Thực trạng về tình yêu tuổi học trò

Để chuẩn bị nội dung cho tiết sinh hoạt theo chủ đề, giờ sinh hoạt tuần trước đó, cô giáo chủ nhiệm đã giao nhiệm vụ cho tổ 1 thực hiện chủ đề “Tình yêu tuổi học trò”. Sau khi nhận nhiệm vụ, các thành viên trong tổ đã cùng nhau bàn bạc, lựa chọn nội dung, lên kế hoạch, phân chia nội dung công việc cho từng thành viên trong tổ và cùng nhau làm phần mềm trình chiếu Power point để trình bày trong giờ sinh hoạt thực hiện chủ đề.

Giờ sinh hoạt chủ đề có sự tham gia của cô giáo chủ nhiệm Nguyễn Thu Lý và 39 các bạn học sinh trong lớp 10A1. Sau phần giới thiệu của MC Vũ Thị Phượng – đại diện tổ 1 trình bày kết quả tìm hiểu về Chủ đề: “Tình yêu của tuổi học trò”.

Thực trạng về tình yêu tuổi học trò

Thực trạng về tình yêu tuổi học trò

Thực trạng về tình yêu tuổi học trò
Bạn Vũ Thị Phượng trình bày kết quả tìm hiểu chủ đề trước lớp
 

Các bạn tổ 1 đưa ra câu hỏi và gợi ý trả lời về chủ đề “Tình yêu tuổi học trò” bằng kết quả khảo sát cụ thể:

Câu hỏi 1: Tình yêu là gì?

- Tình yêu là hành động quan tâm, chăm sóc và lo lắng… dành cho một người nào đó mà bạn yêu thương và mong muốn mang lại thật nhiều hạnh phúc đến cuộc sống của họ.

Câu hỏi 2: Thế nào là tình yêu tuổi học trò?

- Tình yêu tuổi học trò: trong sáng, hồn nhiên và đơn giản.

- Một tình yêu ngộ nghĩnh với những biểu hiện chân thành, là những rung cảm đầu đời dành cho một người khác giới.

- Tình yêu học trò đơn giản là chờ nhau đi học, cùng nhau ăn vặt, cùng nhau dạo chơi,…

Câu hỏi 3:  Ý nghĩa của tình yêu tuổi học trò?

a. Tích cực:

- Về tâm lí:

+ Giúp hoàn thiện tâm lí bản thân, sống thật với cảm xúc.

+ Giúp con người trở nên vị tha, thấu hiểu và đồng cảm hơn.

+ Giúp chúng ta có một lối sống tích cực và biết suy nghĩ hơn.

- Về học tập:

+ Giúp giải tỏa phiền muộn và bớt căng thẳng trong học tập.

+ Giúp đỡ nhau trong học tập.

+ Có một người bạn tri kỉ, chia sẻ và thấu hiểu mọi chuyện buồn vui.

b. Hạn chế:

- Ở lứa tuổi học trò chưa đủ chín chắn và trưởng thành để nhận thức về tình yêu.

- Nếu không có suy nghĩ đúng đắn sẽ có những lệch lạc và phản ứng tiêu cực.

Câu hỏi 4: Tại sao chúng ta lại nảy sinh tình yêu tuổi học trò?

a. Nguyên nhân chủ quan

- Học sinh trung học đang ở lứa tuổi phát triển và thay đổi về tâm sinh lý.

- Nhận thức chưa đúng đắn về tình yêu: yêu theo phong trào, yêu để giải trí, yêu để lợi dụng…

b. Nguyên nhân khách quan

- Do gia đình chưa quan tâm đến con cái; chưa có những biện pháp tích cực, cụ thể và hiệu quả để định hướng và tác động đến nhận thức của các bạn…

Câu hỏi 5: Phụ huynh cần nhìn nhận về tình yêu tuổi học trò như thế nào?

+ Cần nhận thức được đây là tâm lý tuổi mới lớn của mỗi con người.

+ Phụ huynh cần trở thành một người bạn của con cái, để chia sẻ, lắng nghe và định hướng cho con những gì tốt nhất. Chứ không phải áp đặt, phản đối và tức giận với con, điều đó chỉ làm cho mọi thứ thêm tồi tệ.

