên sông, nước (can đảm, linh hoạt, mềm dẻo, dễ thích ứng, giỏi xử lí tình huống…).

    – Tác động của hoàn cảnh lao động sản xuất (nông nghiệp trồng lúa nước). Trong quá trình chinh phục đồng bằng châu thổ, đắp đê, điều tiết nước để sản xuất và hợp lực phòng chống lũ lụt, người Việt cần tới sức mạnh cộng đồng. Làng, một loại hình tụ cư đậm tính cố kết trở thành hội điểm của rất nhiều đặc trưng văn hoá. Trong bảng giá trị truyền thống, đoàn kết (cố kết cộng đồng), hiếu với cha mẹ (gia đình hạt nhân là tế bào xã hội) và trọng lão (trọng kinh nghiệm) luôn là những chuẩn mực được đề cao. Nhưng cũng do hoàn cảnh sản xuất mà người nông dân Việt không quen hạch toán và lường tính xa. Bình quân (chia đều) trở thành một phương thức hữu hiệu duy trì mối quan hệ hoà đồng trong làng xã.

    – Tác động của hoàn cảnh lịch sử mà nổi bật là phải thường xuyên đối phó với chiến tranh xâm lược. Tác động này đã tạo nên truyền thống bất khuất kiên cường, có ý thức độc lập tự chủ cao. Đồng thời cũng chính do tác động này mà thiết chế cộng đồng được gia cố thêm.

    Về tôn giáo, tín ngưỡng, người Việt coi trọng đạo thờ cúng tổ tiên. Trong quá trình tiếp xúc với văn minh Trung Hoa, ấn Độ và phương Tây, Nho giáo, Phật giáo, Thiên chúa giáo lần lượt được du nhập vào Việt Nam. Các tôn giáo ngoại lai và các loại hình tín ngưỡng bản địa đã dung hợp nhau cùng tồn tại và phát triển. Việt Nam trở thành một xứ sở hỗn dung tôn giáo.

    Khác với Việt Nam, Nhật Bản là một quốc gia thuần chủng, có bản sắc chung rất rõ nét. Trong kết cấu cư dân hiện nay, 99,4% dân số là người Nhật, bộ phận những cư dân khác còn lại chỉ chiếm 0,6% (gồm 600.000 người Triều Tiên, 40.000 người Trung Quốc và khoảng 20.000 Ainu). Quá trình “thuần chủng hoá” này đã diễn ra trong một quá trình lịch sử lâu dài trong điều kiện quần đảo Nhật Bản sống tương đối tách biệt với thế giới bên ngoài. Địa hình bị chia cắt bởi núi non, thung lũng và đảo dẫn tới sự hình thành nhiều dạng thức văn hoá địa phương. Người ta đã từng chia Nhật Bản thành 6 vùng văn hoá là Bắc hải đạo (đảo Hokkaido), Bắc lục đạo (vùng núi phía bắc, giáp biển Nhật Bản, chủ yếu là các tỉnh Nigata, Kanazawa), Đông hải đạo (vùng đồng bằng Kanto), Kinki (vùng đồng bằng Kansai), Tây hải đạo (đảo Kyushu), Nam hải đạo (đảo Shinkoku và các đảo phía nam).

    – Xét về tác động của môi trường có thể thấy biển, núi, thung lũng, khí hậu ôn đới, núi lửa và động đất là những nhân tố tự nhiên tác động mạnh mẽ và thường xuyên đến quá trình hình thành văn hoá truyền thống Nhật Bản. Do tác động đó mà tính cách Nhật Bản cứng rắn, tiết kiệm, trung thành với các giá trị truyền thống và rất cầu toàn. Vị trí địa lý tương đối biệt lập (của cả quần đảo và của từng vùng) đã tạo nên tính cách đóng kín nhưng lại luôn có mặc cảm “bị bỏ rơi” nên luôn mong muốn hội nhập và học tập cái hay ở người khác.

