Thế nào là đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ

Đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ và hội nhập của Việt Nam

Đọc bài Lưu

QPTĐ-Trong 5 năm qua, tình hình thế giới và khu vực chuyển biến nhanh chóng với nhiều diễn biến phức tạp, khó lường và chưa có tiền lệ. Trong bối cảnh đó, Việt Nam vẫn tận dụng được thời cơ, hóa giải được thách thức, tiếp tục tạo những kết quả toàn diện, với nhiều dấu ấn nổi bật trên nhiều lĩnh vực. Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay. Trong tổng thể các thành tựu của đất nước có sự đóng góp không nhỏ của đối ngoại và hội nhập quốc tế.

Thế nào là đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ

Triển lãm thành tựu đối ngoại qua các thời kỳ. (Ảnh: Internet)

Dấu ấn trong công tác đối ngoại

Triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, ngày 14/12/2021, Bộ Chính trị, Ban Bí thư tổ chức Hội nghị Đối ngoại toàn quốc nhằm quán triệt sâu sắc, toàn diện đường lối, chủ trương, quan điểm về đối ngoại của Đảng, nhất là những nội dung mới, thể hiện sự phát triển về tư duy đối ngoại của Đảng ta trong quá trình phát triển mới của đất nước, tạo nhận thức thống nhất trong toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, sự đồng lòng của người Việt Nam ở nước ngoài và tiếp tục tranh thủ sự ủng hộ rộng rãi của cộng đồng quốc tế. Từ đó, cụ thể hóa và tổ chức bằng các chiến lược, kế hoạch, chương trình, đề án đối ngoại và hội nhập quốc tế.

Việt Nam là đất nước độc lập, tự cường, luôn có khát vọng và tầm nhìn phát triển, có đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ và rộng mở. Vì vậy, Việt Nam đã, đang và sẽ tiếp tục đóng góp tích cực, có trách nhiệm vào công việc chung của cộng đồng quốc tế. Việt Nam luôn nhất quán thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa; vừa hợp tác vừa đấu tranh; kiên trì về nguyên tắc, linh hoạt về sách lược, "dĩ bất biến ứng vạn biến"; bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia-dân tộc trên cơ sở luật pháp quốc tế.
Qua 35 năm thực hiện đường lối đổi mới, Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện, tích lũy, nâng tầm được cả thế và lực nhất định, uy tín ngày càng gia tăng trên trường quốc tế, đã tạo ra những tiền đề quan trọng và vị thế thuận lợi để phát triển.

Trong đó, công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế được đặt dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp, tuyệt đối, toàn diện của Đảng và quản lý thống nhất của Nhà nước, đã phối hợp chặt chẽ với các ngành, lĩnh vực, phát huy được sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc và hệ thống chính trị, đã hoàn thành tốt các nhiệm vụ phát huy vai trò tiên phong trong giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, bảo vệ vững chắc chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và lợi ích quốc gia, dân tộc, bảo vệ Đảng, chế độ xã hội chủ nghĩa; chủ động, tích cực đẩy mạnh hội nhập quốc tế toàn diện và sâu rộng; huy động nguồn lực to lớn từ bên ngoài phục vụ phát triển kinh tế-xã hội, thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; nâng cao vị thế và uy tín của Việt Nam trên thế giới.

Chiến lược đối ngoại của Việt Nam đặt trong tổng thể đường lối phát triển của đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa; gắn kết hài hòa, chặt chẽ, có hiệu quả với đường lối, chính sách quốc phòng, an ninh và phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội. Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, đặt sự phát triển của đất nước vào dòng chảy của thời đại, từ đó xây dựng, triển khai các đường lối, chính sách phù hợp, phát huy tối đa sức mạnh dân tộc, tranh thủ nguồn lực bên ngoài cho xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đánh giá và dự báo đúng tình hình trong nước và quốc tế, tinh thần không ngừng sáng tạo, đổi mới tư duy trong hoạch định và triển khai chính sách đối ngoại, phù hợp với lợi ích quốc gia-dân tộc và xu thế thời đại.

Thành công trong công tác đối ngoại còn là kinh nghiệm trong việc nắm vững thời cơ, giành thắng lợi từng bước, từ phá thế bao vây cấm vận, tiến tới chủ động thực hiện đa phương hóa, đa dạng hóa nhằm mở rộng quan hệ đối ngoại, đưa các mối quan hệ đi vào chiều sâu, thiết lập các khuôn khổ hợp tác bền vững và hội nhập quốc tế sâu rộng, toàn diện.

Thế nào là đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ

Đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước và đối ngoại nhân dân

Đại hội XIII của Đảng đã khẳng định nguyên tắc nền tảng và tư tưởng chỉ đạo của đối ngoại thời kỳ đổi mới là thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ vì hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại; là bạn, là đối tác tin cậy và là thành viên tích cực, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế. Cùng với đó, xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng; ý chí tự lực, tự cường và nội lực là quyết định, cơ bản, lâu dài; nguồn lực bên ngoài là quan trọng.

Kết hợp chặt chẽ giữa các trụ cột đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước, đối ngoại nhân dân và giữa đối ngoại với quốc phòng, an ninh để tạo thế chân kiềng vững chắc, giữ vững chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, huy động nguồn lực bên ngoài cho phát triển đất nước; giữ gìn, kế thừa và phát huy bản sắc ngoại giao Việt Nam kết hợp với văn hóa truyền thống của dân tộc, nghệ thuật ngoại giao Hồ Chí Minh để tiếp tục xây dựng và hoàn thiện khoa học, lý luận ngoại giao Việt Nam; đẩy mạnh hội nhập quốc tế toàn diện và sâu rộng, với trọng tâm là hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời thúc đẩy và nâng cao chất lượng hội nhập quốc tế trong các lĩnh vực văn hóa, xã hội, môi trường, khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo, du lịch, qua đó đưa đất nước phát triển nhanh và bền vững hơn.
Phát biểu chỉ đạo tại Hội nghị, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã gợi mở, nêu lên một số nội dung lớn liên quan đến công tác đối ngoại. Theo đó, cần tiếp tục thường xuyên theo dõi, nghiên cứu, nắm chắc diễn biến tình hình để kịp thời đổi mới tư duy và có giải pháp thích hợp trong công tác đối ngoại; cần xây dựng vị thế và tâm thế mới của Việt Nam trong ứng xử và xử lý mối quan hệ với các nước, song phương cũng như đa phương. Sử dụng hình ảnh cây tre Việt Nam, mềm mại, nhưng rất kiên cường như tính cách của con người, dân tộc Việt Nam linh hoạt, sáng tạo nhưng rất bản lĩnh, kiên định, can trường trước mọi thử thách, khó khăn, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nhấn mạnh quan điểm về “Quyết tâm xây dựng và phát triển một nền đối ngoại và ngoại giao Việt Nam hiện đại, mang đậm bản sắc dân tộc và trường phái ngoại giao cây tre Việt Nam”.

Song Hà


Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập, tự chủ trong đối ngoại, đoàn kết quốc tế hiện nay

Chủ tịch Hồ Chí Minh – nhà ngoại giao kiệt xuất, người sáng lập nền ngoại giao Việt Nam hiện đại. Trên cương vị Chủ tịch Đảng và Chủ tịch nước, Người luôn quan tâm chỉ đạo công tác đối ngoại, đoàn kết quốc tế nhằm phát huy sức mạnh của dân tộc, đồng thời tranh thủ sự ủng hộ của các nước và nhân dân thế giới trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước.

Thế nào là đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ
Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp nhân sĩ trí thức Mỹ phản đối chiến tranh ở Việt Nam, năm 1967. Ảnh tư liệu

1-Độc lập, tự chủ là tư duy nổi bật, nhất quán trong toàn bộ hoạt động chính trị của Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh. Nguyên lý chủ yếu của tư tưởng đó là “muốn người ta giúp cho, thì trước mình phải tự giúp lấy mình đã”(1). Giữ vững độc lập, tự chủ vừa là đường lối, vừa là nguyên tắc bất biến để bảo vệ tốt nhất lợi ích quốc gia – dân tộc. Đó chính là kết tinh của sự nghiệp đối ngoại thời đại Hồ Chí Minh.

Theo Hồ Chí Minh, độc lập là không phụ thuộc, không bắt chước, theo đuôi, giáo điều. Tự chủ là chủ động suy nghĩ và làm chủ suy nghĩ của mình, tự chịu trách nhiệm trước nhân dân, trước đất nước, biết làm chủ bản thân và công việc. Trong quan hệ quốc tế và đối ngoại của Việt Nam, Hồ Chí Minh khẳng định: “Độc lập nghĩa là chúng tôi điều khiển lấy mọi công việc của chúng tôi, không có sự can thiệp ở ngoài vào”(2). Trong Lời kêu gọi nhân ngày kỷ niệm Độc lập 2-9-1948, Người khẳng định: “Độc lập mà không có quân đội riêng, ngoại giao riêng, kinh tế riêng. Nhân dân Việt Nam quyết không thèm thứ thống nhất và độc lập giả hiệu ấy”(3). Như vậy, không chỉ dân tộc Việt Nam độc lập, tự chủ, thống nhất và toàn vẹn về lãnh thổ mà ngoại giao, đối ngoại của dân tộc cũng phải độc lập, không bị bất kỳ thế lực, lực lượng nào chi phối. Trong quan hệ giữa các đảng thuộc phong trào cộng sản, công nhân quốc tế, Người xác định: “Các đảng dù lớn dù nhỏ đều độc lập và bình đẳng, đồng thời đoàn kết nhất trí giúp đỡ lẫn nhau”(4).

Độc lập, tự chủ tức là dựa vào sức mình là chính, có tham khảo, chọn lọc kinh nghiệm, bài học của quốc tế, nhưng tự mình phải suy nghĩ, tìm tòi, định ra những chủ trương, chính sách, biện pháp nhằm giải quyết công việc của đất nước, không chịu một sức ép nào từ bên ngoài, không để “biến thành một con bài trong tay người khác”. Độc lập, tự chủ là đặc trưng của bản lĩnh chính trị, đối ngoại của dân tộc Việt Nam. Hồ Chí Minh đã kế thừa, vận dụng các giá trị ấy, vạch ra đường lối đối ngoại phù hợp với điều kiện lịch sử cụ thể của Việt Nam trong bối cảnh thời đại mới.

Tinh thần độc lập, tự chủ thể hiện trong những văn kiện đầu tiên của Đảng, trong tư tưởng chỉ đạo hoạt động của Việt Minh ở giai đoạn chuẩn bị khởi nghĩa và tổng khởi nghĩa giành chính quyền, với tinh thần “đem sức ta mà giải phóng cho ta”. Do hoàn cảnh cuộc đấu tranh cách mạng của nước nhà, sau khi nhân dân giành được chính quyền tháng 8-1945, Hồ Chí Minh nhấn mạnh về chính trị, quân sự, kinh tế, nội chính và ngoại giao của ta là tự lực cánh sinh. Từ năm 1950, Hồ Chí Minh nhắc nhở: có sự chi viện của Liên Xô và Trung Quốc về vật chất, vũ khí, trang bị, ta sẽ đỡ khó khăn hơn, nhưng giành được thắng lợi phải do nỗ lực của chính bản thân ta quyết định. Khi nước ta thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược, Hồ Chí Minh nêu rõ độc lập, tự chủ vẫn là “cái gốc, điểm mấu chốt” của mọi vấn đề. Người xác định, độc lập, tự chủ là một truyền thống. Người nêu mối liên hệ giữa tranh thủ viện trợ quốc tế và tự lực cánh sinh: “Các nước bạn ta, trước hết là Liên Xô và Trung Quốc ra sức giúp đỡ ta một cách vô tư, khảng khái, để chúng ta có thêm điều kiện tự lực cánh sinh”(5).

Hiệp định Giơ-ne-vơ năm 1954 đem lại bài học về tinh thần độc lập, tự chủ và hợp tác quốc tế. Các nước lớn đã tác động đến tiến trình giải quyết cuộc chiến tranh Đông Dương. Từ kinh nghiệm của Hội nghị này, đối ngoại Việt Nam đã có bước trưởng thành. Trong thời kỳ tiếp theo, đường lối độc lập, tự chủ và đoàn kết quốc tế được phát huy ở mức cao độ, góp phần quan trọng vào thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.