Sau phần trình bày rõ ràng, thuyết phục của bạn Phượng - đại  diện  tổ 1 đưa ra, các thành viên trong lớp đều tỏ ra phấn khởi, hài lòng.

Nhưng có lẽ phần sôi nổi, hấp dẫn nhất của tiết sinh hoạt là các thành viên trong tập thể được nói lên những suy nghĩ, ý kiến của mình về câu hỏi mà các bạn tổ 1 thảo luận trước lớp: “Theo bạn, nên yêu hay không yêu ở lứa tuổi còn là học sinh?”

Bạn Nguyễn Tuấn Anh Đài cho rằng: “Tình yêu tuổi học trò thì không nên vì tình yêu rất khó đoán, khó giữ được lâu dài và ảnh hưởng đến học tập.”

Thực trạng về tình yêu tuổi học trò

Bạn Nguyễn Trung Nam bộc lộ quan điểm: “Mình nghĩ là nên bởi theo mình đó cũng là một kỉ niệm đáng nhớ trong tuổi học trò, không phải cứ khi yêu vào là sẽ học kém đi, chất lượng học tập giảm sút, nhờ tình yêu sẽ giúp nhau tiến bộ trong học tập”.

Thực trạng về tình yêu tuổi học trò

Là một cán sự lớp, bạn Bùi Tuấn Hưng cũng bày tỏ ý kiến của mình: “Về vấn đề nên hay không nên thì tùy thuộc vào mỗi người, nếu cảm thấy mình ý thức được, mình nghiêm túc và mình coi đó là một động lực để học hành, để phấn đấu thì mình nên yêu. Còn nếu mình chỉ yêu cho bằng bạn bằng bè và yêu theo phong trào thì mình không nên yêu vì có thể ảnh hưởng tới cả hai.”

Thực trạng về tình yêu tuổi học trò

Còn bạn Nguyễn Ngọc Sáng lại cho rằng: “Mình nghĩ là không nên yêu tuổi học trò vì tuổi học trò chưa đủ trưởng thành để nhận thức được tình yêu, do đó sẽ ảnh hưởng tới học tập.”

Thực trạng về tình yêu tuổi học trò

Bạn Nguyễn Thị Phương Thảo - lớp phó văn thể mỹ của lớp 10A1 nêu quan điểm rằng: “Mình nghĩ là không nên yêu bởi là con người ai cũng có cảm xúc nhưng khi ta đủ thông minh sẽ cân bằng được cảm xúc ấy. Đúng là yêu có hai mặt nhưng hầu như sẽ theo hướng tiêu cực vì khi yêu chúng ta sẽ gặp phải rất nhiều rắc rối như: ghen tuông, cãi vã, giận hờn… khi đó chúng ta sẽ không cân bằng được việc học, mất tập trung, dẫn đến sự suy sụp tinh thần.”

Thực trạng về tình yêu tuổi học trò

Tiết sinh hoạt khép lại với lời nhắn nhủ của cô giáo chủ nhiệm: cô mong các em nên cân nhắc thật kĩ trước khi đến với tình yêu ở tuổi học trò; phải xác định rõ mục tiêu học tập trong những năm học THPT, và nếu có tình yêu ở tuổi học trò thì phải biết cân bằng giữa việc học với việc yêu, không để tình yêu ảnh hưởng tới việc học; nếu không sẽ ảnh hưởng không tốt tới tương lai của các em.

Giờ sinh hoạt về chủ đề “Tình yêu tuổi học trò” đã mang đến cho các bạn học sinh trong lớp những hiểu biết về tình yêu, những mặt tích cực và hạn chế khi yêu ở tuổi học trò… Qua việc chia sẻ một cách chân tình những suy nghĩ của các thành viên trong lớp, mỗi bạn sẽ tự rút ra cho mình những bài học bổ ích và lựa chọn cho mình một cách ứng xử thông minh nếu như đến với tình yêu tuổi học trò để không mắc sai lầm và gây ra những hậu quả đáng tiếc.