    – Về hoàn cảnh lịch sử, có thể thấy trong suốt thời kỳ trung đại, ngoại trừ hai lần tấn công xâm lược nhưng không thành của quân Mông – Nguyên, Nhật Bản hầu như không phải đối phó với ngoại xâm. Thay vì các cuộc kháng chiến bảo vệ tổ quốc, nội chiến giữa các thế lực phong kiến địa phương diễn ra tương đối thường xuyên và kết cục dẫn đến sự hình thành thiết chế Mạc phủ mà thực chất là sự thống trị của chính quyền quân sự, đứng đầu là các dòng họ Shogun (Tướng quân) song song với sự tồn tại phần nhiều trên danh nghĩa một chính quyền dân sự do Thiên hoàng (Teno) đứng đầu. Hoàn cảnh lịch sử này đã tạo nên tính kỉ luật, đề cao vai trò người chỉ huy. Chuẩn mực đạo đức là đề cao giữ chữ tín. Sự phát triển mạnh mẽ của các phong kiến địa phương tại mỗi thung lũng đã dẫn tới sự hình thành các đơn vị thân binh (Samurai) sau thành trở thành một tầng lớp có vị trí đặc biệt quan trọng trong xã hội dưới tên gọi Vũ sĩ (Bushi). Trong xã hội truyền thống, đại bộ phận cư dân sống ở nông thôn. Họ tụ cư thành các đơn vị gọi là mura (thôn). Khác với cấu trúc làng ở Việt Nam, trong các mura của Nhật Bản, xã hội có cấu trúc theo chiều dọc, nghĩa là có trật tự, lớp lang. Mọi thành viên đều có chức năng, bổn phận rất rõ ràng. Quan niệm “cá mè một lứa” hay “cá đối bằng đầu”, một kiểu dân chủ làng xã theo lối bình quân chủ nghĩa thường thấy ở Việt Nam, rất xa lạ với xã hội Nhật Bản.

    Tôn giáo giữ vị trí độc tôn ở Nhật Bản là Shinto (Thần đạo). Tôn giáo này đã hoà trộn nhiều yếu tố Nho, Phật trên nền tín ngưỡng thờ tổ tiên là nữ thần mặt trời. Các tôn giáo khác ở Nhật rất kém phát triển, trừ phật giáo Đại thừa. Nhật Bản đã có thời coi văn minh Trung Hoa là mẫu hình lý tưởng để học theo, nhưng Nho giáo khi du nhập vào Nhật Bản không phải là nguyên mẫu. Người Nhật đã chọn lựa từng bộ phận nhưng rất tuân thủ giáo lý. Hệ thống tuyển chọn quan lại bằng thi cử hoàn toàn không được người Nhật áp dụng.

    Trên bình diện cư dân và đặc trưng văn hoá, những nét tương đồng của Việt Nam và Nhật Bản thể hiện ở chỗ cả hai cộng đồng đều thuộc chủng Mongoloid và có chung yếu tố Nam á.

    Văn hoá truyền thống của cả hai dân tộc đều hình thành trên nền tảng sản xuất nông nghiệp trồng lúa nước nên những đặc trưng như tính cộng đồng cao, trọng kinh nghiệm, tuổi tác, kinh nghiệm đều có nhiều nét tương đồng. Cùng chịu ảnh hưởng của văn minh Trung Hoa nên Nho giáo, Đạo giáo và nhiều chuẩn mực Trung Hoa có thể tìm thấy trong văn hoá cả hai nước.

    Tuy nhiên, tính chất đa dân tộc của cộng đồng cư dân Việt Nam rất khác với đặc điểm thuần chủng của người Nhật. Mặt khác sự trội vượt của yếu tố phương Nam và sự thiếu vắng hoàn toàn hoạt động không du mục của cư dân Việt và tính trội yếu tố phương Bắc với sự hiện diện của kinh tế du mục trong một thời kỳ lịch sử của Nhật Bản đã dẫn tới sự khác biệt đáng kể trong hai nền văn hoá. Nếu như ở Việt Nam, ảnh hưởng từ dưới lên là đặc trưng chủ đạo thì với văn hoá Nhật Bản ảnh hưởng từ trên xuống lại là xu hướng chi phối.

