Tư tưởng ảnh hưởng đến cơ cấu dân số Trung Quốc khi tiến hành chính sách dân số cũng rắn là

Trung Quốc ngày thứ Hai loan báo các cặp vợ chồng ở nước này giờ có thể sinh tới ba con, một sự thay đổi lớn so với giới hạn hiện thời là hai con sau khi dữ liệu gần đây cho thấy sự sụt giảm đáng kể về tỉ lệ sinh ở quốc gia đông dân nhất thế giới.

Bắc Kinh bãi bỏ chính sách một con kéo dài hàng thập niên của mình vào năm 2016, thay thế bằng giới hạn hai con để ngăn ngừa những rủi ro cho nền kinh tế của nước này do dân số già đi nhanh chóng. Nhưng điều đó đã không giúp tỉ lệ sinh gia tăng liên tục vì chi phí nuôi con đắt đỏ ở các thành phố của Trung Quốc, một thách thức vẫn tồn tại cho đến ngày nay, Reuters cho biết.

Sự thay đổi chính sách sẽ đi kèm với “các biện pháp hỗ trợ mà sẽ có lợi cho việc cải thiện cơ cấu dân số của nước ta, hoàn thành được chiến lược chủ động ứng phó với tình trạng dân số già đi,” thông tấn xã nhà nước Tân Hoa Xã cho biết sau một cuộc họp của Bộ Chính trị do Chủ tịch Tập Cận Bình chủ trì.

Trong số các biện pháp đó, Trung Quốc sẽ giảm chi phí giáo dục cho các gia đình, tăng hỗ trợ thuế và nhà ở, bảo đảm lợi ích hợp pháp của phụ nữ đi làm và kiểm soát trị giá của hồi môn “cao vút,” Tân Hoa Xã cho biết, nhưng không nêu chi tiết cụ thể. Trung Quốc cũng định sẽ giáo dục những người trẻ tuổi “về hôn nhân và tình yêu.”

Trung Quốc có tỉ lệ sinh chỉ 1,3 con một người phụ nữ vào năm 2020, theo dữ liệu mới nhất, ngang với tỉ lệ ở những xã hội lão hóa như Nhật Bản và Ý và thấp hơn nhiều so với tỉ lệ 2,1 cần cho mức thay thế, theo Reuters.

Đầu tháng này, một cuộc khảo sát dân số Trung Quốc kéo dài một thập niên cho thấy dân số tăng với tốc độ chậm nhất trong thập niên qua kể từ những năm 1950, lên 1,41 tỉ người, khơi lên lo ngại rằng Trung Quốc sẽ già đi trước khi trở nên giàu có cũng như khơi ra chỉ trích rằng nước này đã chờ đợi quá lâu để giải quyết vấn đề tỉ lệ sinh suy giảm.

Bộ Chính trị Trung Quốc ngày thứ Hai cũng cho biết họ sẽ lùi độ tuổi nghỉ hưu theo từng giai đoạn, nhưng không cung cấp bất cứ chi tiết nào, Reuters đưa tin.

Lo sợ bùng nổ dân số, năm 1979, Trung Quốc ban hành chính sách một con và đã thành công trong việc kiềm chế gia tăng dân số, nhưng cũng dẫn đến tình trạng cưỡng bức triệt sản và phá thai chọn lọc giới tính, làm trầm trọng thêm tình trạng mất cân bằng giới tính do nhiều cha mẹ thích con trai hơn.

ND - Trong hơn ba thập kỷ qua, Trung Quốc đã hoàn thành giai đoạn quá độ về dân số và phát triển kinh tế một cách nhanh chóng. Hai điều kỳ diệu đã xảy ra ở một quốc gia đông dân nhất thế giới.

Thứ nhất, công tác dân số - kế hoạch hóa gia đình (DS-KHHGÐ) đã đạt được những thành tựu to lớn, hạ số con sinh ra bình quân cho một phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ từ 5,8 con (năm 1970) xuống còn 1,8 con như hiện nay. Tính đến nay, Trung Quốc có 1,3 tỷ dân, tức bốn năm trước đây, cả nước đã tránh sinh ra hơn 400 triệu trẻ em. Vào năm 1996, tuổi thọ bình quân vượt quá 70 tuổi và đầu thế kỷ 21, Trung Quốc đã nằm trong số những quốc gia có mức sinh thấp, tỷ lệ tăng dân số thấp và tuổi thọ bình quân cao.

Thứ hai, trong khoảng 20 năm qua, tốc độ tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc đạt bình quân 9,6%/năm (năm 2006 đạt 10,7%) và tổng sản phẩm xã hội do vậy đã tăng  11 lần.