Bài và ảnh: Lớp 10A1

Lứa tuổi này vẫn đang trong giai đoạn trẻ học tập ở nhà trường nhưng rất dễ bị ảnh hưởng những điều xấu từ xã hội. Những điều đáng lo ngại nhất cho mỗi gia đình có trẻ vị thành niên có thể kể ra những lo ngại nổi bật nhất:

1. Quan hệ yêu đương sớm:

Nguyên nhân và hậu quả: Trẻ vị thành niên có trí tuệ, thân thể phát triển nhanh hơn, thêm vào đó là với lượng thông tin về tình cảm lứa đôi và giới tính (có thông tin có lợi nhưng cũng có rất nhiều thông tin không lành mạnh)…, là nguyên nhân dẫn đến việc trẻ thích khám phá, tìm tòi tri thức về đặc điểm bạn khác giới, tình cảm đối với bạn khác giới, tìm hiểu về sự phát triển của cơ thể bản thân. Bởi vậy một số học sinh bậc trung học cơ sở, trung học phổ thông tự ngộ nhận mình đang yêu. Tình yêu ở "tuổi học trò" xuất hiện.

Trẻ vị thành niên nói chung, học sinh bậc trung học nói riêng yêu sớm là vấn đề khiến các bậc cha mẹ và thầy cô cảm thấy không yên tâm. Trong lớp học hay ở nhà, các em "đang yêu" có biểu hiện bề ngoài rất yêu đời, hay hát những bài hát có những ca từ ca ngợi tình yêu đôi lứa, hay mơ mộng, thích làm đẹp và "không thích" học tập nữa. Tình trạng có chiều hướng xấu đi là từ học sinh giỏi, chăm ngoan trở thành học sinh cá biệt, thích làm nổi, không thuộc bài khi ở lớp, về nhà thường nói dối cha mẹ, người lớn trong gia đình, bắt đầu tiêu xài tiền phung phí… Đôi khi do áp lực học tập căng thẳng và do nhận thức không đúng, trẻ đã tìm đến "tình yêu" để cảm thấy được "thư giãn" đầu óc (?). Thậm chí, học sinh yêu sớm đến mức mù quáng muốn làm người lớn về chuyện tình dục. Học sinh nam, nữ yêu nhau rủ nhau vào nhà nghỉ hoặc có hành vi sinh hoạt tình dục thiếu an toàn.
Việc cần giúp trẻ: 

Khi đã phân tích rõ các nguyên nhân về thể chất, tâm lý, môi trường sống, áp lực của việc học… thì việc hạn chế hiện tượng học sinh trung học yêu sớm là có thể và cần làm ngay trước khi quá muộn.

- Thứ nhất, để giúp trẻ có thể trưởng thành khỏe mạnh, cha mẹ, thầy cô giáo và xã hội cần phải kết hợp với nhau. Đó chính là thực hiện tốt mối quan hệ ba môi trường giáo dục: gia đình - nhà trường và xã hội; nhắm đúng vào thực tế của trẻ để tìm những biện pháp đề phòng tích cực giúp trẻ thấy việc học tập là thích thú, là bổn phận của mình.


- Thứ hai, ngăn chặn tình trạng yêu sớm ở học sinh không chỉ là trách nhiệm của nhà trường, cha mẹ mà là của toàn xã hội. Nhà trường nên tổ chức các hoạt động giáo dục phong phú, đa dạng phù hợp với lứa tuổi như mở các lớp chuyên đề, sinh hoạt ngoại khóa về phát triển giới tính của trẻ, tình bạn trong học sinh, cách học tập đạt hiệu quả; hoặc tổ chức các phong trào văn nghệ, thể thao. Bên cạnh đó, tổ chức cho các em đọc tham khảo những sách giáo khoa, tài liệu do các cơ quan có trách nhiệm ban hành như Bộ GD&ĐT, Bộ Y tế đề cập đến nội dung giáo dục giới tính, tâm sinh lý  lứa tuổi dậy thì, quá trình thay đổi phát triển của các bộ phận cơ thể. Điều này hướng các em thiết lập những mối quan hệ lành mạnh giữa bạn trai - bạn gái. Tất cả các hoạt động trên đều phải dựa trên tiền đề tôn trọng nhân cách của các em, tạo tâm lý thoải mái, gợi mở để các em tâm sự, tự tin nêu lên những thắc mắc về các góc độ (cơ thể, tâm sinh lý, kiến thức SKSS). Song song đó, cha mẹ phải luôn là người gần gũi, xử lý tốt mối quan hệ với trẻ. Từ đó hiểu trẻ hơn, kịp thời phát hiện những biểu hiện, hành động của con cái và có định hướng tư tưởng, tư vấn cho trẻ. Dẫu cha mẹ biết trước tình yêu này thường chẳng bền lâu nhưng cũng tuyệt đối không được dùng mọi biện pháp đe dọa, ngăn chặn bởi điều này có thể gây ra một số hậu quả tiêu cực, đặc biệt với những đứa trẻ có cá tính mạnh.