    Việt Nam không có quốc đạo trong khi đó ở Nhật Bản đạo Shinto được coi là quốc giáo. Sự khác biệt trong văn hoá còn thể hiện ở tính cách ứng xử của hai dân tộc. Một bên là mềm mỏng, linh hoạt, dễ thích ứng, một bên coi trọng nguyên tắc, kỉ luật. Trong bảng giá trị đạo đức, người Việt trọng hiếu còn người Nhật thì trọng tín.

    Nhà nước đầu tiên ở Việt Nam được xác định vào cuối thời Đông Sơn, cách ngày nay khoảng 2500 – 2700 năm. Như vậy là tương đối sớm. Tuy nhiên đây không phải là kết quả của một quá trình phân hoá xã hội sâu sắc mà trên cơ sở phát triển nhất định của các tiền đề kinh tế xã hội, những tác động khách quan của nhu cầu sản xuất và chống xâm lấn đã đẩy nhanh quá trình này. Ngay sau khi ra đời, nhà nước Văn Lang và sau đó là Âu Lạc đã phải liên tục đương đầu với quá trình bành trướng xuống phương Nam của các đế chế Trung Hoa. Đây là điểm khác biệt lớn của lịch sử Việt Nam so với Nhật Bản. Từ giai đoạn văn hoá Yayoi (thế kỷ III TCN – III SCN), kỹ thuật luyện kim và nghề trồng lúa nước du nhập vào Kyushu đã tạo nên bước nhảy vọt trong lịch sử Nhật Bản. Cùng với sự phát triển về kinh tế, phân hoá xã hội trở nên ngày càng sâu sắc. Vào giữa thế kỉ I SCN, tầng lớp Shucho (thủ lĩnh) giàu có xuất hiện. Sau đó hàng loạt Kuni (một loại hình nhà nước sơ khai) được hình thành, trong đó mạnh nhất là nước Wa. Ngay sau khi thành lập, vào năm 57 SCN, nước này đã xin thần phục nhà Hán mở ra một thời kỳ phát triển theo quỹ đạo của văn minh Trung Hoa.

    Về các hình thức tổ chức nhà nước trong lịch sử, mặc dù đã từng tồn tại nhiểu kiểu loại nhà nước khác nhau, nhưng xu hướng chủ đạo là sự thắng thế của hình thức nhà nước trung ương tập quyền. Dưới thời Lý-Trần (1009 – 1400), mô hình “tập quyền thân dân” tồn tại gần 4 thế kỷ. Cả thế kỷ XV là thời kỳ thịnh trị của mô hình “tập quyền quan liêu” và thế kỷ XIX là thời kỳ thống trị của mô hình “tập quyền chuyên chế”. Duy có giai đoạn từ năm 1600 đến 1789 trong bối cảnh chiến tranh phe phái triền miên, ở đàng Ngoài tồn tại một thiết chế khá đặc biệt với sự tồn tại song song hai chính quyền: triều Lê trên danh nghĩa và Chúa Trịnh (chính quyền quân sự) nắm thực quyền.

    Ở Nhật Bản, từ thế kỷ VII, dưới tác động của mô hình cai trị của nhà Đường, Nhật Bản cũng cố gắng xây dựng một chính quyền trung ương tập quyền dựa trên một hệ thống pháp luật hoàn bị đứng đầu là Thiên hoàng. Tuy nhiên từ thế kỷ X, chính quyền trung ương suy yếu vì các vị Kokushi do chính quyền trung ương cử đến đứng đầu Kuni ngày càng có nhiều trang viên (Shoen) do được tặng biếu.

    Trong thời kỳ này hình thức xin thầu khai khẩn đất hoang (Myo) rất phát triển. Người trúng thầu gọi là Tato. Người nhiều ruộng gọi là Daimyotato. Những người này có rất nhiều Samurai (người hầu cận) làm cơ sở cho việc hình thành lực lượng vũ trang riêng. Đây chính là nguyên nhân dẫn tới những cuộc chiến tranh giữa các thế lực phong kiến địa phương và sự hình thành thể chế Mạc phủ (Bakkufu) từ năm 1192 và kéo dài cho đến tận cải cách Minh Trị (1868).