Để tăng cường thế và lực cho cách mạng Việt Nam, ngay từ năm 1954, Hồ Chí Minh đồng thời triển khai hoạt động đối ngoại trên nhiều hướng: Đấu tranh thi hành Hiệp định Giơ-ne-vơ; củng cố, tăng cường quan hệ và tranh thủ sự ủng hộ, giúp đỡ của Liên Xô, Trung Quốc, các nước trong phe xã hội chủ nghĩa; đóng góp tích cực vào việc củng cố tình đoàn kết giữa các đảng anh em và sự thống nhất trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế; xây dựng quan hệ hữu nghị với hai chính phủ Vương quốc Cam-pu-chia và Lào theo 5 nguyên tắc chung sống hòa bình; tăng cường đoàn kết với phong trào giải phóng dân tộc ở châu Á, châu Phi và Mỹ La-tinh; tham gia vào phong trào hòa bình và dân chủ thế giới, chống đế quốc, thực dân hiếu chiến. Đó thực chất là những yếu tố khởi đầu của chính sách đa phương và đa dạng hóa quan hệ quốc tế mà Việt Nam có thể thực hiện được trong điều kiện thực tiễn quan hệ chính trị thế giới lúc bấy giờ. Hồ Chí Minh hằng mong muốn thực hiện một chính sách đa phương, đa dạng như vậy từ sau khi nước nhà giành được độc lập năm 1945. Trong nhiều bài phát biểu, trả lời phỏng vấn sau khi nước Việt Nam giành được độc lập cũng như trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp, Hồ Chí Minh nhiều lần khẳng định, Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước dân chủ trên thế giới; hợp tác với mọi nước vui lòng hợp tác thật thà và bình đẳng với Việt Nam… Trong Lời tuyên bố của Chính phủ nước Việt Nam

Dân chủ Cộng hòa cùng Chính phủ các nước trên thế giới, ngày 14-1-1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh tuyên bố: “Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sẵn sàng đặt quan hệ ngoại giao với Chính phủ nước nào trọng quyền bình đẳng, chủ quyền lãnh thổ và chủ quyền quốc gia của nước Việt Nam, để cùng nhau bảo vệ hòa bình và xây đắp dân chủ thế giới”(6).

Độc lập, tự chủ nhằm bảo đảm lợi ích quốc gia – dân tộc chính đáng, thực hiện các quyền dân tộc cơ bản trong điều kiện lợi ích của các dân tộc đan xen, chồng chéo. Nhưng độc lập, tự chủ và tự lực, tự cường hoàn toàn đối lập với sự biệt lập và chủ nghĩa biệt phái. Để chiến thắng những kẻ thù mạnh hơn mình gấp nhiều lần, Hồ Chí Minh luôn chủ trương tăng cường đoàn kết và tranh thủ sự hợp tác quốc tế, coi đây là vấn đề có tầm chiến lược hàng đầu trong đường lối cách mạng Việt Nam. Mục tiêu của đoàn kết và hợp tác quốc tế là tập hợp lực lượng bên ngoài, tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ và giúp đỡ quốc tế, làm tăng thêm khả năng tự lực, tự cường, tạo điều kiện làm chuyển biến so sánh lực lượng có lợi cho cách mạng. Vì vậy, độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường phải gắn với đoàn kết và hợp tác quốc tế, đồng thời kết hợp với đấu tranh kiên quyết và khôn khéo để thực hiện mục tiêu của cách mạng và bảo vệ quyền lợi quốc gia. Đó là một nguyên lý cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh, là “sợi chỉ đỏ” xuyên suốt toàn bộ hoạt động quốc tế và ngoại giao Việt Nam, được Đảng ta nâng lên thành đường lối độc lập, tự chủ và đoàn kết quốc tế.

Với nhãn quan chiến lược sáng suốt, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thể hiện rất cụ thể và sâu sắc mối quan hệ biện chứng, sự gắn kết giữa độc lập, tự chủ với mở rộng và tăng cường đoàn kết, hợp tác quốc tế; giữa tự lực, tự cường với hợp tác và phát triển. Người không tuyệt đối hóa một nhân tố nào, mà đề cập rất rõ ràng, sinh động về vị trí, vai trò của từng nhân tố, của sức mạnh bên trong và sức mạnh bên ngoài. Trong mối quan hệ biện chứng đó, “độc lập, tự chủ” luôn giữ vai trò quyết định, là nền tảng vững chắc để đoàn kết quốc tế, tranh thủ sự ủng hộ rộng rãi của nhân dân thế giới; đồng thời, đoàn kết, hợp tác quốc tế có ý nghĩa rất quan trọng, không thể thiếu của cách mạng Việt Nam, tạo môi trường quốc tế thuận lợi, sức mạnh tổng hợp để giữ vững độc lập, tự chủ. Mối quan hệ biện chứng giữa độc lập, tự chủ với đoàn kết, hợp tác quốc tế chính là biểu hiện cụ thể của mối quan hệ giữa sức mạnh bên trong và sức mạnh bên ngoài.

Để tăng cường đoàn kết, hợp tác quốc tế, trước hết phải phát huy độc lập, tự chủ: “Một dân tộc không tự lực cánh sinh mà cứ ngồi chờ dân tộc khác giúp đỡ thì không xứng đáng được độc lập”(7); từ đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trương tích cực, chủ động đoàn kết, hợp tác quốc tế trên cơ sở độc lập, tự chủ, tôn trọng lẫn nhau; thực hiện phương châm “làm bạn với tất cả mọi nước dân chủ và không gây thù oán với một ai”(8), “thêm bạn, bớt thù” và “giúp bạn là tự giúp mình”. Theo Hồ Chí Minh, Việt Nam đoàn kết, hợp tác quốc tế không những để tranh thủ sự ủng hộ, giúp đỡ mà còn có trách nhiệm ủng hộ, giúp đỡ các nước khác, thực hiện nghĩa vụ quốc tế. Vì lẽ đó, ta vừa ra sức kháng chiến, vừa tham gia phong trào ủng hộ hòa bình thế giới; đồng thời, Người chủ trương hợp tác phải đi đôi với đấu tranh: mục đích của ta là vì đoàn kết, vì đoàn kết mà phải tranh đấu; tranh đấu để đi đến đoàn kết, chứ không nói xấu ai.

Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phấn đấu không mệt mỏi cho việc tăng cường hiểu biết giữa các dân tộc, xây dựng tình đoàn kết giữa các lực lượng cách mạng và dân chủ, thúc đẩy quan hệ quốc tế hữu nghị và hợp tác giữa các quốc gia nhằm bảo vệ hòa bình và củng cố độc lập dân tộc. Người kiên quyết đấu tranh chống chiến tranh xâm lược, cường quyền, áp đặt trong quan hệ quốc tế, cũng như mọi hành động can thiệp và xâm phạm lợi ích chính đáng của các dân tộc. “Những tư tưởng của Người là hiện thân của những khát vọng của các dân tộc mong muốn được khẳng định bản sắc văn hóa của mình và mong muốn tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau giữa các dân tộc”(9).

2-Dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh, hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế của Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Môi trường hòa bình thuận lợi cho phát triển, độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ tiếp tục được giữ vững. Quan hệ đối ngoại được mở rộng và ngày càng đi vào chiều sâu. Quan hệ với các nước láng giềng và các nước trong ASEAN được củng cố. Việt Nam đã thiết lập quan hệ đối tác chiến lược, đối tác toàn diện với nhiều đối tác quan trọng; tích cực, chủ động tham gia các diễn đàn, tổ chức khu vực và quốc tế, nâng cao vị thế của đất nước. Đối ngoại của Đảng, ngoại giao nhà nước và đối ngoại nhân dân được triển khai đồng bộ, hiệu quả, có bước phát triển mới. Nhận thức đúng về xu thế của thời đại, về cục diện thế giới và khu vực, Đảng đã có định hướng sáng suốt và Nhà nước đã có các chính sách đúng đắn và kịp thời trên cơ sở bảo đảm lợi ích quốc gia – dân tộc. Nhiều chủ trương, giải pháp xử lý các vấn đề quốc gia – dân tộc – quốc tế đã tạo được sự đồng thuận cao trong toàn Đảng, toàn dân và được dư luận quốc tế ủng hộ.

Bên cạnh thuận lợi cơ bản, nhiệm vụ hội nhập quốc tế và phát triển của đất nước hiện nay vẫn đang đứng trước nhiều khó khăn, thách thức. Tình hình quốc tế, khu vực diễn biến nhanh chóng, phức tạp, khó lường. Cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn và tranh chấp lãnh thổ, chủ quyền biển, đảo giữa các nước trong khu vực diễn ra gay gắt, tiềm ẩn nguy cơ xung đột, mất ổn định. Xu hướng dân chủ hóa đời sống chính trị quốc tế, các vấn đề toàn cầu, an ninh phi truyền thống,… đặt ra không ít vấn đề liên quan đến độc lập, tự chủ của các nước, nhất là với những nước nhỏ, đang phát triển.

Trong bối cảnh đó, chúng ta càng phải nhận thức sâu sắc và vận dụng đúng đắn, sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập, tự chủ trong đối ngoại, hợp tác và phát triển.

Thứ nhất,giữ vững và thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đặt lợi ích quốc gia – dân tộc lên trên hết, trước hết.

Việc xác định lợi ích quốc gia – dân tộc và bảo vệ lợi ích quốc gia – dân tộc của đường lối đối ngoại, hội nhập quốc tế trong thời kỳ mới được coi là yêu cầu hàng đầu và là kim chỉ nam trong hoạt động đối ngoại của Đảng, Nhà nước, đồng thời là một trong những mục tiêu then chốt của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Quán triệt quan điểm độc lập, tự chủ, dựa vào sức mình là chính để quá trình mở rộng quan hệ đối ngoại, đa dạng hóa, đa phương hóa mang lại hiệu quả cao, bền vững và không làm phương hại đến chủ quyền quốc gia, bản sắc dân tộc, hội nhập mà không hòa tan, độc lập nhưng không đóng cửa, biệt lập với hành trình phát triển của nhân loại.

Thứ hai,ra sức phát triển kinh tế – xã hội, tăng cường tiềm lực quốc phòng – an ninh, tạo sức mạnh tổng hợp của quốc gia – dân tộc.

Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: “Thực lực mạnh, ngoại giao sẽ thắng lợi. Thực lực là cái chiêng mà ngoại giao là cái tiếng. Chiêng có to tiếng mới lớn”(10). Người đặc biệt nhấn mạnh: Ta có mạnh thì họ mới chịu đếm xỉa đến. Thực lực của ta là sức mạnh tổng hợp mọi mặt gồm cả chính trị, kinh tế, văn hóa, quốc phòng, an ninh, đối ngoại… Theo đó, cần tăng cường sức mạnh tổng hợp quốc gia. Nâng cao sức mạnh tổng hợp quốc gia là yếu tố quyết định thành công của quá trình hội nhập quốc tế. Đó là sức mạnh được tạo nên từ sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, hiệu lực quản lý của Nhà nước, của khối đoàn kết toàn dân tộc, của văn hóa, con người Việt Nam; sức mạnh của nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân gắn với nền an ninh nhân dân và thế trận an ninh nhân dân vững chắc.

Thế nào là đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ
Chào cờ trên đảo Song Tử Tây (huyện Trường Sa, tỉnh Khánh Hòa). Ảnh: Tư liệu

Thứ ba,kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, gắn cách mạng Việt Nam với cách mạng thế giới, coi đây là quy luật thắng lợi của cách mạng Việt Nam.

Sức mạnh dân tộc Việt Nam là sự tổng hợp của các yếu tố vật chất và tinh thần, truyền thống và hiện đại, là sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc, chính nghĩa dân tộc, sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Yếu tố quyết định để phát huy sức mạnh dân tộc là giữ vững tinh thần độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường. Sức mạnh dân tộc Việt Nam được phát huy ở mức cao trong thời đại Hồ Chí Minh đã đưa đất nước vượt qua những khó khăn, thử thách hiểm nghèo.

Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để phát huy triệt để những thế mạnh của chính mình, tận dụng mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của các quan hệ quốc tế. Tham gia vào những hình thức tập hợp lực lượng quốc tế có lợi vừa góp phần bảo đảm an ninh quốc gia, vừa tranh thủ cao độ mọi nguồn lực từ bên ngoài để kết hợp và bổ sung cho nội lực, phục vụ cho phát triển và bảo vệ đất nước. Trong quá trình ấy, cần nêu cao chính nghĩa, tính phù hợp với xu thế phát triển của thời đại, gắn kết sự nghiệp của đất nước với những mục tiêu tiến bộ của nhân loại, chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế trong sáng. Để tận dụng được sức mạnh thời đại nhằm bổ sung, hỗ trợ cho các tiềm năng phát triển ở trong nước, cần tranh thủ mọi hình thức tập hợp lực lượng và khai thác tính phụ thuộc và sự ràng buộc lẫn nhau về lợi ích để thêm bạn, bớt thù, hạn chế sự chống phá và làm thất bại mọi âm mưu của các thế lực bên ngoài gây mất ổn định và làm suy yếu đất nước.