- Thứ ba, tiến hành trang bị kiến thức về SKSS, giáo dục giới tính cho học sinh theo đặc điểm lứa tuổi và từng giới. Trong thời kỳ thanh xuân của học sinh trung học, sẽ xuất hiện sự khác biệt sự hoàn thiện về sinh lý và chưa thành thực về đạo lý. Vì vậy, khi giáo dục giới tính, tình bạn, tình yêu cho các em cũng phải chú ý phù hợp từng loại đối tượng. Như đối với số trẻ chưa yêu thì khi giáo dục chủ yếu là tiến hành các hình thức giáo dục đề phòng, ngăn chặn trẻ bước vào con đường yêu sớm. Nhưng đối với trẻ vừa mới yêu thì chủ yếu là tiến hành các hình thức giáo dục, thuyết phục để trẻ nhận thức được sự nguy hại của việc yêu sớm, tự giác chuyển hướng vào học tập. Đối với những học sinh đã yêu và không thể tự rút ra được thì hướng giáo dục chủ yếu là bảo vệ, ngăn chặn những việc đáng tiếc có thể xảy ra.

2. Quan hệ tình dục sớm:

Nguyên nhân và Hậu quả: Có nhiều nguyên nhân như hiện tượng yêu đương sớm. Nhưng tiến tới quan hệ tình dục sớm sẽ có những hậu quả nặng nề hơn. Do sự phát triển cơ thể chưa hoàn chỉnh, vì vậy hành vi tình dục ở độ tuổi vị thành niên thường không kiểm soát và thường dẫn đến thai nghén ngoài ý muốn.  Nếu mang  thai ở tuổi vị thành niên sẽ liên quan đến một số hậu quả nghiêm trọng cho sức khoẻ tình dục như nạo phá thai, sẩy thai, sinh thiếu cân, đẻ non, thai nhỏ so với tuổi thai, tử vong mẹ. Đây thực sự là một thảm họa, là gánh nặng cho bản thân, cho gia đình và xã hội. Chính sự mang thai ở tuổi vị thành niên cũng gây ảnh hưởng nặng nề đến sự phát triển thể chất và tâm sinh lý cũng như phát triển trí tuệ sau này. Quan hệ tình dục không an toàn có nguy cơ mắc các bệnh lây truyền qua đường tình dục đang là nỗi lo ngại của cộng đồng (lậu, giang mai, HIV...).

Ngoài hậu quả với bản thân, quan hệ tình dục sớm còn tạo ra những hậu quả về kinh tế, xã hội: Hạn chế khả năng học tập hoặc bỏ học dẫn đến giảm cơ hội tìm được việc làm tốt hoặc từ bỏ quyền làm mẹ, có khi giết đứa trẻ mới sinh hoặc bi quan tự sát, làm gái mại dâm...  Điều kiện kinh tế khó khăn sẽ ảnh hưởng chất lượng cuộc sống của cả mẹ và con. Nhà nước phải chi trả trực tiếp trợ cấp về y tế, xã hội để giải quyết khó khăn cho mẹ và con; làm tăng tốc độ phát triển dân số; điều kiện chăm sóc trẻ và sức khỏe của người mẹ không được tốt.


Việc cần giúp trẻ: Phải dạy cho các em những kiến thức, kỹ năng cụ thể như cách từ chối tình dục, cách giữ gìn thân thể, cách thoát hiểm... Tùy theo lứa tuổi mà có phương thức, nội dung phù hợp. Ở trường học nên tổ chức vào giờ ngoại khóa, sinh hoạt chủ đề, phòng tư vấn và tùy nội dung có thể nam, nữ học riêng. Tại nhà bố mẹ nên dành thời gian trò chuyện tâm sự, giữa mẹ với con gái, bố với con trai. Đây chính là chìa khóa giúp con biết cách tự vệ, giữ gìn bản thân ở mọi hoàn cảnh,  khi người khác có cái nhìn khiếm nhã, có động tác đụng chạm, người lạ rủ đi chơi, dụ cho ăn uống, cho quà... Vấn đề mấu chốt là trang bị cho con gái lứa tuổi vị thành niên kỹ năng sống và biết cách từ chối trước những đòi hỏi hoặc dụ dỗ từ bạn tình; những cách ứng xử hợp lý trong mọi tình huống để giúp con tránh được những nguy cơ có thể đến với chúng. Đặc biệt không được trẻ tự ý phá thai ở những cơ sở y tế không an toàn cho trẻ.