    Những điểm tương đồng về tổ chức nhà nước của Việt Nam và Nhật Bản có thể thấy ở 3 điểm:

    – Cùng chịu ảnh hưởng từ mô hình Nho giáo của Trung Hoa

    – Đều chú trọng pháp luật

    – Đặc biệt là thiết chế hai chính quyền ở Việt Nam từ 1600 đến năm 1789 và thiết chế Mạc phủ ở Nhật Bản từ 1192 đến 1868.

    Sự khác biệt thể hiện ở chỗ:

    – Việt Nam luôn thiết lập được thiết chế tập quyền mạnh còn ở Nhật Bản, chính quyền ở các địa phương mới là thế lực chi phối mọi mặt của đời sống xã hội. Thể chế Mạc phủ chỉ có thể khống chế địa phương về mặt quân sự.

    – Do cần tới một đội ngũ quan lại hùng hậu, các chính quyền phong kiến Việt Nam bắt đầu từ triều Lý (1076) đã tiến hành tổ chức các kỳ thi để tuyển chọn nhân tài, từ đó hình thành một hệ thống lưỡng ban (văn và võ). Chính quyền phong kiến Nhật Bản chưa bao giờ áp dụng hệ thống này. Vì vậy tầng lớp sĩ ở Nhật Bản chính là các Samurai văn võ kiêm toàn.

    Trong quá trình tiếp xúc với văn hoá ngoại lai, Việt Nam có ưu thế về vị trí địa lý. Và trên thực tế đã tiếp thu không ít những giá trị từ những nền văn hoá khác. Tuy nhiên do những đặc điểm riêng, ứng xử truyền thống của người Việt với văn hoá ngoại lai thường bắt đầu từ sự hoài nghi, rồi sau đó buộc phải chấp nhận nhưng tìm mọi cách cải biến theo chuẩn mực của mình. Trong khi đó, do hoàn cảnh lịch sử và những đặc trưng văn hoá khác biệt, người Nhật luôn cho rằng ở ngoài Nhật Bản có rất nhiều giá trị văn hoá cao hơn, nếu tiếp thu được sẽ tạo cho văn hoá của họ những bước nhảy vọt (kỹ thuật đúc đồng, lúa nước, các chuẩn mực văn minh Trung Hoa…), vì vậy ứng xử truyền thống của người Nhật là xác định đâu là đỉnh cao rồi cố chí học theo. Điều này còn bao hàm cả việc sau khi nhận ra một mô hình nào đó đã lỗi thời, họ sẵn sàng từ bỏ để đến với những chuẩn mực cao mới. Đó là trường hợp Nhật Bản quay lưng lại với mô hình Trung Hoa sau khi chiến tranh thuốc phiện chấm dứt với thắng lợi của người phương Tây. Từ đây chuẩn mực mà người Nhật quyết chí noi theo là văn minh phương Tây.

    1. Ta thường nói đến sự tương đồng văn hoá giữa Việt Nam và Nhật Bản (đồng văn, đồng chủng). Điều này đúng vì cả hai dân tộc đều có những giá trị chung của châu á lấy nghề trồng lúa nước làm nền tảng kinh tế, đều chịu ảnh hưởng từ văn minh Trung Hoa và xét trên nhiều khía cạnh cụ thể cũng có thể tìm ra những điểm tương đồng, Chẳng hạn như sự tồn tại hai chính quyền quân sự và dân sự trong một thời kỳ lịch sử. Đấy là cơ sở thuận lợi trong quá trình giao lưu, hợp tác và học hỏi lẫn nhau.

    2. Nhưng sẽ là sai lầm nếu cho rằng sự tương đồng giữa Việt Nam và Nhật Bản lớn tới mức có thể dùng chuẩn mực của nền văn hoá này để suy ra những đặc điểm tương tự ở nền văn hoá kia. Chẳng hạn như tính cách nông dân trồng lúa nước của Việt Nam hoàn toàn không thể dùng để quy chiếu tính cách nông dân Nhật Bản.