Tăng cường kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, tranh thủ sự giúp đỡ của bạn bè quốc tế, cần nhìn nhận biện chứng trong sự đan xen và chuyển hóa lẫn nhau giữa đối tác và đối tượng. Theo đó, trong mỗi đối tác có thể có những mâu thuẫn với lợi ích của ta cần phải kiên quyết, kiên trì đấu tranh; trong mỗi đối tượng vẫn có thể có mặt đồng thuận cần hợp tác; tranh thủ ngày càng tốt hơn sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế đối với công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Cùng với tăng cường xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tiếp tục thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, chủ động, tích cực hội nhập quốc tế; đẩy mạnh hợp tác tạo thế đan xen lợi ích chiến lược giữa các nước, nhất là các nước lớn, các đối tác chiến lược, các nước láng giềng và các nước trong khu vực; tránh xung đột, đối đầu, tránh bị cô lập, lệ thuộc.

Thứ tư,tiếp tục đường lối ngoại giao rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa, hợp tác nhiều mặt với tất cả các nước, các tổ chức quốc tế trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không can thiệp vào công việc của nhau, bình đẳng, cùng có lợi, giải quyết các vấn đề tranh chấp đang tồn tại bằng biện pháp hòa bình.

Giữ vững độc lập, tự chủ không chỉ bao gồm việc khắc phục sự lệ thuộc, chống sự áp đặt, lôi kéo, chi phối mà còn là nêu cao và phát huy tính chủ động trong việc tham gia vào các công việc chung của cộng đồng khu vực và quốc tế. Theo đó, để giữ được độc lập, tự chủ trong đối ngoại, hội nhập, chúng ta phải có tầm nhìn chiến lược, khả năng bao quát và dự liệu cả cơ hội và nguy cơ, đồng thời luôn chủ động, tích cực tham gia các cơ chế hợp tác quốc tế, đề xuất sáng kiến, đóng góp tích cực vào quá trình xây dựng thể chế và kiến trúc điều tiết quan hệ quốc tế.

Thứ năm,giữ vững, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, hiệu lực quản lý của Nhà nước trong quá trình hội nhập và phát triển.

Trong bối cảnh Việt Nam hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, các thế lực thù địch tranh thủ mọi sơ hở của ta để chống phá, thì việc tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước càng cần được coi trọng. Đây là yếu tố bên trong quyết định sự thắng lợi của cách mạng, sự phát triển của chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Để giữ vững sự lãnh đạo của Đảng và tăng cường hiệu lực quản lý của Nhà nước trong hội nhập và phát triển song song với kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc thì phải tiếp tục tăng cường xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, đồng thời ngăn chặn, từng bước đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”; củng cố, tăng cường lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước./.

——————–

(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 2, tr. 320

(2), (3) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 5, tr. 162, 602

(4) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.12, tr. 732

(5) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 10, tr. 103

(6) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 6, tr. 311

(7) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 7, tr. 445

(8) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 5, tr. 256

(9) Nghị quyết số 24C/18.65, của Đại hội đồng khóa họp 24 UNESCO, về kỷ niệm 100 năm Ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh của Đại hội đồng khóa họp 24

(10) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 4, tr. 147

https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/quoc-phong-an-ninh-oi-ngoai1/-/2018/823631/tu-tuong-ho-chi-minh-ve-doc-lap%2C-tu-chu-trong-doi-ngoai%2C-doan-ket-quoc-te-va-viec-van-dung-trong-tinh-hinh-hien-nay.aspx

Độc lập tự chủ và vai trò của công tác đối ngoại

Thứ Bảy, 03-07-2021, 06:17

Facebook Email Bản in +

Thế nào là đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ
Đồng chí Lê Hoài Trung, Ủy viên Trung ương Đảng, Trưởng Ban Đối ngoại Trung ương (Ảnh: TTXVN)

Bài viết quan trọng của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng với tiêu đề “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” đăng trên Báo Nhân Dân số ra ngày 16/5/2021 đã phân tích sâu sắc về con đường phát triển của đất nước ta, đặc biệt là nhận thức của Đảng ta về chủ nghĩa xã hội, thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, đường lối xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ.

Ngày 12/6/2021, tại Hội nghị Toàn quốc tại Hà Nội sơ kết 5 năm thực hiện Chỉ thị số 05 của Bộ Chính trị (Khoá XII)[1] về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”,Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã phát biểu về một số vấn đề cốt lõi của tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, yêu cầu hiện nay đối với việc học tập và nêu gương của cán bộ, đảng viên.Các nội dung của các bài viết và bài phát biểu trên của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng có ý nghĩa quan trọng đối với việc tổng kết, phát triển lý luận, quá trình triển khai, thực hiện đường lối của Đại hội XIII của Đảng và đã nhận được nhiều sự quan tâm, đánh giá cao ở trong nước và trên quốc tế.

Trong bài viết “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam",Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nêu rõ: “Trong thế giới toàn cầu hóa như hiện nay, sự phát triển của mỗi quốc gia - dân tộc không thể biệt lập, đứng bên ngoài những tác động của thế giới vàthời đại, của thời cuộc và cục diện của nó”.

Tổng Bí thư khẳng định nội dung quan trọng hàng đầu của đường lối đối ngoại của Đảng, Nhà nước ta, đó là “chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển, đa phương hoá, đa dạng hóacác quan hệ quốc tế trên cơ sở tôn trọng độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng, cùng có lợi".Nội dung đó thể hiện đậm nét tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về đối ngoại, trong đó có tầm nhìn quốc tế của Người, các tư tưởng về độc lập tự chủ và vai trò của công tác đối ngoại và bài viết dưới đây tập trung vào các bài viết, phát biểu, hoạt động thực tiễn của Chủ tịch Hồ Chí Minh và đường lối, thực tiễn hoạt động đối ngoại của Đảng, Nhà nước ta khi Người sinh thời.

1.Tầm nhìn quốc tế có vị trí đặc biệt trong tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Các nhà nghiên cứu còn gọi đó là chủ nghĩa quốc tế. Năm 1911, người thanh niên trẻ Nguyễn Tất Thành mới tròn 21 tuổi đã quyết định đi ra quốc tế để tìm con đường đem lại tự do cho đồng bào, độc lập cho Tổ quốc.Trong tác phẩm “Đường kách mệnh” (xuất bản năm 1927) đặt nền móng tư tưởng cho quá trình thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh, khi đó mang tên Nguyễn Ái Quốc, đã dành nhiều phần để thông tin, phân tích về lịch sử cách mạng các nước, phong trào thế giới.

Đảng ta thường xuyên đánh giá tình hình quốc tế để xác định những thuận lợi và khó khăn, đặt cách mạng Việt Nam và sự nghiệp của dân tộc trong mối quan hệ tác động qua lại với cách mạng thế giới và những xu hướng quốc tế, từ đó đề ra đường lối phù hợp. Các văn kiện Chánh cương vắn tắt của Đảng, Sách lược vắn tắt của Đảng, Điều lệ vắn tắt của Đảng Cộng sản Việt Nam và Lời kêu gọi do Chủ tịch Hồ Chí Minh soạn thảo và được thông qua tại Hội nghị thành lập Đảng (tháng 2 năm 1930) đã phân tích về mối quan hệ giữa các tầng lớp, giai cấp trong nước với với lực lượng bên ngoài nhằm xác định lực lượng, đối tượng của cách mạng, tình hình quốc tế, trong đó dự đoán “Cuộc chiến tranh đế quốc thứ hai đang được ráo riết chuẩn bị”[2] để đề ra nhiệm vụ của cách mạng. Cuối tháng 12 năm 1941, chiến tranh giữa Nhật với Mỹ, Anh nổ ra ở khu vực Thái Bình Dương, lan đến Đông Dương, Đảng ta nhận định “Cơ hội giải phóng của chúng ta đã đến[3]”. Ngày 12 tháng 3 năm 1945, Ban Thường vụ Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương ra Chỉ thị “Nhật - Pháp bắnnhau và hành động của chúng ta” để tiến tới Tổng khởi nghĩa.Trong hai cuộc kháng chiến hết sức cam go, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã xem xét vấn đề so sánh lực lượng giữa ta và đối phương trong cả bối cảnh của sự phát triển lớn mạnh của Liên Xô, Trung Quốc, các nước xã hội chủ nghĩa, phong tràogiải phóng dân tộc, phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân, nhân dân lao động ở các nước xã hội chủ nghĩa và đánh giá âm mưu, chiến lược của Mỹ ở Việt Nam trong tổng thể chiến lược toàn cầu của Mỹ.

Lòng yêu chuộng hòa bình và phấn đấu cho hòa bình là quan điểm nhân văn nổi bật trong tầm nhìn quốc tế của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Người và Đảng ta luôn dành sự quan tâm hàng đầu cho vấn đề quốc tế về chiến tranh và hòa bình, khẳng định rõ quan điểm chống chiến tranh, bảo vệ hòa bình, nỗ lực phấn đấu cho hòa bình đồng thời kiên quyết bảo vệ các quyền, lợi ích chính đáng của dân tộc.Từ những năm 1930, Đảng ta cảnh báo về nguy cơ của cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ 2 (1939-1945), đưa ra nhiều chỉ đạo trong Đảng, kêu gọi quần chúng ngăn ngừa cuộc chiến tranh đó và ủng hộ Liên Xô, các nước trong phe đồng minh chống phe phát xít gây chiến.Trong những năm 1945-1946, bảo vệ nền độc lập và chính quyền non trẻ trước sự chống phá của các lực lượng ở trong và ngoài nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã kiên trì, tìm nhiều biện phápđể tránh chiến tranh, như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định trong Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến:“Chúng ta muốn hòa bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới…” Những tài liệu nay đã được công bố cho thấy rõ là sau khi Hiệp định Genèvevề đình chỉ chiến tranh, lập lại hòa bình ở Đông Dương được ký năm 1954, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta chủ trương và kiên trì thực hiện Hiệp định, nhất là về việc hai miền tổ chức tổng tuyển cử và hòa bình thống nhất nước nhà.Bước vào cuộc kháng chiến của những năm 1960, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta tiếp tục yêu cầu phía Mỹ và chế độ miền nam thực hiện Hiệp định Genène, vận động hình thành mặt trận nhân dân thế giới chống chiến tranh xâm lược, đem lại hòa bình ở Việt Nam, vừa đấu tranh chống xâm lược ở Việt Nam, vừa bảo vệ hòa bình thế giới, từng bước tạo cục diện “vừa đánh, vừa đàm” và tiến tới đàm phán với Mỹ, chế độ miền Nam và ký Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam vào năm 1973.

Trong quan hệ với thế giới, sau khi nước nhà giành lại được độc lập vào năm 1945, thành lập Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tuyên bố “trong chính sách đối ngoại của mình, nhân dân Việt Nam sẽ tuân thủ những nguyên tắc dưới đây: … Đối với các nước dân chủ, nước Việt Nam sẵn sàng thực thi chính sách mở cửa và hợp tác trong mọi lĩnh vực[4]”. Chủ tịch Hồ Chí Minh dành sự đồng cảm đặc biệt đối với nhân dân các dân tộc bị áp bức, thuộc địa. Người chỉ ra khả năng các nước thuộc địa có thể giành thắng lợi và cần có sự liên kết giữa cách mạng ở thuộc địa và cách mạng ở chính quốc. Chủ tịch Hồ Chí Minh ở các cương vị khác nhau và Đảng ta đã nhất quán ủng hộ mạnh mẽ và tin tưởng ở sức mạnh của phong trào giải phóng dân tộc.

Đối với hai dân tộc Lào và Campuchia cùng cảnh ngộ trên bán đảo Đông Dương, Chủ tịch Hồ Chí Minh coi việc hết sức ủng hộ, giúp đỡ lẫn nhau nhưng bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau là một nguyên tắc.Về chính sách đối ngoại của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà mới được thành lập, Chủ tịch Hồ ChíMinh đã khẳng định:“Đối với Lào và Miên,nước Việt Nam tôn trọng nền độc lập của hai nước đó và bày tỏ lòng mong muốn hợp tác trên cơ sở bình đẳng tuyệt đối giữa các nước có chủ quyền [5]”.

Ngay từ quá trình chuẩn bị thành lập Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu rõ lập trường ủng hộ Chính quyền Xô viết ở Liên Xô và cách mạng Trung Quốc.Người cũng xác định độc lập dân tộc phải gắn liền với chủ nghĩa xã hội, hết lòng, hết sức ủng hộ các nước xã hội chủ nghĩa, đóng góp tích cực vào đoàn kết giữa các nước xã hội chủ nghĩa và phát huy vai trò của các nước xã hội chủ nghĩa vào phong trào cách mạng, cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới đối với các mục tiêu tiến bộ chung.