Những thay đổi về kinh tế - xã hội và quá độ dân số ở Trung Quốc trong thời gian qua đã làm thay đổi một cách cơ bản cơ cấu dân số, tương tự cũng đã xảy ra ở nhiều nước như Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore... do kết quả hạ thấp mức sinh nhanh chóng và giảm tỷ lệ tử vong. Sự khác biệt mang tính đặc thù ở Trung Quốc chính là những thay đổi không theo quy luật của cấu trúc tuổi và những thay đổi nhanh chóng của kinh tế - xã hội tác động tương hỗ lên mức sinh và mức chết. Theo dự báo, sau năm 2030, số người trên 65 tuổi ở Trung Quốc sẽ vượt quá số người từ 0-14 tuổi và như vậy Trung Quốc sẽ là một trong những nước già hóa nhanh nhất thế giới.

Một đặc trưng khác của những biến đổi cơ cấu dân số Trung Quốc là chuyển sang "cơ cấu dân số vàng". Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng, 15% tăng trưởng kinh tế trong 20 năm qua là nhờ sự đóng góp của mẫu số dân số vàng này. Năm 1990, dân số trong độ tuổi lao động 15-64 chiếm 66,7% tổng số dân, trong khi tổng tỷ số phụ thuộc đạt 50%, đã đưa Trung Quốc bước vào kỷ nguyên "cơ cấu dân số vàng". Vào năm 2000, tỷ lệ dân số trong độ tuổi lao động tăng lên 70,1%, kỳ vọng vào năm 2020 tỷ lệ này giữ nguyên ở con số 70%, trong khi tổng tỷ số phụ thuộc sẽ giảm xuống còn 37-45%. Như vậy, kỷ nguyên "cơ cấu dân số vàng" của Trung Quốc sẽ kéo dài khoảng 40 năm, mà việc sử dụng tỷ số phụ thuộc dưới 50% được coi là mốc chuẩn (ở Việt Nam, vào năm 2005 tỷ số này là 45%). Lợi ích mang lại do lực lượng lao động dồi dào và giá nhân công rẻ đã và đang tạo cho Trung Quốc thế mạnh trong phát triển kinh tế nhanh, không phải đối phó với nạn thiếu lao động như một số nước hiện nay.

Mặc dầu quá độ dân số ở Trung Quốc làm giảm tỷ số dân số phụ thuộc và do vậy đã tạo ra môi trường dân số thuận lợi cho tích lũy vốn và phát triển kinh tế, song những thay đổi về cấu trúc dân số cũng đặt ra nhiều thách thức mới đối với phát triển kinh tế - xã hội.

Trong vòng 50 năm của thế kỷ 21, Trung Quốc sẽ đối phó với ba áp lực rất lớn: quy mô dân số lớn, dân số trong độ tuổi lao động lớn và già hóa dân số nhanh. Do đà tăng dân số vẫn còn quá lớn, dù Trung Quốc kiên trì thực hiện với chính sách dân số một con có điều chỉnh, song những biến đổi về cơ cấu dân số sẽ tiếp tục dẫn đến sự tăng trưởng dân số trong tương lai, dự báo trong thập kỷ tới, Trung Quốc vẫn duy trì đà tăng dân số với mức tăng 8-10 triệu dân/năm và trong vòng 25 năm tới, số dân Trung Quốc sẽ tăng 10%, tương đương tăng thêm 135 triệu dân.

Do quy mô dân số trong độ tuổi lao động lớn, tình trạng việc làm sẽ đặt ra nhiều thách thức. Trong hai thập kỷ tới của kỷ nguyên "cơ cấu dân số vàng", việc bảo đảm việc làm cho số lượng lớn dân số trong độ tuổi lao động là thách thức lớn đối với sự phát triển kinh tế của đất nước. Tỷ số giới tính khi sinh cao hơn mức bình thường cũng là một nguy cơ đối với sự ổn định xã hội. Sự gia tăng các luồng di dân đã tạo ra thách thức lớn đối với việc phân bổ các nguồn lực xã hội. Tính chất và quy mô khác nhau giữa các nhóm dân số nghèo càng đặt ra việc tăng cường hơn sự phát triển xã hội hài hòa vẫn là một nhiệm vụ rất cam go.

Khuynh hướng già hóa dân số ở Trung Quốc đã và đang đặt ra những thách thức về an sinh xã hội. Sự già hóa ở Trung Quốc đặc trưng bởi tốc độ tăng nhanh, quy mô lớn, và "già trước khi giàu". Hệ thống an sinh cho người già ở Trung Quốc mặc dầu đã được thành lập ở hầu hết các vùng nông thôn, song cho đến nay hầu hết người già chủ yếu sống phụ thuộc gia đình họ. Mặt khác, sự nghèo khó của người già đang tồn tại cả ở nông thôn lẫn thành thị, đặc biệt là vùng nông thôn, vì vậy, thúc đẩy bình đẳng và xóa nghèo vẫn là một  nhiệm vụ lớn và những mục tiêu phát triển xã hội của Trung Quốc.