    3. Để có thể học tập và mở rộng hợp tác, nhất thiết phải có những nghiên cứu cụ thể và sâu sắc. Điều này không chỉ đúng với trường hợp Việt Nam và Nhật Bản mà còn đúng với các trường hợp khác. Nói rộng ra về sự tương đồng và khác biệt văn hoá của hai khu vực Đông á và Đông Nam á cũng cần tính tới việc phải xem xét thật cụ thể từng trường hợp và từng tác nhân dẫn tới sự tương đồng và khác biệt đó.

    GS.TSKH Vũ Minh Giang

    1. Chỉ số duyên hải được tính bằng công thức: ISCL = å A / å L (Tổng diên tích tự nhiên chia cho tổng chiều dài đường bờ biển). ở Nhật Bản ISCL ” 13, Việt Nam ” 106, có nghĩa là 1 km đường bờ biển chỉ che phủ tương ứng với mỗi nước là 13 km2 và 106 km2 diện tích lục địa. Theo đó, chỉ số ISCL càng thấp thì tác động của biển tới văn hoá càng mạnh.

    2. Trong một số sách địa lý của Nhật Bản có nhắc đến châu thổ sông Ota, tức vùng có thành phố Hiroshima, nhưng thực ra đấy chỉ là nói về đặc trưng thành tạo chứ quy mô bồi tụ và chất lượng phù sa của vùng này không giống với châu thổ ở các nơi khác trên thế giới.

    3. Thực ra Nhật Bản đã từng có những mỏ khoáng sản lớn như đồng, bạc, vàng… nhưng tất cả hầu như nhưng đã khai thác hết từ thế kỷ XVII.

    --- Bài cũ hơn ---

  • So Sánh Văn Hóa Nhật Bản Và Việt Nam Có Gì Khác
  • Sự Khác Nhau Về Văn Hoá Giữa Việt Nam Và Phương Tây
  • 5 Điều Khác Biệt Về Văn Hóa Giữa Việt Nam Và Các Nước Phương Tây (Phần 1)
  • Sự Khác Biệt Trong Văn Hóa Phương Đông Và Văn Hóa Phương Tây Và Ảnh Hưởng Của Chúng Đến Hành Vi Con Người Trong Tổ Chức
  • Phân Tích Sự Khác Biệt Giữa Văn Hóa Doanh Nghiệp Phương Đông Và Văn Hóa Doanh Nghiệp Phương Tây
  • 1. Điều khác biệt về văn hóa 1 – Văn hóa trên bàn ăn

    Người nước ngoài không có thói quen mời mọi người ăn cơm như ở Việt Nam. Trong văn hóa Việt, “mời ăn cơm” thể hiện sự kính trọng, lễ phép của người nhỏ tuổi với người lớn tuổi. Tuy nhiên người phương Tây chỉ mời người khác khi họ đã tự chuẩn bị mọi thứ và muốn người kia thưởng thức. Ví dụ như mời uống cafe, mời tham dự hòa nhạc, mời dự tiệc, mời xem phim… nên họ sẽ thấy khá lạ lẫm với văn hóa “mời cơm” của Việt Nam.

    Sự khác biệt thứ 2 là cách ăn của người Việt và người phương Tây. Người Việt khi ăn khá tự nhiên, có thể cười nói trong suốt bữa ăn, khi nhai không cần khép miệng và vẫn có thể tạo ra tiếng. Thế nhưng, việc đó được cho là ‘’rude’’ (thô lỗ) trong văn hóa phương Tây. Người phương Tây thường khép miệng khi nhai, không tạo ra tiếng ồn và trật tự khi ăn uống. Họ có thể trao đổi vài câu chuyện nhưng không cười đùa ầm ĩ và tuyệt đối không vừa ăn vừa nói.

    Đôi nét về văn hóa Mỹ và Việt Nam

    Văn hóa Mỹ và Việt Nam nói riêng cũng như văn hóa giữa Phương Tây và Phương Đông nói chung có rất nhiều sự khác biệt thú vị mà không phải ai cũng biết nhưng cũng ẩn chứa không ít điểm giống nhau giữa văn hóa Việt Nam và Mỹ. Hãy cùng chúng tôi điểm qua những nét nổi bật trong văn hóa Mỹ và văn hóa Việt Nam.