Tầm nhìn quốc tế của Chủ tịch Hồ Chí Minh và đường lối quốc tế của Đảng ta là khởi nguồn của tình cảm, sự kính trọng đặc biệt của các dân tộc, đông đảo nhân dân, các tầng lớp xã hội ở các nước trên các châu lục đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh và sự ủng hộ rộng rãi đối với công cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam.Đó cũng là những cơ sở lý luận và thực tiễn cho bài học kinh nghiệm mà ngày nay Đảng ta đã đúc kết là kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại.

2. Tư tưởng “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” của Chủ tịch Hồ Chí Minh là ý chí của dân tộc Việt Nam hun đúc qua hàng nghìn năm lịch sử và cũng là mục tiêu phấn đấu hàng đầu của Đảng.Không có gì quý hơn độc lập, tự do và độc lập, tự chủ có mối liên hệ khăng khít, thể hiện xuyên suốt trong tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về đối ngoại, vừa là mục tiêu, vừa là nguyên tắc và phuơng pháp.Chính cương vắn tắt của Đảng Cộng sản Việt Nam, Chương trình tóm tắt của Đảng (năm 1930) đề ra mục tiêu “Làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập”, “Việt Nam tự do” và Luận cương chính trị của Đảng Cộng sản Đông Dương (năm 1930) nêu nhiệm vụ cốt yếu là “Xứ Đông Dương hoàn toàn độc lập, thừa nhận dân tộc tự quyết”. Nhưng, trước hết phải “có lực lượng mới giành được ĐỘC LẬP, TỰ DO[6]”.Độc lập, tự chủ trước hết là ở tư duy, đường lối, như Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn “Khi đặt ra khẩu hiệu và chỉ thị, luôn luôn phải dựa vào điều kiện thiết thực và kinh nghiệm cách mạng ở các nước, ởtrong nước và ở địa phương”[7] và tránh “thấy người ta làm thế nào mình cũng một mựcbắt chước làm theo thếấy[8]”. Cùng với đó là việc chuẩn bị và xây dựng lực lượng để có thể thực hiện được đường lối độc lập tự chủ.

Độc lập, tự chủ về tư duy, đường lối là một trong những nhân tố quyết định nhất, bảo đảm sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng ta, nhất là ở những thời điểm và giai đoạn bước ngoặt hoặc nhiều biến động, phức tạp.Chủ tịch Hồ Chí Minh tìm thấy con đường cứu nước khi đọc Sơ thảo lần thứ nhất Luận cương của Lenin về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa vào năm 1920, đó là: Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc, không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản,đồng thời vận dụng vào hoàn cảnh Việt Nam thì chủ trương của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta trong giai đoạn đầu là tiến hành cách mạng tư sản dân quyền. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, trong bối cảnh phức tạp của những bất hoà giữa các nước xã hội chủ nghĩa, có những thời điểm lãnh đạo một số nước xã hội chủ nghĩa có những quan điểm chưa phù hợp tình hình chung của phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc và diễn biến phức tạp trong quan hệ giữa các nước lớn, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đề cao tinh thần độc lập tự chủ để đề ra đường lối đáp ứng yêu cầu của cách mạng nước ta, phù hợp với tình hình quốc tế.Đảng ta đã nhận định thắng lợi của cuộc kháng chiến đó “trước hết là thắng lợi của đường lối chính trị, đường lối quân sự độc lập, tự chủ, đúng đắn và sáng tạo[9]”.

3.Từ tầm nhìn xa, trông rộng và sự hiểu biết sâu sắc về hoàn cảnh, những yêu cầu của đất nước, Người đã sớm nhận thức về tầm quan trọng của công tác đối ngoại và trực tiếp tham gia nhiều hoạt động đối ngoại. Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt nền móng và là người thầy, nhà lãnh đạo vĩ đại của đối ngoại Việt Nam.Năm 1919 là thời điểm đặc biệt trong hoạt động đối ngoại của Người khi Người gia nhập Đảng Xã hội Pháp vì lý do “Chỉ vì đây là tổ chức duy nhất ở Pháp bênh vực nước tôi”[10] và thay mặt Hội những người yêu nước Việt Nam tại Pháp gửi tới Hội nghị Versailles(Pháp) bản Yêu sách của nhân dân An Nam.Một năm sau đó, tại Đại hội Tours (Pháp) của Đại hội XVIII của Đảng Xã hội Pháp, Người bỏ phiếu tán thành tham gia Quốc tế III (Quốc tế Cộng sản) vì “Quốc tế III rất chú ý đến vấn đề giải phóng thuộc địa . . . Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi, đấy là tất cả những điều tôi muốn, đấy là tất cả những điều tôi hiểu[11]” cùng tuyên bố thành lập Phân bộ Pháp của Quốc tế Cộng sản, theo đó Người đã tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp và trở thành người cộng sản.Những năm tháng sau đó, dưới danh nghĩa người dân Việt Nam yêu nước, người cộng sản, Người hoạt động tích cực kêu gọi sự ủng hộ đối với cách mạng Việt Nam, chuẩn bị các mặt cho việc thành lập Đảng Cộng Sản Việt Nam, xây dựng quan hệ với các Nhà nước, đảng phái, tổ chức, nhân dân các nước, và đóng góp vào công việc chung của quốc tế.Đó cũng là những hoạt động đối ngoại Đảng và đối ngoại nhân dân của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Đầu năm 1945, Bác Hồ phân tích “dùng binh giỏi nhất, là đánh bằng mưu. Thứ hai là đánh bằng ngoại giao. Thứ ba mới là đánh bằng binh[12]”.Chủ tịch Hồ Chí Minh là Bộ trưởng Ngoại giao đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Người nêu rõ “muốn làm gì cũng cần vì lợi ích của dân tộc mà làm[13]” và xác định: “Cố nhiên ngoại giao là rất quan trọng, nhưng cái vốn chính là mình phải đánh thắng và mình phải có sức mạnh thì ngoại giao sẽ thắng[14]”. Đồng thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã lãnh đạo, vận dụng tài tình để phát huy sức mạnh của ngoại giao. Khi cuộc kháng chiến bước sang giai đoạn ác liệt mới với việc Mỹ đưa quân chiến đấu trên bộ vào miền Nam Việt Nam, Hội nghị Trung ương 12 (Khoá III) tháng 12 năm 1965 giao nhiệm vụ “ta phải giữ vững quyết tâm chiến lược, đồng thời áp dụng sách lược đấu tranh chính trị và ngoại giao khôn khéo để phối hợp với đấu tranh quân sự, chủ động tiến công địch[15]”. Tiếp đó, Ban Chấp hành Trung ương Đảng thảo luận và ban hành riêng một nghị quyết tại Hội nghị Trung ương 13 (Khoá III)tháng 1 năm 1967 về đẩy mạnh đấu tranh ngoại giao, chủ động tiến công, trong đó nêu “đấu tranh ngoại giao giữ một vai trò quan trọng, tích cực vàchủ động. Chúng tatiến công địch về ngoại giao bây giờlà đúng lúc[16]”. Hội nghị Trung ương 16 (Khoá III) vào tháng 5 năm 1969 xác định “ngoại giao là một mặt trận quan trọng[17]”. Nội hàm của ngoại giao cũng là công tác đối ngoại gồm cả đối ngoại Đảng, ngoại giao nhà nước và đối ngoại nhân dân được nêutrong đường lối mà Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng ta đề ra và trong quá trình thực hiện.Phát triển mới, quan trọng về đường lối của Đại hội lần thứ XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam là: “Tiếp tục phát huy vai trò tiên phong của đối ngoại trong việc tạo lập và giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, huy động các nguồn lực bên ngoài để phát triển đất nước, nâng cao vị thế và uy tín của đất nước. Xây dựng nền ngoại giao toàn diện, hiện đại với ba trụ cột là đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước và đối ngoại nhân dân”.

Trong quá trình đấu tranh cách mạng của Đảng và dân tộc, dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh, của Đảng, trực tiếp là Bộ Chính trị và Ban Bí thư, Ban Đối ngoại Trung ương đã có nhiều đóng góp quan trọng vào công tác của Đảng và đất nước. Ban Đối ngoại Trung ương hiện là cơ quan tham mưu của Ban Chấp hành Trung ương, trực tiếp và thường xuyên là Bộ Chính trị, Ban Bí thư trong lĩnh vực đối ngoại, tổ chức thực hiện quan hệ đối ngoại của Đảng, giúp Bộ Chính trị, Ban Bí thư chỉ đạo, hướng dẫn công tác đối ngoại nhân dân và quản lý thống nhất hoạt động đối ngoại trong hệ thống đảng, đoàn thể, tổ chức nhân dân. Các nhiệm vụ của Ban Đối ngoại Trung ương là nghiên cứu tình hình các chính đảng và phong trào nhân dân thế giới, nghiên cứu, dự báo tình hình quốc tế, đề xuất kịp thời những đối sách của Đảng ta, chuẩn bị hoặc tham gia chuẩn bị các văn kiện đại hội, nghị quyết, chỉ thị, quyết định của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị về lĩnh vực đối ngoại; chủ trì hoặc tham gia nghiên cứu cụ thể hoá đường lối đối ngoại của Đảng; là một đầu mối phối hợp với các cơ quan liên quan thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu, dự báo về lĩnh vực đối ngoại trình Ban chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư; thẩm định hoặc tham gia thẩm định các đề án trong lĩnh vực đối ngoại trong hệ thống chính trị trước khi trình Bộ Chính trị, Ban Bí thư; tổ chức thực hiện quan hệ đối ngoại của Đảng; hướng dẫn và kiểm tra việc thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách, các quy chế, quy định về công tác đối ngoại của Đảng; quản lý thống nhất các hoạt động đối ngoại trong hệ thống đảng, đoàn thể, tổ chức nhân dân và tham gia xây dựng Đảng, xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác đối ngoại[18].

Cán bộ, đảng viên và người lao động của Ban Đối ngoại Trung ương nhận thức những nhiệm vụ được giao là vinh dự, đồng thời cũng là trách nhiệm lớn.Ban Đối ngoại Trung ương đã triển khai việc nghiên cứu, học tập, quán triệt Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, trong đó có bài viết “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam" và bài phát biểu của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”. Ban đã xây dựng Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết của Đại hội XIII của Đảng, trong đó quán triệt yêu cầu của tình hình mới về việc nâng cao chất lượng công tác tham mưu chiến lược, thẩm định, hướng dẫn và kiểm tra đồng thời làm tốt các công việc thường xuyên khác. Những việc đó đòi hỏi Ban Đối ngoại Trung ương kế thừa những kết quả công tác đã đạt được, đồng thời đổi mới tư duy, tiếp tục nâng cao năng lực cán bộ, cải tiến phương pháp công tác, điều chỉnh tổ chức, bộ máy và phát huy tinh thần hăng say, chuyên nghiệp và trách nhiệm công tác.

Tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối của Đảng ta về đối ngoại qua các giai đoạn cách mạng là những tài sản quý báu mà việc tiếp tục nghiên cứu sâu, theo nhiều khía cạnh sẽ giúp phát triển, làm phong phú thêm tư tưởng của Người, những tư tưởng, quan điểm của Đảng ta, đồng thời giúp nhận thức sâu sắc, đầy đủ hơn về những nhiệm vụ chuyên môn của công tác đối ngoại, từ theo dõi, đánh giá tình hình, để xuất về ứng phó, tham mưu chiến lược và tổ chức thực hiện để triển khai đồng bộ, sáng tạo, hiệu quả đường lối đối ngoại của Đại hội XIII, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện sâu rộng, bảo vệ và xây dựng đất nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn mới.

--------------

[1] Nghị quyết 05-CT/TW ngày 15/5/2016.
[2] Văn kiện Lời kêu gọi.
[3]Văn kiện Đảng, Toàn tập, Tập 7, trang 233 (1940-1945), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, năm 2000.
[4] Lời kêu gọi Liên hợp quốc, Hồ Chí Minh toàn tập, Tập 4, trang 522, 523, Nxb Chính trị Quốc gia.
[5] Lời kêu gọi Liên hợp quốc, đã dẫn ở trên.
[6] Thư kêu gọi Tổng khởi nghĩa, Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 3, trang 595, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, năm 2011.
[7] Sửa đổi lối làm việc, năm 1947.
[8] Văn kiện đã dẫn ở trên.
[9] Báo cáo Chính trị của BCH TƯ khoá III tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng, 1976.
[10] Hồ Chí Minh, Biên niên sử, Tập 1,trang 47,Nxb Chính trị Quôc gia Sự thật, Hà Nội năm 2016.
[11] Văn kiện đã dẫn ở trên, trang 86.
[12] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 3, trang 562, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, năm 2011.
[13] Nói chuyện tại Hội nghị cán bộ ngoại giao, ngày 14 tháng 1 năm 1964.
[14] Nói chuyện tại Hội nghị cán bộ ngoại giao lần thứ năm, ngày 16 tháng 3 năm 1966.
[15] Nghị quyết Hội nghị Trung ương 12 (Khoá III) ngày 27 tháng 12 năm 1965 về tình hình và nhiệm vụ mới, Văn kiện Đảng, Toàn tập, Tập 26, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, năm 2003.
[16] Văn kiện Đảng, Toàn tập, Tập 28, trang 174,Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, năm 2003.
[17]Văn kiện Đảng, Toàn tập, Tập 30, trang 104, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, năm 2004.
[18] Theo Quyết định số 112-QĐ/TW ngày 4 tháng 7 năm 2017 của Bộ Chính trị về chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy của Ban Đối ngoại Trung ương.