3. Trẻ vị thành niên trầm cảm:

Dấu hiệu: Những dấu hiệu giúp chúng ta biết trẻ vị thành niên bị trầm cảm

- Không quan tâm tới các hoạt động yêu ích: Đây là dấu hiệu báo động đầu tiên cho thấy trẻ có những thay đổi về tâm trạng.


- Rối loạn giấc ngủ: Ngủ quá nhiều hoặc quá ít đều có thể là dấu hiệu trầm cảm ở tuổi vị thành niên. Yếu tố khác phụ huynh nên nhận thấy cùng với những thay đổi mô hình giấc ngủ là trẻ có thể làm trái với những hoạt động thường ngày của mình.
- Thiếu tương tác xã hội: Nếu trẻ vốn thân thiện, vui vẻ và hướng ngoại bỗng thu mình dưới một lớp vỏ, đó có thể là dấu hiệu trẻ đang phải chịu đựng trầm cảm.
- Nói về tự sát: Một đứa trẻ khỏe mạnh và tâm lý ổn định sẽ không nói về tự sát. Nhưng nếu trẻ bắt đầu trở nên quá tò mò về tự sát, bắt đầu tìm kiếm các chủ đề, bài báo về tự sát. Bạn không nên bỏ qua dấu hiệu này. Hãy nói chuyện với con bạn về lý do tìm kiếm thông tin về tự sát. Bạn có thể nhờ chuyên gia tư vấn về điều này.
- Thay đổi thói quen ăn uống: Thói quen ăn uống có liên quan nhiều đến trạng thái tâm lý của bạn. Điều này cũng đúng với trẻ vị thành niên. Vì vậy, nếu con bạn ăn quá nhiều hoặc quá ít, bạn nên chú ý. Thay đổi thói quen ăn uống có thể do con bạn có những thay đổi tâm trạng mà bạn cần lưu tâm.


- Xuống hạng: Nếu trẻ bắt đầu sa sút về lực học cùng với những thay đổi về chế độ ăn, ngủ thì có thể do trẻ đang trải qua những biến đổi tâm lý sâu sắc. Đây là có thể là dấu hiệu của trầm cảm.


- Quá nhạy cảm: Trẻ vị thành niên bị trầm cảm thường có tâm trạng quá nhạy cảm. Điều này thể hiện khi hội thoại cùng cha mẹ, ở những câu nói mang tính hờn dỗi như "bố mẹ không yêu con", "bố mẹ không có thời gian dành cho con". Đây có thể là một dấu hiệu đáng báo động.


- Thay đổi tâm trạng: Khó chịu, buồn bã, hiếu động, cô đơn, hạnh phúc thái quá là một số cảm xúc trẻ sẽ phải đối mặt khi bị trầm cảm.

Nguyên nhân: Nguyên nhân gây trầm cảm vẫn chưa được biết rõ, nhưng có rất nhiều vấn đề có liên quan tới chứng bệnh này như:


- Sinh học: các chất dẫn truyền thần kinh dẫn truyền các tín hiệu tới các phần khác của não và cả cơ thể. Khi những chất hóa học này bị hư hoặc biến đổi, chức năng của thụ thể thần kinh và hệ thần kinh cũng bị thay đổi, dẫn tới trầm cảm.
- Nội tiết tố: các thay đổi trong việc cân bằng các nội tiết tố của cơ thể có thể gây trầm cảm.


- Các đặc điểm di truyền: trầm cảm thường gặp hơn ở những người có người thân mắc chứng trầm cảm


- Các trải nghiệm đau thương từ thuở nhỏ: các sự kiện đau thương trong thời thơ ấu như bị lạm dụng thể xác hoặc tinh thần, hoặc mất cha mẹ có thể làm thay đổi trong não bộ, làm cho người đó dễ bị trầm cảm hơn.