    Sự khác nhau giữa văn hóa Việt Nam và Mỹ bằng tiếng Anh

    1. Hệ thống giáo dục đại học ở Mỹ dân chủ và tiên tiến bậc nhất trên thế giới. Tôi có những buổi học 4 môn liên tục từ 11 giờ trưa tới 5 giờ chiều mà chỉ được nghỉ 15 phút để chạy từ giảng đường này sang giảng đường khác, ăn đồ ăn nhanh ở trong lớp thường là giải pháp cho các bữa trưa của tôi. Không những được phép ăn uống, mà tôi còn có thể nhắn tin bằng di động hay dùng máy tính xách tay trong lớp. Không có chuyện giáo sư gọi sinh viên trả lời như một điều trừng phạt khi sinh viên đang suy nghĩ đâu đó. Sinh viên chúng tôi được tranh luận thẳng thắn mà không bị đánh giá thái độ mỗi khi phản bác ý kiến của thầy cô.

    Một điều hết sức bình thường ở Mỹ là giáo sư vui vẻ cảm ơn mỗi khi sinh viên chỉ ra điểm sai trong bài giảng. Tôi thậm chí có lần còn được cộng điểm vì chỉ ra được những lỗi như thế. Thế mới hiểu tại sao sinh viên Mỹ có phong cách rất tự tin, vì họ nhận được sự khuyến khích thực sự từ các thầy cô mỗi khi phát biểu, ngay cả việc yêu cầu giáo sư nhắc lại câu vừa mới nói. Ngoài giờ học chính thức, các giáo sư thường dành khoảng 2- 4 tiếng mỗi tuần để sinh viên có thể dễ dàng tới trao đổi hay giải đáp thắc mắc ở văn phòng riêng của họ. Sinh viên cũng có thể học qua gia sư của từng môn học. Đây là những bạn học sinh giỏi của các lớp trước được nhà trường thuê và trả lương khoảng $9/giờ, 10 giờ một tuần.

    Một điều khác làm cho nhiều du học sinh bỡ ngỡ đó là không có sự phân biệt về tuổi tác trong lớp học. Tôi có cậu bạn học cùng lớp tiếng Anh trong kỳ đầu tiên 28 tuổi và có những bạn trong lớp năm thứ ba nếu so về số tuổi có lẽ nhiều gấp đôi của tôi. Ngay cả học sinh cấp ba ở Mỹ cũng không tuân theo chuẩn mực đứng lên chào khi thầy cô bước vào và ra khỏi lớp. Sinh viên được nhận kết quả thi tuyệt đối riêng tư. Nếu không hỏi nhau thì bạn bè không ai biết kết quả của ai. Việc học là cho mình chứ không phải học vì nỗi sợ bị bạn bè đánh giá. Ở Mỹ, phụ huynh chỉ có quyền biết điểm của con mình nếu như họ là người đóng tiền học cho con họ.


    2. Chương trình học ở đại học Mỹ linh hoạt hơn ở ta. Sinh viên được chọn môn, chọn thầy, và chọn giờ học theo ý mình. Tôi có một cô bạn nhà ở cách trường một tiếng lái xe nên học dồn tất cả các lớp học vào ba ngày đầu tuần. Tôi đã từng bất ngờ khi cô giáo hỏi có những ai đi làm thêm trong giảng đường hơn 200 sinh viên năm thứ nhất, thì có tới 3/4 lớp tôi giơ tay lên. Thậm chí, tôi có cô bạn vừa đi học 5 môn một kỳ vừa đi làm 32 tiếng một tuần.

    Mặc dù học sinh phải đăng ký ngành học ngay từ khi vào trường, nhưng sinh viên có thể thay đổi ngành học trong hai năm đầu mà hầu như không ảnh hưởng đến thời gian tốt nghiệp. Sinh viên chọn ngành Văn học vẫn có thể chuyển sang nghành Kiểm toán chẳng hạn. Trong 2 năm đầu tiên, hầu hết chương trình của các ngành đều giống nhau. Tất cả sinh viên bất kể chuyên ngành nào, dù Kiểm toán hay Văn học, đều phải hoàn tất chương trình cơ bản trong hai năm đầu với nhiều môn trên nhiều lĩnh vực, từ khoa học tự nhiên (Toán, Lý, Hóa, Sinh), khoa học xã hội (Lịch sử, Xã hội học, Chính trị), Tiếng Anh (học lối viết trong nghiên cứu), đến các lớp như Âm nhạc hay Sân khấu. Đương nhiên là sinh viên được quyền chọn môn học mình yêu thích trong số những nhóm môn ấy. Chương trình đại học được thiết kế trong vòng 4 năm, nhưng vì học theo tín chỉ nên sinh viên có thể học nhiều lớp trong hai kỳ chính cũng như có thể học cả ba kỳ hè để rút ngắn thời gian học.