LÊ HOÀI TRUNG - Ủy viên Trung ương Đảng, Trưởng Ban Đối ngoại Trung ương

Tâm huyết với Bài viết của Tổng Bí thư

Facebook Twitter Link EmailQuay lại

Về mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế

Ngày phát hành: 12/12/2019 Lượt xem 21206

Độc lập, tự chủ ở đây là độc lập, tự chủ của đất nước, của quốc gia, là năng lực của quốc gia giữ vững chủ quyền và sự tự quyết về đối nội, đối ngoại, bảo vệ lợi ích quốc gia của mình, không bị sự thống trị, lệ thuộc, chi phối mang tính cưỡng bức, áp đặt, bắt buộc từ các lực lượng bên ngoài. Một đất nước độc lập, tự chủ là một đất nước có quyền, có năng lực quyết định việc lựa chọn con đường, mô hình phát triển, chế độ chính trị của mình, là đất nước có độc lập, tự chủ cả về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại. Độc lập, tự chủ là lý tưởng, mục tiêu phấn đấu của các nước trên thế giới; là lý tưởng, mục tiêu phấn đấu của dân tộc ta trong suốt lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, cũng là mục tiêu, lý tưởng phấn đấu của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta ngày nay.

Thế nào là đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ

Hội nhập quốc tế là sự tham gia của các quốc gia vào quá trình toàn cầu hóa đang diễn ra mạnh mẽ trên thế giới, để quốc gia trở thành một bộ phận cấu thành, có vị trí, vai trò nhất định trong các lĩnh vực hoạt động của cộng đồng các quốc gia trên thế giới. Ngày nay, với sự phát triển của khoa học công nghệ, kinh tế thị trường, các tập đoàn kinh tế lớn, các hoạt động kinh tế đã vượt khỏi biên giới các quốc gia; các hoạt động kinh tế, thương mại, đầu tư kinh doanh của nhiều quốc gia, nhiều tập đoàn kinh tế lớn đã diễn ra trên quy mô toàn cầu, hình thành nên thị trường toàn cầu, các chuỗi sản xuất toàn cầu, phân công lao động và hợp tác kinh tế trên quy mô toàn cầu. Đây là một xu hướng khách quan, tiến bộ của lịch sử. Xu hướng khách quan, tiến bộ đó của thế giới, của thời đại đã thu hút sự tham gia của ngày càng nhiều quốc gia. Hội nhập quốc tế trở thành nhu cầu, phương thức phát triển của các quốc gia. Hội nhập đem lại cho các quốc gia những nguồn lực, cơ hội để phát triển: đó là thị trường, thành tựu khoa học công nghệ, nguồn vốn, kinh nghiệm quản lý, quản trị hiện đại cho phát triển kinh tế; các sản phẩm hàng hóa, dịch vụ phong phú để nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của người dân; để đất nước tiến cùng thời đại. Hội nhập quốc tế, tăng cường sự liên kết, tạo sự đan xen lợi ích, củng cố, tăng cường quan hệ hợp tác, hữu nghị, lòng tin giữa các quốc gia là nhân tố rất quan trọng để giải quyết những bất đồng, mâu thuẫn phát sinh, duy trì môi trường hòa bình, ổn định cho sự phát triển chung... Hội nhập quốc tế để phát triển, muốn phát triển cần phải hội nhập quốc tế. Đây cũng là một xu hướng khách quan, tiến bộ. Tuy nhiên, hội nhập quốc tế đối với các quốc gia không chỉ có cơ hội, thuận lợi mà còn có không ít khó khăn thách thức; trong đó, thách thức lớn nhất là phải bảo vệ, giữ vững được độc lập, tự chủ của đất nước. Mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ với hội nhập quốc tế, do đó, là một trong những mối quan hệ đặc biệt quan trọng cần được quán triệt và giải quyết tốt trong công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của nước ta.

Quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế là quan hệ biện chứng, vừa thống nhất, vừa mâu thuẫn. Độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế của đất nước thống nhất với nhau ở mục tiêu cuối cùng đều là vì lợi ích của đất nước, của quốc gia, dân tộc, đều vì lợi ích của nhân dân. Mục tiêu của hội nhập quốc tế là vì lợi ích của đất nước, để phát triển đất nước, nâng cao đời sống nhân dân. Độc lập, tự chủ cũng vì lợi ích của đất nước, tự do, hạnh phúc của nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng khẳng định chân lý “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”, từng nói lên khát vọng cháy bỏng của nhân dân ta trong những ngày Cách mạng tháng Tám năm 1945 “Dù có phải đốt cháy cả dải Trường Sơn cũng phải giành cho được độc lập, tự do”; đồng thời, Bác cũng từng nói nước được độc lập mà nhân dân không có tự do, hạnh phúc thì độc lập cũng chẳng có ý nghĩa gì. Độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế còn có quan hệ gắn bó, là tiền đề, điều kiện của nhau. Độc lập, tự chủ là cơ sở, tiền đề, điều kiện cho hội nhập quốc tế, cụ thể là cho việc xác định chiến lược hội nhập, nội dung, bước đi, cách thức hội nhập quốc tế trên các lĩnh vực để hội nhập quốc tế đạt hiệu quả cao nhất. Mục tiêu của hội nhập quốc tế phải phục vụ mục tiêu phát triển, nâng cao sức mạnh tổng hợp của đất nước, củng cố độc lập, tự chủ của đất nước. Nội dung, bước đi, cách thức hội nhập trên các lĩnh vực phải xuất phát từ chiến lược phát triển chung của đất nước, từ tình hình đất nước và bối cảnh quốc tế trong từng giai đoạn... Đồng thời, trong thời đại ngày nay, độc lập, tự chủ không phải là biệt lập, cô lập với cộng đồng quốc tế. Một quốc gia bảo vệ độc lập, tự chủ của mình bằng cô lập, tách biệt khỏi cộng đồng quốc tế nhất định sẽ đi đến trì trệ, kém phát triển, do đó, cuối cùng sẽ nhất định không thể bảo vệ được độc lập, tự chủ của mình.

Thế nào là đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ

Song, quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế không chỉ có thống nhất, hỗ trợ, gắn bó với nhau, mà còn có mặt mâu thuẫn, thậm chí xung đột nếu không được nhận thức và giải quyết đúng đắn. Trong thời đại toàn cầu hóa, nhưng vẫn còn có nhận thức lo ngại, do dự hội nhập quốc tế vì sợ mất độc lập, tự chủ, bỏ lỡ cơ hội, cản trở, kìm hãm sự phát triển của đất nước; có những quốc gia vẫn khép kín, tách biệt với thế giới để bảo vệ độc lập, tự chủ của mình. Nếu loại bỏ những nhận thức, quan điểm cực đoan, thì một cách khách quan, những lo ngại về mất độc lập, tự chủ của đất nước không phải là không có cơ sở bởi hội nhập quốc tế thật sự tạo ra những thách thức không nhỏ đối với việc bảo vệ độc lập, tự chủ của đất nước. Khi hội nhập quốc tế, đất nước phải chấp nhận và tuân thủ những “luật chơi” chung; khi tham gia, trở thành thành viên của các tổ chức quốc tế, ký kết các hiệp định thương mại, đầu tư song phương, đa phương với các nước, các khu vực trên thế giới, đất nước phải điều chỉnh luật pháp, chính sách của mình phù hợp với các cam kết đã ký. Hội nhập quốc tế không chỉ tạo cơ hội mở rộng thị trường cho doanh nghiệp và sản phẩm của đất nước, mà cũng phải mở cửa thị trường của đất nước cho doanh nghiệp và sản phẩm của nước ngoài; các doanh nghiệp, các sản phẩm của đất nước đứng trước thách thức cạnh tranh rất lớn với các doanh nghiệp và sản phẩm của nước ngoài, không chỉ ở thị trường nước ngoài mà ngay cả ở thị trường trong nước. Những biến động, bất ổn trên thị trường thế giới, của kinh tế thế giới sẽ trực tiếp, nhanh chóng tác động, gây ra những bất lợi cho kinh tế đất nước. Những nguy cơ như: bất ổn của kinh tế đất nước do những tác động từ bên ngoài; đất nước trở thành “bãi thải” công nghệ, bị ô nhiễm môi trường, phụ thuộc vào doanh nghiệp nước ngoài... đều rất lớn. Những nguy cơ này sẽ trở thành hiện thực khi đất nước không có một chiến lược hội nhập quốc tế đúng đắn, hiệu quả phù hợp với điều kiện của mình. Đây là điều đã và đang xảy ra trên thế giới, ở nhiều nước với các mức độ khác nhau.

Ở nước ta, trong khi quan điểm về bảo vệ, giữ vững độc lập, tự chủ của đất nước luôn là quan điểm lớn, nhất quán, bất biến, được khẳng định trong các văn kiện của Đảng, Nhà nước ta ở các giai đoạn, thì quan điểm về hội nhập quốc tế được hình thành, phát triển trong hơn 30 năm đổi mới, là một trong những nội dung lớn của đường lối đổi mới đất nước của Đảng, Nhà nước ta. Đại hội VI của Đảng (1986), Đại hội mở ra thời kỳ đổi mới đất nước, còn xác định “nước ta phải tham gia vào phân công lao động quốc tế, trước hết và chủ yếu là với các nước trong cộng đồng xã hội chủ nghĩa; đồng thời mở rộng quan hệ kinh tế và khoa học kỹ thuật với các nước thế giới thứ ba, các nước công nghiệp phát triển, các tổ chức quốc tế và tư nhân nước ngoài trên nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi”[1]; Đại hội VII của Đảng (1991) chủ trương “Việt Nam muốn là bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển”[2]; Đại hội VIII của Đảng (1996), bên cạnh việc tiếp tục khẳng định quan điểm thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại với tinh thần Việt Nam muốn là bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển, đã đề ra chủ trương “xây dựng một nền kinh tế mở, hội nhập với khu vực và thế giới”[3]. Đại hội IX của Đảng (2001), cùng với phát triển quan điểm “Việt Nam muốn là bạn với các nước trong cộng đồng quốc tế” thành “Việt Nam muốn là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế”, đã phát triển quan điểm “hội nhập kinh tế” thành “chủ động hội nhập kinh tế quốc tế” và nhấn mạnh “chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hội nhập, bảo đảm độc lập tự chủ và định hướng XHCN”[4]. Quan điểm “chủ động hội nhập kinh tế quốc tế” của Đại hội IX tiếp tục được Đại hội X (2006) phát triển thành “chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời mở rộng hợp tác trên các lĩnh vực khác”[5]. Đại hội XI của Đảng (2011) đã đưa nhận thức, quan điểm về hội nhập quốc tế lên một bước phát triển mới khi đưa vào Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) quan điểm “chủ động và tích cực hội nhập quốc tế”, tức là không chỉ hội nhập kinh tế mà hội nhập quốc tế một cách chủ động, tích cực, toàn diện trên các lĩnh vực và khẳng định “Việt Nam là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế, góp phần vào sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới. Hợp tác bình đẳng, cùng có lợi với tất cả các nước trên cơ sở những nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên Hợp Quốc và luật pháp quốc tế”[6]. Cương lĩnh yêu cầu trong quá trình đổi mới đất nước phải nắm vững và giải quyết tốt 8 mối quan hệ lớn, trong đó có “quan hệ giữa độc lập tự chủ và hội nhập quốc tế”. Đại hội XII của Đảng đặt ra yêu cầu đưa hội nhập quốc tế đi vào chiều sâu, nâng cao hiệu quả hội nhập trên các lĩnh vực.