- Quen suy nghĩ tiêu cực: trầm cảm tuổi teen có thể có liên quan tới việc quen cảm giác bất lực hơn là cảm thấy có khả năng tự tìm được cách giải quyết cho những thử thách trong cuộc sống.

Việc cần làm: Nếu các triệu chứng trầm cảm đang bắt đầu hoặc tiếp tục quấy rầy cuộc sống của con bạn, hãy gặp bác sĩ hoặc chuyên gia tâm lý được huấn luyện làm việc với trẻ vị thành niên. Các triệu chứng trầm cảm không tự mất đi – và chúng có thể trở nên tệ hơn hoặc dẫn tới các vấn đề khác nếu không được chữa trị. Rất nhiều trường hợp cần phải chữa trị bằng thuốc, do bác sỹ chỉ định. Trẻ vị thành niên bị trầm cảm có nguy cơ tự tử mặc dù các triệu chứng không quá nghiêm trọng. 
Để đạt hiệu quả tốt hơn, hãy nói với con cùng chuẩn bị với bạn. Lập một danh sách bao gồm:


- Bất kì triệu chứng nào mà trẻ có, cả những triệu chứng có vẻ như không liên quan tới chứng bệnh của trẻ.


- Những thông tin cá nhân chính yếu như bất kì căng thẳng nào trong cuộc sống hoặc các thay đổi gần đây trong cuộc sống của trẻ.


- Tất cả loại thuốc, vitamin, các loại thảo dược hay thuốc bổ mà trẻ đang uống.
- Các câu hỏi mà bạn và trẻ muốn hỏi bác sĩ.

4. "Nổi loạn" ở tuổi vị thành niên

Nguyên nhân và biểu hiện: Do thay đổi sinh lý và các tuyến nội tiết trong cơ thể nên trẻ vị thành niên dẫn đến những rối loạn tâm lý. Đặc biệt khi bị thêm áp lực về học tập hoặc những xung đột trong gia đình thì trẻ dễ bị kích thích, hay nổi cáu vô cớ. Trẻ có thể đánh bạn, đánh em, cãi lại và có nhiều hành vi hỗn láo với bố mẹ hoặc giáo viên. Mệt mỏi thường xuyên nên trẻ hay bỏ học. Khó tập trung chú ý, vì thế trẻ rất lơ đễnh trong nghe giảng. Trí nhớ sút kém, do vậy trẻ không nhớ được nội dung bài học, không nhớ được những điều bố mẹ dặn dò. Hay có ý định và hành vi tự sát do chán nản, bi quan, học tập sút kém, do bị ảnh hưởng của game bạo lực. Nhiều trẻ đã bỏ nhà đi lang thang khi có những kẻ xấu lôi kéo.

Việc cần làm: Chúng ta cần hết sức bình tĩnh vì theo giáo sư thần kinh học Gina Rippon, đến từ Đại học Aston (Anh), đã "biện hộ" cho trẻ vị thành niên nổi loạn. Theo bà, cha mẹ và giáo viên không nên quá đau khổ khi một đứa trẻ bỗng trở nên khó bảo vào giai đoạn vị thành niên. Sự nổi loạn ấy như một hệ quả tất yếu khi não bộ được nâng cấp từ trẻ em sang người lớn với nhiều thay đổi có thể ảnh hưởng đến nhận thức và hành vi của trẻ. Nói đúng hơn, sự nổi loạn có thể đơn giản là một chút "chập mạch" như khi bạn cố nâng cấp "cỗ máy" não bộ.

 
Rất may mắn, sự bốc đồng của thiếu niên hoàn toàn khác biệt với sự bốc đồng của người lớn, xét theo các mặt hoạt động thần kinh. Vì thế, giai đoạn ẩm ương của thiếu niên thực sự là dấu hiệu của quá trình tinh chỉnh các hoạt động thần kinh nhằm tạo ra người lớn chín chắn hơn. Nhưng điều đó không có nghĩa là bạn phải "bó tay" trước mọi hành vi nổi loạn của con mình. Trẻ vị thành niên vẫn cần có một hệ thống rất khéo léo liên kết giữa nỗ lực và phần thưởng. Thực sự, hầu hết các bé đều đang cố kháng cự lại những phút nổi loạn. Hãy động viên và khuyến khích trẻ đúng lúc, bạn sẽ thấy hiệu quả.

Vân Khánh (Tổng hợp)

.