    3. Về cách dạy ở trường đại học Mỹ, không bao giờ có tình trạng thầy đọc trò chép. Thầy cô trình chiếu bài giảng hoặc phát bài rồi nói về những vấn đề đó. Những điều cần giải thích thêm thầy cô mới ghi lên bảng. Sinh viên có thể lên website của thầy cô xem lại bài trình chiếu để bổ trợ trong quá trình tự học. Thời khóa biểu được phát đầu kỳ, và các bài giảng cứ thế răm rắp tuân thủ theo từ tuần đầu tiên đến tuần cuối cùng. Và đặc biệt các giáo sư rất đúng giờ, hầu như họ đều vào lớp trước giờ học, khó có thể tìm được buổi học nào mà thầy cô lên lớp muộn, dù là chỉ một phút.


    4. Điều khác biệt nữa là cách thức đánh giá sinh viên. Ở Mỹ trong một kỳ, một sinh viên thông thường học 5 môn. Mỗi môn có từ 3 đến 6 bài kiểm tra, với phần trăm điểm được phân bố. Kỳ vừa rồi với 5 lớp học, tuần nào tôi cũng có ít nhất một bài kiểm tra như thế, có tuần có tới 4 bài kiểm tra, bài viết phải nộp, và bài thuyết trình trên lớp. Còn ở Việt Nam, nếu như không có kiểm tra giữa kỳ thì chỉ có duy nhất một bài kiểm tra cuối kỳ. Như vậy là sinh viên ở Mỹ phải học liên tục, chứ không như ở Việt Nam, lịch thi tạo điều kiện cho sinh viên có thể thong dong đầu kỳ rồi cuối kỳ học gấp rút trong vài ba ngày cho bài thi cuối kỳ rồi cũng xong. Và tất nhiên, kiến thức được xây dựng từ bài cơ bản đến bài nâng cao như mưa dầm thấm đất, sinh viên sẽ nắm được vấn đề một cách chắc chắn.

    Hơn nữa, ngoài các bài kiểm tra, có môn tôi còn phải làm bài trắc nghiệm trong vòng 15 phút trên mạng hàng tuần. Hay có lớp cứ hai tuần có một bài về nhà trên mạng, tôi lại phải dành ra khoảng 4 tiếng để hoàn thành 30-50 câu hỏi trắc nghiệm. Học ở Mỹ, tôi phải viết rất nhiều. Nhiều khi tôi phải tự tìm chủ đề và tìm tài liệu tham khảo trong thư viện. Có những bài dài đến gần 30 trang. Đặc biệt, sinh viên có thể bị đánh trượt nếu phạm lỗi đạo văn, dù chỉ là lỗi sao chép trong một bài luận.


    5. Ở Mỹ mỗi trường đại học có cả hàng chục đến cả trăm hội sinh viên chứ không phải mỗi trường chỉ có một vài hội sinh viên như ở Việt Nam. Nếu sinh viên muốn tham gia tình nguyện thì có thể tham gia chương trình tình nguyện của rất nhiều câu lạc bộ sinh viên. Có câu lạc bộ về chuyên nghành (như Tài chính, Kiểm toán, Kinh tế học, Hóa học, Công nghệ thông tin), về văn hóa (hội sinh viên các quốc gia và vùng lãnh thổ), hay về giải trí (Nhiếp ảnh, Bóng bàn, Cờ vua). Bên cạnh đó có rất nhiều lớp học ngoại khóa (Yoga, nhảy Latin).