Thế nào là đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ

Từ các quan điểm, chủ trương của Đảng phát triển qua các kỳ Đại hội, đến nay, có thể khẳng định: Độc lập, tự chủ luôn là mục tiêu, nhiệm vụ chiến lược của đất nước. Hội nhập quốc tế là yêu cầu khách quan, tất yếu để phát triển đất nước trong thời đại toàn cầu hóa. Mục tiêu của hội nhập quốc tế là để tận dụng, phát huy sức mạnh của thời đại vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ độc lập, tự chủ của đất nước ta; nâng cao vị thế, uy tín, vai trò của đất nước tham gia vào giải quyết các vấn đề của khu vực và thế giới, đóng góp vào sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới. Phương châm hội nhập là chủ động, tích cực. Chủ động lựa chọn nội dung, bước đi, lĩnh vực, đối tác phù hợp với mục tiêu, chiến lược phát triển, với khả năng của đất nước và bối cảnh quốc tế; việc thực hiện phải tích cực để đạt hiệu quả cao. Hội nhập quốc tế toàn diện trên các lĩnh vực, nhưng hội nhập kinh tế là trọng tâm. Hội nhập phải trên cơ sở phát huy tối đa nội lực, phải là sự nghiệp của toàn dân, của cả hệ thống chính trị, cộng đồng doanh nghiệp. Bảo vệ, giữ vững độc lập, chủ quyền của đất nước phải là một mục tiêu, nguyên tắc, một tiêu chuẩn đánh giá hiệu quả hội nhập quốc tế.

Trong những năm qua, thực hiện chủ trương, quan điểm của Đảng, hội nhập quốc tế của đất nước ta đã được đẩy mạnh và đạt được nhiều kết quả tích cực. Đến nay, Việt Nam có quan hệ ngoại giao với 184 nước thuộc tất cả các châu lục, có quan hệ với tất cả các nước lớn, các ủy viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc; có quan hệ kinh tế, thương mại với 230 nước và vùng lãnh thổ, ký kết hơn 90 hiệp định thương mại song phương, đa phương, trong đó có nhiều hiệp định thương mại tự do thế hệ mới; gần 60 hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư. Việt Nam là thành viên Liên Hiệp Quốc, nhiều tổ chức quốc tế và khu vực, như Tổ chức thương mại thế giới (WTO), Ngân hàng thế giới (WB), Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), thành viên ASEAN, APEC, ASEM... Hội nhập quốc tế được mở rộng, phát triển tất cả trên các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng. Hội nhập kinh tế quốc tế đã giúp mở rộng thị trường, thu hút được lượng lớn vốn đầu tư, thành tựu khoa học, công nghệ mới và các nguồn lực quan trọng khác, đóng góp tích cực vào tăng trưởng, chuyển dịch cơ cấu, nâng cao trình độ của nền kinh tế, thu nhập, đời sống nhân dân. Hội nhập văn hóa, xã hội đã thúc đẩy mở rộng quan hệ hợp tác, phát triển giáo dục đào tạo, khoa học công nghệ của đất nước, quảng bá văn hóa Việt Nam ra thế giới và làm phong phú đời sống văn hóa đất nước bằng những sản phẩm, giá trị văn hóa của các nước trên thế giới. Hội nhập về chính trị, quốc phòng, an ninh tạo điều kiện cho xây dựng và tăng cường lòng tin giữa Việt Nam với các nước trong khu vực và trên thế giới, tranh thủ được sự ủng hộ quốc tế, góp phần vào duy trì môi trường hòa bình, củng cố, tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh của đất nước. Hội nhập quốc tế, do đó, đã góp phần quan trọng vào tăng cường, nâng cao sức mạnh tổng hợp, thế và lực, uy tín quốc tế của đất nước, yếu tố quyết định để bảo vệ, giữ vững độc lập, tự chủ của đất nước.

Bên cạnh những kết quả quan trọng đã đạt được, việc nhận thức và giải quyết mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế vẫn còn những hạn chế. Nhận thức về mối quan hệ này chưa đầy đủ, chưa thành ý thức thường trực ở các cấp, các ngành, các lĩnh vực; vẫn còn biểu hiện chỉ thấy lợi ích kinh tế trước mắt, còn không thấy về lâu dài sẽ ảnh hưởng độc lập, tự chủ của đất nước. Chất lượng, hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế chưa cao, chưa tận dụng và khai thác có hiệu quả các tiềm năng, cơ hội do hội nhập đem lại để phát triển đất nước nhanh, bền vững. Tình trạng xuất khẩu một số sản phẩm tập trung quá nhiều vào một thị trường; nhất là tình trạng nhập siêu, thâm hụt thương mại lớn, kéo dài với một đối tác, không được khắc phục mà vẫn tiếp tục gia tăng. Tình trạng thiếu chủ động, kịp thời sử dụng các biện pháp phòng vệ không trái với cam kết quốc tế để bảo vệ thị trường và sản xuất trong nước trước sự xâm nhập của các lực lượng kinh tế hùng mạnh từ các nước trên thế giới; để ngăn ngừa và giảm thiểu tác động tiêu cực đối với kinh tế đất nước do những biến động, cú sốc từ bên ngoài. Tình trạng không phải các doanh nghiệp trong nước là lực lượng nòng cốt, chủ lực mà doanh nghiệp FDI mới là lực lượng chủ lực trong hội nhập kinh tế của đất nước (đã chiếm trên 70% giá trị kim ngạch xuất khẩu, gần 70% giá trị sản xuất công nghiệp), trong khi doanh nghiệp FDI hầu như tách biệt với các doanh nghiệp trong nước, trở thành khu vực kinh tế biệt lập...

Thế nào là đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ

Trong những năm tới, trong bối cảnh tình hình chính trị, an ninh và kinh tế thế giới, khu vực thay đổi nhanh chóng, diễn biến phức tạp, cơ hội và thách thức đối với đất nước ta đều rất lớn. Hội nhập quốc tế phải tiếp tục được đẩy mạnh, nâng cao hiệu quả; độc lập tự chủ của đất nước phải tiếp tục được giữ vững, tăng cường. Trong bối cảnh đó, việc quán triệt và giải quyết tốt mối quan hệ giữa độc lập tự chủ và hội nhập quốc tế cùng có ý nghĩa quan trọng. Để bảo vệ độc lập, tự chủ của đất nước trong bối cảnh tiếp tục chủ động, tích cực hội nhập quốc tế đòi hỏi:

- Phải giữ vững độc lập, tự chủ trong việc xác định chủ trương, đường lối, chiến lược phát triển đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; phải không ngừng củng cố, tăng cường tiềm lực, nâng cao sức mạnh tổng hợp của đất nước cả về chính trị, kinh tế, quốc phòng, an ninh; nâng cao uy tín quốc tế; không ngừng củng cố, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc; phải bảo đảm an ninh, giữ vững ổn định chính trị, kinh tế, xã hội của đất nước, phát triển lực lượng doanh nghiệp Việt Nam lớn mạnh, thực sự là nòng cốt trong hội nhập kinh tế quốc tế.

- Hội nhập quốc tế trên các lĩnh vực cần phải theo một chiến lược hội nhập tổng thể với nhiều hình thức đa dạng, lộ trình, bước đi phải phù hợp với chiến lược, mục tiêu, năng lực của đất nước trong từng giai đoạn. Đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế, nhất là với các đối tác lớn, có vai trò và ý nghĩa chiến lược, tránh lệ thuộc vào một đối tác, một thị trường. Đổi mới, nâng cao hiệu quả thu hút đầu tư nước ngoài. Có những giải pháp hiệu quả ngăn ngừa, làm thất bại những âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch; chủ động xây dựng hệ thống phòng vệ để bảo vệ nền kinh tế, doanh nghiệp và thị trường trong nước trước những biến động phức tạp, tác động tiêu cực từ thị trường và kinh tế thế giới, không trái với các cam kết quốc tế đã ký kết...

PGS.TS Nguyễn Văn Thạo

Phó Chủ tịch HĐLLTW



[1] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội VI, Nxb. Sự thật, H, 1986, tr.81.

[2] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội VII, Nxb. Sự thật, H, 1991, tr.147.

[3] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội VIII, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 1996, tr.84.

[4] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội IX, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2001, tr.120.

[5] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội X, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2006, tr.112.

[6] Đảng Cộng sản Việt Nam: Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2011, tr.27-28.

Phải chăng chính sách đối ngoại giữ vững độc lập, tự chủ trong hội nhập quốc tế tại Đại hội XIII của Đảng chỉ là lý thuyết, phi thực tế ? ​

Ngày phát hành: 02/03/2021 Lượt xem 1505

Thế nào là đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ

Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng và các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước tham dự

Lễ khai mạc Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ 37_Ảnh: TTXVN

Sau 35 năm đổi mới Việt Nam đã thu được những thành tựu hết sức to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Kinh tế tăng trưởng cao và ổn định, đời sống của nhân dân không ngừng được cải thiện và nâng cao, quốc phòng, an ninh, chủ quyền đất nước được giữ vững. Cùng với quá trình đổi mới, Việt Nam đã hội nhập ngày càng sâu, rộng vào khu vực và toàn cầu. Những kết quả đạt được trong hội nhập quốc tế đã góp phần quan trọng vào những thành tựu chung của đất nước. Hội nhập quốc tế với nguyên tắc xuyên suốt là giữ vững độc lập, tự chủ và độc lập tự chủ là điều kiện quyết định để hội nhập quốc tế thành công. Trên thực tế, chính sách đối ngoại trước hết là vì lợi ích quốc gia, dân tộc là nguyên tắc xuyên suốt của đối ngoại Việt Nam. Đại hội XI trong phần đường lối đối ngoại đã nêu rõ mục tiêu đối ngoại là: “vì lợi ích quốc gia dân tộc, vì một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh”, đồng thời nguyên tắc độc lập tự chủ gắn với đoàn kết và hợp tác quốc tế. Đây là nguyên tắc cốt lõi, bảo đảm kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, phát huy nội lực, tranh thủ ngoại lực. Trong đó, độc lập, tự chủ, nội lực là cơ sở, nền tảng để bảo đảm hợp tác có hiệu quả với bên ngoài. Đại hội XII khẳng định: “Bảo đảm lợi ích tối cao của quốc gia - dân tộc, trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bình đẳng và cùng có lợi, thực hiện nhất quán đường lối độc lập tự chủ, hoà bình, hợp tác và phát triển; đa phương hoá, đa dạng hoá trong quan hệ đối ngoại; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế”[1]. Báo cáo chính trị tại Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh: “Tiếp tục nắm vững và xử lý tốt các quan hệ lớn: Quan hệ giữa ổn định, đổi mới và phát triển; giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị;…giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế”[2].

Tuy nhiên, các quan điểm sai trái của các thế lực thù địch chống phá Đảng nói chung, trong các kỳ Đại hội Đảng nói riêng đã cố tình xuyên tạc bằng các luận điệu khác nhau. Đại hội XIII của Đảng đã thành công rất tốt đẹp nhưng các thế lực thù địch vẫn đưa ra rất nhiều luận điệu sai trái nhằm xuyên tạc đường lối của Đảng, tạo ra sự nghi ngờ trong nhân dân về con đường mà chúng ta đang thực hiện. Cụ thể, về lĩnh vực này chúng cho rằng chính sách đối ngoại giữ vững độc lập, tự chủ trong hội nhập quốc tế tại Đại hội XIII của Đảng là lý thuyết, phi thực tế. Chúng cho rằng không thể có độc lập tự chủ trong hội nhập quốc tế được, đã độc lập, tự chủ thì không thể hội nhập quốc tế và ngược lại, đã hội nhập quốc tế thì không thể có độc lập, tự chủ. Đồng thời chúng còn cho rằng thể chế chính trị của Việt Nam là khác biệt, không phù hợp với chuẩn mực chung của quốc tế, với một Đảng duy nhất cầm quyền càng không thể hội nhập quốc tế.

Nhìn lại lịch sử phát triển chính sách đối ngoại của nước ta, đặc biệt những thành tựu sau 35 năm đổi mới, cả trên phương diện lý luận và thực tiễn sẽ là những luận cứ xác đáng để phản bác những quan điểm sai trái đó.

  1. Về mặt lý luận và đường lối của Đảng trong lĩnh vực đối ngoại

Độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế là mối quan hệ biện chứng, tất yếu, khách quan, tác động qua lại lẫn nhau, thúc đẩy và hỗ trợ lẫn nhau. Mỗi quốc gia phải có độc lập, tự chủ mới có thể chủ động hội nhập quốc tế và như vậy hội nhập quốc tế mới đem lại hiệu quả và thành công. Đặc biệt, trong bối cảnh toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế phát triển mạnh mẽ như hiện nay, không có quốc gia nào có thể đứng ngoài, tự cô lập mà phát triển được. Hội nhập quốc tế là yêu cầu tất yếu, khách quan để phát triển đối với mọi quốc gia, dù lớn hay nhỏ. Có độc lập tự chủ mới có thể chủ động tham gia, lựa chọn sự tham gia để đáp ứng được lợi ích quốc gia dân tộc của mình. Ngược lại, đất nước không thể phát triển tốt, phát huy được tiềm năng và lợi thế so sánh, phát huy nội lực, tranh thủ nguồn lực bên ngoài nếu không có quan hệ hợp tác sâu rộng với quốc quốc tế. Nói tóm lại, độc lập, tự chủ là tiền đề, là điều kiện để hội nhập quốc tế và hội nhập quốc tế tạo điều kiện cho đất nước phát triển tốt hơn, có điều kiện bảo đảm cho độc lập tự chủ. Hội nhập quốc tế còn tạo ra môi trường hoà bình, ổn định cho phát triển.