    Hoạt động của các câu lạc bộ trong trường đại học Mỹ rất năng động. Tham gia hoạt động ngoại khóa giúp tôi học hỏi nhiều điều trong cách giao tiếp. Năm ngoái, tôi từng được gặp thị trưởng thành phố tôi đang học trong một buổi trò chuyện do hội sinh viên nghành Tài chính của trường tổ chức. Mới cách đây 2 tuần, tôi lại cùng với thành viên hội này được đến thăm quan chi nhánh ngân hàng Frost National Bank ở trung tâm thành phố của tôi. Trong buổi đó, chúng tôi được giao lưu với chủ tịch, phó chủ tịch, cũng như nhiều trưởng các bộ phận trong ngân hàng như đầu tư, tín dụng, và quỹ. Thậm chí, sau khi qua hai lớp cửa an toàn, những sinh viên chúng tôi còn được tận mắt nhìn thấy kho tiền của ngân hàng.

    ...

    (theo tttn)

    Bài Viết Đoạn Văn Bằng Tiếng Anh Về Văn Hóa Việt Nam Bằng Tiếng Anh Cực Hay

    You are watching: Bài Viết Đoạn Văn Bằng Tiếng Anh Về Văn Hóa Việt Nam Bằng Tiếng Anh Cực Hay in indembassyhavana

    Nằm ở vị trí đắc địa trong khu vực Đông Nam Á, Việt Nam là một đất nước nhỏ xinh đẹp với bề dày lịch sử vang dội, tinh thần yêu nước nồng nàn cùng với những cảnh đẹp lay động lòng người. Hãy đến với Việt Nam ít nhất một lần trong đời để được khám phá và cảm nhận vẻ đẹp của thiên nhiên, văn hóa và con người nơi đây. Đề văn nghị luận viết về chủ đề Việt Nam rất được ưa chuộng và thường nằm trong các đề thi cũng như các bài giảng. Dưới đây là một đoạn văn mẫu giới thiệu về Việt Nam bằng Tiếng Anh.

    Đang xem: Viết đoạn văn bằng tiếng anh về văn hóa việt nam

    Sự khác nhau giữa văn hóa Việt Nam và Mỹ bằng tiếng Anh

    Bài viết giới thiệu về Việt Nam bằng Tiếng Anh đặc sắc nhất

    Nội dung bài viết

    1 Bài viết số 1: giới thiệu Việt Nam bằng Tiếng Anh cơ bản2 Bài viết số 2: giới thiệu Việt Nam bằng Tiếng Anh nâng cao

    Văn học Anh so với văn học Mỹ

    và văn học Mỹ đóng một vai trò quan trọng trong đó thuật ngữ văn học được quan tâm, xác định sự khác biệt giữa văn học Anh và văn học Mỹ là điều cần thiết cho sinh viên văn học. Như bạn đã biết, văn học bao gồm rất nhiều tác phẩm viết, đặc biệt là những tác phẩm có giá trị nghệ thuật vĩnh cửu và không chỉ giới hạn ở một khu vực địa lý cụ thể, mà nó còn lan truyền ở hầu hết các quốc gia. Ví dụ, các tác phẩm văn học đã xuất bản ở Pháp gọi là văn học Pháp, còn các tác phẩm văn học được xuất bản ở Ấn Độ gọi là văn học Ấn Độ. Do đó, văn học là một môn học rải rác trong mỗi góc và góc của thế giới. Mặc dù văn học khác nhau giữa các quốc gia, kết quả học tập văn học cũng giống như nhau, ở đó nó làm cho bạn là một người có tư duy phê phán; một đặc điểm cần thiết cho sự phát triển nhân cách và tính cách của một người. Bài báo này tìm cách khám phá hai phần về mặt địa lý chia tách của văn học: văn học Anh và văn học Mỹ. Để bắt đầu, chỉ cần nhớ rằng một thời gian, khi Mỹ là một thuộc địa của Anh, cả hai thuật ngữ đều có ý nghĩa như nhau. Nó bắt đầu có ý nghĩa khác kể từ đầu thế kỷ 17 khi Mỹ không còn là một công trình văn học thuộc địa của Anh mới nở.