Trong cương lĩnh và văn kiện của Đảng ta mối quan hệ biện chứng giữa độc lập tự chủ và hội nhập quốc tế được thể hiện rất rõ. Đây chính là cơ sở để phát triển chính sách đối ngoại Việt Nam trong suốt những năm đổi mới vừa qua. Một trong các bài học được rút ra trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) đã chỉ rõ mối quan hệ này, cụ thể là: “Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế, trong bất cứ hoàn cảnh nào cần kiên định ý chí độc lập, tự chủ và nêu cao tinh thần hợp tác quốc tế, phát huy cao độ nội lực, đồng thời tranh thủ ngoại lực”[3]. Trong phần những định hướng lớn về phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại cương lĩnh cũng nêu rõ: “Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, hoà bình, hợp tác và phát triển; đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; nâng cao vị thế của đất nước; vì lợi ích quốc gia dân tộc, vì một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh; là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, góp phần vào sự nghiệp hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới”[4].

Rõ ràng mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế được thể hiện rất cụ thể trong cương lĩnh của Đảng, mối quan hệ này còn được thể hiện trong các nội dung của chính sách đối ngoại nói chung và được cụ thể hoá nội hàm của nó trong từng nội dung và điều kiện cụ thể. Đây là cơ sở, nền tảng xây dựng chính sách đối ngoại của đất nước chúng ta trong suốt những năm sau này.

Trong Báo cáo chính trị Đại hội XI của Đảng cũng nêu rõ đường lối đối ngoại của Việt Nam thể hiện mối quan hệ biện chứng giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế, nội dung cần thực hiện: “Thực hiện đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, hoà bình hợp tác và phát triển, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế”… “Đặc biệt, chú trọng xử lý và giải quyết tốt các mối quan hệ lớn: quan hệ giữa đổi mới, ổn định và phát triển… giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế”[5]. Trong các văn kiện Đại hội XII, XIII đều tiếp tục khẳng định những nội dung nêu trên, cụ thể hoá mối quan hệ độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế cho từng thời kỳ phát triển của đất nước. Trong Báo cáo chính trị Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh: “Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình hữu nghị, hợp tác và phát triển, đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ đối ngoại. Bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác cùng có lợi. Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng; Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy và là thành viên tích cực, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế”[6]. Đồng thời, Báo cáo chính trị cũng nhấn mạnh bảo đảm sự lãnh đạo, chỉ đạo thống nhất của Đảng và sự quản lý tập trung của nhà nước với các hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế. Đẩy mạnh đối ngoại song phương với nâng tầm đối ngoại đa phương. Chủ động tham gia và phát huy vai trò của Việt Nam tại các cơ chế đa phương, đặc biệt là ASEAN, Liên hợp quốc, APEC, hợp tác tiểu vùng Mê Công và các khuôn khổ hợp tác khu vực và quốc tế, trong những vấn đề và các cơ chế quan trọng có tầm chiến lược, phù hợp với yêu cầu, khả năng và điều kiện cụ thể. Đẩy mạnh và làm sâu sắc hơn quan hệ hợp tác song phương với các đối tác, đặc biệt là với các đối tác chiến lược, đối tác toàn diện và các đối tác quan trọng khác, tạo thế đan xen lợi ích và gia tăng độ tin cậy. Chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, giải quyết tốt mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng, linh hoạt, hiệu quả vì lợi ích quốc gia - dân tộc, bảo đảm độc lập, tự chủ, chủ quyền quốc gia.

Nói tóm lại, trong đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng ta thể hiện qua cương lĩnh và các văn kiện, Nghị quyết của Đảng đều thể hiện quan điểm chỉ đạo xuyên suốt trong chính sách đối ngoại của Đảng là mối quan hệ biện chứng giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế. Mối quan hệ này được cụ thể hoá qua từng giai đoạn phát triển của đất nước, phù hợp điều kiện, bối cảnh phát triển cụ thể trên cơ sở của nguyên tắc lấy lợi ích quốc gia dân tộc là trên hết, bảo đảm hội nhập quốc tế luôn dựa trên nguyên tắc giữ vững độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, hội nhập vì lợi ích đất nước, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ và văn minh. Quá trình này cũng thể hiện sự phát triển của cả nhận thực và thực tiễn từ chú trọng hội nhập kinh tế đến hội nhập toàn diện trên tất cả các lĩnh vực, trong đó hội nhập kinh tế là trọng tâm, hội nhập trên các lĩnh vực khác là điều kiện và hỗ trợ cho hội nhập kinh tế. Từ hội nhập đơn tuyến sang đa tuyến trên tất cả các cấp độ song phương, khu vực và toàn cầu.

Thế nào là đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ

Ủy viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc, Chủ tịch ASEAN 2020 chứng kiến Lễ ký

Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP)_Ảnh: TTXVN

2. Thực tiễn và kết quả thực hiện chính sách đối ngoại độc lập tự chủ trong hội nhập quốc tế của Đảng và nhà nước ta

Từ khi tiến hành công cuộc đổi mới đến nay Việt Nam đã hội nhập ngày càng sâu rộng vào khu vực và thế giới. Quá trình này đã thu được những kết quả hết sức to lớn, góp phần quan trọng vào những thành tựu to lớn trong công cuộc đổi mới. Điều đó cho thấy chủ trương đúng đắn, chủ động tích cực hội nhập quốc tế của Đảng và nhà nước ta. Trong quá trình triển khai chính sách đối ngoại với mục tiêu bảo đảm lợi ích tối cao của quốc gia dân tộc, trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bình đẳng và cùng có lợi. Mối quan hệ giữa độc lập tự chủ và hội nhập quốc tế được quán triệt xuyên suốt trong mọi chính sách và hành động. Kết quả là ta đã từng bước hội nhập một cách sâu rộng vào khu vực và thế giới. Năm 1990 Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với Liên minh châu Âu, năm 1995 chúng ta đã bình thường hoá quan hệ với Mỹ, gia nhập ASEAN, ký Hiệp định khung hợp tác với Liên minh châu Âu và làm đơn gia nhập tổ chức thương mại thế giới. Năm 2000, Việt Nam ký Hiệp định thương mại song phương với Hoa Kỳ. Việc ký Hiệp định này có ý nghĩa hết sức quan trọng , tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển đầu tư, thương mại và tang trưởng của nền kinh tế nước ta. Đến năm 2007 Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên của tổ chức thương mại thế giới. Cùng với quá trình hội nhập khu vực và toàn cầu Việt Nam cũng đã tăng cường hợp tác song phương, triển khai mạnh mẽ quan hệ hợp tác với các đối tác quan trọng, nhất là xây dựng khuôn khổ đối tác chiến lược và đối tác toàn diện. Năm 2001 ta đã thiết lập quan hệ đối tác chiến lược đầu tiên với Nga, với Ấn Độ năm 2007, với Trung Quốc ta thiết lập quan hệ đối tác chiến lược toàn diện năm 2008, với Nhật Bản, Tây Ban Nha và Hàn Quốc năm 2009, với Anh năm 2010 và cũng trong năm này ta ký với Hà Lan đối tác chiến lược theo lĩnh vực biến đổi khí hậu và năm 2014 ta ký bổ sung đối tác chiến lược với Hà Lan trong lĩnh vực nông nghiêp, an ninh lương thực, với Đức năm 2011 và với Đan Mạch đối tác chiến lược trong lĩnh vực biến đổi khí hậu, tăng trưởng xanh, môi trường, năm 2012 ta ký với Nga đối tác chiến lược toàn diện, với Indonesia, Singapore, Thái Lan, Pháp, Italia năm 2013, năm 2014 ta ký với Nhật Bản Hiệp định đối tác chiến lược sâu rộng với Malaysia và Philipines năm 2015, năm 2016 ta ký với Ấn Độ đối tác chiến lược toàn diện, với Austraylia năm 2018. Ngoài ra, ta ký Hiệp định đối tác toàn diện với một loạt nước: năm 2004 hợp tác phát triển với Nam Phi, 2005, Hợp tác nhiều mặt với Mỹ, 2007 đối tác toàn diện với Vênzuela, Chile, Brazil, 2009 với New Zealand, 2010 với Argentina, 2011 với Ucraina, 2013 quan hệ đối tác toàn diện với Mỹ và năm 2017 với Myanmar và Canada. Nhìn chung, các đối tác chiến lược và đối tác toàn diện mà Việt nam ký kết đều là những đối tác quan trọng với lợi ích cả về kinh tế, chính trị và đối ngoại nói chung. Việt Nam là nước duy nhất trong ASEAN đã thiết lập khuôn khổ đối tác chiến lược và đối tác chiến lược toàn diện với toàn bộ 5 nước thành viên Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, toàn bộ nhóm nước G7 và 13/20 nước G20 và 8/9 nước trong ASEAN. Các đối tác này chiếm 8/10 thị trường xuất khẩu chính, với 60,7% tổng giá trị xuất khẩu; 9/10 thị trường nhập khẩu chính với 74,7% tổng giá trị nhập khẩu, 76,7% tổng lượng khách du lịch; đóng góp 74%tổng vốn đầu tư nước ngoài tại Việt nam. Trên cơ sở quan hệ đối tác chiến lược và đối tác toàn diện đã ký kết đã góp phần củng cố môi trường hoà bình, hữu nghị hợp tác với các đối tác quan trọng, đặc biệt là với các nước lớn, với các nước láng giềng chung biên giới. Đồng thời, việc thiết lập quan hệ đối tác với các nước lớn, có vai trò quan trọng góp phần giúp chúng ta xử lý tốt quan hệ với các nước lớn, đưa hợp tác trở thành chủ đạo, đồng thời tạo cơ chế và kênh trao đổi giảm thiểu sự khác biệt trong quan hệ với các nước này, tạo điều kiện để tăng cường lòng tin. Thông qua các quan hệ song phương đã được thiết lập đã tạo ra sự đan xen lợi ích, giúp chúng ta tranh thủ được nguồn lực quốc tế để phát triển đất nước. Ngoài ra, thông qua các đối tác quan trọng này đã góp phần nâng cao vị thế của đất nước trên trường quốc tế, thể hiện thông qua vị trí của ta trong chính sách đối ngoại của các nước cũng như trong các khuôn khổ hợp tác đa phương. Kết quả hội nhập quốc tế của đất nước được thể hiện trên các lĩnh vực cụ thể sau đây:

Về hội nhập kinh tế quốc tế.

Hội nhập kinh tế quốc tế là cơ sở để hội nhập toàn diện trên các lĩnh vực khác. Trong lĩnh vực này chúng ta đã đạt được rất nhiều thành tựu quan trọng. Trên thực tế hội nhập kinh tế quốc tế đã góp phần quan trọng cho sự phát triển nhanh và ổn định của đất nước trong suốt những năm đổi mới vừa qua. Chúng ta đã thúc đẩy xuất nhập khẩu, thu hút đầu tư nước ngoài, thu hút công nghệ và phương pháp quản trị mới, hiện đại.

Đến nay, hội nhập kinh tế quốc tế đã phát triển cả về chiều rộng và chiều sâu và đạt được nhiều kết quả quan trọng. Độ mở của nền kinh tế nước ta hiện nay vào loại cao nhất thế giới với tỷ trọng xuất khẩu trên GDP là hơn 200%. Việt Nam đã tham gia vào hầu hết các hiệp định đa phương thế hệ mới. Cụ thể Việt Nam đã ký kết 16 hiệp định thương mại tự do (FTA), trong đó có nhiều FTA thế hệ mới. Tháng 3 năm 2018 chúng ta đã chính thức ký kết và phê chuẩn hiệp định Đối tác toàn diện tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), năm 2020 có 3 Hiệp định quan trọng được ký kết và đưa vào thực thi là Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam- Liên minh Châu Âu (EVFTA), Hiệp định đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực (RCEP), và Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam- Anh (UKVFTA). Với các kết quả hội nhập kinh tế sâu, rộng như vậy đã tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp của Việt Nam mở rộng thị trường, kết nối và tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị và mạng lưới sản xuất toàn cầu. Rõ ràng, hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam đang chuyển sang giai đoạn phát triển mới cả về chiều rộng, chiều sâu và toàn diện. Với những Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới vừa được ký kết có tính toàn diện, quy mô rộng, mức độ cam kết cao, điều chỉnh toàn bộ các lĩnh vực, trong đó bao hàm nhiều nội dung mới như thương mại điện tử, phát triển bền vững, các biện pháp sau biên giới, đồng bộ chính sách, giải quyết chính sách giữa nhà đầu tư và nhà nước đem lại rất nhiều cơ hội cho phát triển, đồng thời đòi hỏi những nỗ lực trong nước rất cao để có thể đem lại kết quả như mong muốn. Thông qua hội nhập quốc tế, kim ngạch xuất khẩu của nền kinh tế nước ta tăng rất nhanh, từ 1,74 tỷ USD năm 1986 lên 10 tỷ USD năm 1996, 45 tỷ USD năm 2006 và 287,8 tỷ USD năm 2020[7]. Hội nhập kinh tế quốc tế đã góp phần phát huy nội lực, tranh thủ được nguồn lực nước ngoài, đặc biệt là công nghệ và quản trị hiện đại. Thông qua hội nhập quốc tế ta đã thu hút được lượng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài lớn, góp phần bổ sung nguồn lực trong nước. Nguồn vốn FDI thu hút vào nước ta tăng rất nhanh, từ 428,5 triệu USD năm 1991 lên 4 tỷ USD năm 2006 và 20 tỷ USD năm 2020[8]. Năm 2020 đã có 112 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư tại Việt Nam, trong đó, dẫn đầu là Singapore, Hàn Quốc, Trung Quốc và Nhật Bản. Đồng thời, hội nhập quốc tế cũng là áp lực giúp đẩy mạnh cải cách mạnh mẽ trong nước để bảo đảm điều kiện hội nhập thành công và hiệu quả. Hội nhập kinh tế quốc tế đã góp phần tạo ra tốc độ tăng trưởng cao của Việt Nam, góp phần đưa kim ngạch xuất nhập khẩu tăng liên tục trong nhiều năm qua, góp phần chuyển dịch cơ cấu xuất nhập khẩu theo hướng chất lượng hơn. Tuy nhiên, quá trình đổi mới, hội nhập quốc tế cũng cho thấy cần phải giải quyết tốt mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế. Đặc biệt, qua những cuộc khủng hoảng, hoặc những biến động của thế giới cho thấy để hội nhập thành công phải có nội lực mạnh, đồng thời phải đa phương hoá, đa dạng hoá các đối tác, các thị trường để tránh những rủi ro và lệ thuộc. Kinh nghiệm thu hút đầu tư nước ngoài cũng cho thấy cần phải nhận thức sâu sắc hiệu quả của thu hút đầu tư, nhất là giai đoạn hiện nay, phải bảo đảm thu hút được công nghệ cao, công nghệ sạch và làm tốt việc chuyển giao công nghệ cũng như gắn kết giữa doanh nghiệp trong nước với doanh nghiệp đầu tư nước ngoài.

Hội nhập quốc tế trong lĩnh vực chính trị.

Hội nhập quốc tế về chính trị được thực hiện tương đối nhanh, sâu rộng. Chính sách đối ngoại đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ đối ngoại, Việt Nam là bạn là đối tác tin cậy, là thành viên tích cực và có trách nhiệm đã tạo ra sự phát triển mạnh mẽ hội nhập của Việt Nam với các đối tác, nhất là các đối tác chiến lược. Từ một nước bị bao vây cấm vận với chính sách đối ngoại đúng đắn, giải quyết tốt mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế Việt Nam đã nhanh chóng thiết lập quan hệ hợp tác với các nước và các tổ chức quốc tế và khu vực quan trọng. Chúng ta đã thiết lập quan hệ ngoại giao với hầu hết các nước trên thế giới. Trên nguyên tắc tôn trọng độc lập chủ quyền, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau. Đồng thời, chúng ta đã chủ động tham gia và phát huy vai trò tại các cơ chế đa phương, đặc biệt là ASEAN, Liên hợp quốc và các tổ chức khu vực quan trọng. Hợp tác đa phương theo phương châm chủ động, tích cực tham gia, nhất là vào quá trình xây dựng và định hình các quy tắc và luật lệ mới, phát huy vai trò của Việt Nam tại các cơ chế đa phương. Việc tham gia các cơ chế đa phương một cách tích cực chủ động là để trực tiếp bảo đảm các lợi ích an ninh, phát triển và vị thế của đất nước. Năm 2020 Việt Nam với vai trò là Chủ tịch ASEAN và là Uỷ viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc Việt Nam đã thể hiện rất tốt vai trò của mình, có đóng góp quan trọng vào sự phát triển chung của khu vực và thế giới. Với thế và lực trong nước tăng lên cùng với chính sách đối ngoại chủ động, tích cực và hiệu quả vị thế của Việt Nam được nâng cao trên trường quốc tế. Như Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng thường nói chưa bao giờ chúng ta có được vị thế quốc tế như ngày hôm nay.

Hội nhập trong lĩnh vực văn hoá xã hội.

Cùng với sự hội nhập nhanh, sâu rộng và toàn diện trong lĩnh vực kinh tế, hội nhập quốc tế trong lĩnh vực văn hoá - xã hội cũng có những bước phát triển quan trọng. Hội nhập với tốc độ cao hơn, toàn diện hơn, đa dạng về hình thức, phương thức, đối tác và chất lượng hội nhập ngày càng nâng cao. Việt Nam đã ký hơn 100 thoả thuận, điều ước quốc tế song phương có nội dung văn hoá, đã thu hút bạn bè quốc tế đến với việt Nam ngày càng nhiều. Các hình thức giao lưu văn hoá, phim ảnh, thời trang…của Việt Nam với quốc tế ngày càng nhiều. Thông qua hội nhập văn hoá cũng là cơ hội để Việt Nam quảng bá đất nước, con người, văn hoá Việt Nam và tiếp thu giá trị văn hoá các nước. Nhờ có hội nhập mạnh mẽ về văn hoá mà bạn bè quốc tế đến Việt Nam ngày càng nhiều. Trong suốt nhiều năm vừa qua, khách du lịch đến Việt Nam đều tăng với tốc độ cao, góp phần cả về phát triển kinh tế và văn hoá, xã hội. Cũng từ thành công của hội nhập trong lĩnh vực này đưa tới việc hình thành nhiều dự án, nhiều công trình văn hoá tại Việt Nam với quy mô ngày càng được mở rộng, tạo điều kiện để nhân dân ta có cơ hội tiếp cận và thưởng thức những giá trị văn hoá tiêu biểu của nhiều quốc gia trên thế giới, từ đó thúc đâỷ tiềm năng sáng tạo của nhân dân và khuyến khích giao lưu với cộng đồng quốc tế. Nguồn lực và động lực về văn hoá- xã hội được tăng cường sẽ là yếu tố quan trọng để chúng ta giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc Việt Nam. Đồng thời, hội nhập quốc tế cũng tạo công ăn việc làm, góp phần giảm nghèo bền vững ở Việt Nam. Sau 35 năm đổi mới và hội nhập, tỷ lệ nghèo giảm mạnh. Theo số liệu thống kê, tỷ lệ nghèo giảm mạnh từ gần 60% vào năm 1993 xuống còn 37,4% năm 1998, xuống còn `13,4% năm 2008 và đến năm 2016 chỉ còn 5,8%.

Hội nhập trong lĩnh vực quốc phòng - an ninh.

Thực hiện chính sách hội nhập quốc tế toàn diện, hội nhập quốc tế trong lĩnh vực quốc phòng an ninh của chúng ta thời gian qua cũng không ngừng được phát triển và mở rộng. Hội nhập quốc phòng - an ninh vừa phục vụ cho sự nghiệp phát triển đất nước vừa góp phần bảo vệ độc lập, tự chủ, chủ quyền quốc gia trong bối cảnh mới. Việt Nam đã chuyển từ chủ trương tham dự, sang phát huy vai trò thành viên có trách nhiệm trên nhiều diễn đàn khu vực và toàn cầu. Nội dung hội nhập quốc tế để giữ nước từ xa, từ sớm, giữ nước từ khi “nước còn chưa nguy”. Việt Nam đã từng bước mở rộng hợp tác quốc phòng - an ninh với các nước lớn và các nước trong khu vực. Việt Nam đã đẩy mạnh thực hiện các cơ chế đối thoại Quốc phòng - An ninh, giao lưu biên phòng với các nước láng giềng như Trung Quốc, Lào, Cămpuchia, trao đổi hữu nghị của tàu hải quân được đẩy mạnh. Đến nay, Việt Nam đã có quan hệ quốc phòng chính thức với gần 70 nước, đặt văn phòng tuỳ viên quân sự tại hơn 30 nước và hơn 40 nước có văn phòng tuỳ viên quân sự tại Việt Nam. Việt Nam cũng đã tham gia tích cực vào các diễn đàn an ninh quốc phòng khu vực và từng bước tham gia vào các hoạt động hợp tác quốc tế về an ninh quân sự toàn cầu. Việt Nam đã hợp tác huấn luyện đào tạo với Nga và Austrâylia, Ấn Độ, hợp tác điều tra và hợp tác trong khuôn khổ Tổ chức cảnh sát quốc tế (INTERPOL) với Nhật Bản, Hàn Quốc…Việt Nam cũng đã tham gia các hoạt động gìn giữ hoà bình của Liên hợp quốc. Việt Nam đã gửi các sỹ quan thông tin đến các Phái bộ gìn giữ hoà bình của Liên hợp quốc tại Cộng hoà Trung Phi, Nam Xu Đăng và tiếp theo đó đã triển khai các bệnh viện dã chiến cấp 2 và công binh. Như vậy, Việt Nam không chỉ giữ vững độc lập chủ quyền của Tổ quốc mà còn chủ động, tích cực đóng góp vào việc duy trì hoà bình, an ninh quốc tế.

Tóm lại, Chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ trong hội nhập quốc tế là chính sách nhất quán trong đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta. Về mặt lý luận đây là mối quan hệ biện chứng, tất yếu, khách quan, bất kỳ quốc gia nào muốn hội nhập quốc tế thành công đều phải vận dụng hợp lý mối quan hệ này. Chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta trong suốt những năm đổi mới vừa qua đã thể hiện nhất quán và từng bước cụ thể nội dung của chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ trong hội nhập quốc tế cho từng giai đoạn phù hợp với bối cảnh nhất định. Đó cũng là quá trình phát triển quan hệ đối ngoại và hội nhập quốc tế của Việt Nam. Thực tiễn triển khai và kết quả đạt được sau 35 năm đổi mới cho thấy chính sách đối ngoại trên là hoàn toàn đúng đắn và khoa học. Hội nhập quốc tế của Việt nam đã phát triển nhanh chóng cả về chiều rộng và chiều sâu. Đến nay việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với hầu hết các nước trên thế giới, xây dựng đối tác chiến lược và đối tác toàn diện với nhều nước, trong đó có nhiều nước lớn, có vị trí và tầm ảnh hưởng quan trọng của thế giới và khu vực. Việt Nam cũng tham gia vào hầu hết các tổ chức quốc tế và khu vực quan trọng và thực sự có nhiều đóng góp quan trọng và có trách nhiệm trong những tổ chức này. Quá trình đó, Việt Nam cũng đã từng bước hội nhập toàn diện trên tất cả các lĩnh vực như chính trị, kinh tế, văn hoá - xã hội và quốc phòng - an ninh. Trong đó hội nhập kinh tế là nòng cốt, là cơ sở, hội nhập trong các lĩnh vực khác là toàn diện và bổ sung cho hội nhập kinh tế quốc tế. Hội nhập quốc tế đã góp phần quan trọng vào những thành tựu to lớn có ý lịch sử của đất nước trong 35 đổi mới vừa qua. Những thành tựu to lớn trong hội nhập quốc tế nói riêng, trong công cuộc đổi mứi của Việt Nam nói chung thực sự là những luận cứ xác đáng nhất để bác bỏ những luận điệu sai trái, thù địch về lĩnh vực này.

GS.TS. Nguyễn Quang Thuấn

Phó Chủ tịch Hội đồng Lý luận TW




[1] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội , Đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội, 2016, tr. 153.

[2] Đảng Cộng sản Việt Nam: Báo cáo chính trị Đại hội XIII, tr. 31

[3]Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ XI. Nxb. Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 66.

[4] Như đã dẫn, tr. 83, 84

[5] Như đã dẫn, tr. 187.

[6] Đảng Cộng sản Việt Nam: Báo cáo chính trị Đại hội Đảng XIII, tr. 49.

[7] Nguồn Tổng cục Thống kê

[8] Nguồn Tổng cục Thống kê