Trong thời gian tới, Chính phủ sẽ ưu tiên đầu tư toàn diện nhằm phát triển con người, cố gắng đạt mục tiêu từ kiểm soát số lượng tăng trưởng dân số sang giải pháp toàn diện đối với các vấn đề dân số, trong khi vẫn phải duy trì mức sinh thấp, nâng cao sức khỏe và trình độ giáo dục của nhân dân, cải thiện cơ cấu dân số, quản lý  hợp lý sự phân bổ dân cư, bảo đảm an ninh dân số, đẩy mạnh sự biến đổi từ một nước đông dân sang một nước có sức cạnh tranh trong việc đầu tư cho nguồn vốn con người và tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển bền vững giữa một bên là dân số và một bên là kinh tế - xã hội, các nguồn lực và môi trường.

Ngày 17-1-2007, BCH T.Ư Ðảng CS Trung Quốc và Hội đồng Nhà nước đã ban hành Nghị quyết về đẩy mạnh toàn diện Chương trình DS-KHHGÐ và các vấn đề về dân số trong thế kỷ mới, nhấn mạnh: "Hệ thống tổ chức bộ máy và cán bộ làm công tác DS-KHHGÐ ở cơ sở cần được ổn định và tăng cường. Trong quá trình cải cách toàn diện các vùng nông thôn và điều chỉnh quản lý hành chính ở đô thị, đòi hỏi phải bảo đảm sự ổn định hệ thống tổ chức DS-KHHGÐ và đội ngũ cán bộ. Không cho phép sự xóa bỏ hay hợp nhất, thành lập mới hoặc thay đổi hệ thống tổ chức hiện tại...".

Ðối với nước ta, thực hiện Nghị quyết 47-NQ/T.Ư ngày 22-3-2005 của Bộ Chính trị về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện chính sách DS-KHHGÐ, Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định 09/2006/QÐ-TTg ban hành Chương trình hành động của Chính phủ, trong đó đề ra đồng bộ các giải pháp, nhấn mạnh đến việc củng cố và kiện toàn bộ máy và cán bộ.

Sau gần năm năm thành lập và hơn hai năm thực hiện Nghị quyết 47-NQ/T.Ư của Bộ Chính trị, công tác DSGÐTE nói chung và DS-KHHGÐ đã dần đi vào nền nếp, đã đạt được một số kết quả nhất định. Ðể giải quyết thành công những nhiệm vụ hệ trọng liên quan đến đầu tư phát triển toàn diện con người, coi con người là vốn quý của xã hội ở một quốc gia sẽ đạt ngưỡng 100 triệu dân sau khoảng 15 năm tới, đòi hỏi phải có bộ máy chuyên trách không chỉ đủ mạnh mà quan trọng hơn là cần được ổn định và ngày càng được tăng cường từ T.Ư đến cơ sở, có sự tham gia của đội ngũ cán bộ chuyên trách và cộng tác viên tự nguyện tại từng điểm dân cư.

Việc bố trí một bộ máy tổ chức làm công tác dân số phù hợp trên cơ sở những bài học kinh nghiệm quý giá đúc kết của hơn 40 năm qua tại Việt Nam và của thế giới, đặt trong bối cảnh mô hình tổ chức mới sau bốn năm thành lập, tại một thời điểm mức sinh đã có biểu hiện tăng nhiều so với cùng kỳ năm trước bởi ảnh hưởng của tâm lý thích sinh con vào năm Ðinh Hợi và tiếp tục tăng do nhiều yếu tố liên quan khác là một vấn đề cần được quan tâm.

TS TRẦN VĂN CHIẾN

Chính sách một con (tiếng Hán giản thể: 计划生育政策; bính âm: jìhuà shēngyù zhèngcè) là chính sách kiểm soát dân số, chính sách quốc gia cơ bản của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, được áp dụng từ năm 1979 và được thay thế bằng chính sách hai con vào năm 2015. Tên chính thức do Chính phủ Trung Quốc đặt là "Chính sách kế hoạch hóa gia đình". Kể từ khi ra đời, chính sách này đã có nhiều thay đổi, mở rộng dần số con được phép sinh ra với một số đối tượng. Chính sách này hạn chế mỗi một cặp vợ chồng ở thành thị chỉ được sinh một con, những trường hợp ngoại lệ áp dụng đối với các cặp vợ chồng ở nông thôn có con gái đầu lòng, các dân tộc thiểu số và những cặp vợ chồng là con một. Chính sách một con không áp dụng với đặc khu hành chính Hồng Kông và Macao, nơi được thiết lập chính sách kế hoạch gia đình riêng.

Tư tưởng ảnh hưởng đến cơ cấu dân số Trung Quốc khi tiến hành chính sách dân số cũng rắn là

Chiến dịch thúc đẩy kế hoạch hoá gia đình giữa các lao động nhập cư tại quảng trường nhà ga Vũ Xương vào năm 2011, với các biểu ngữ, dàn nhạc, bài phát biểu và phân phát bao cao su, lịch, quà lưu niệm miễn phí.

Cuối năm 2013, sau 35 năm thực thi nghiêm khắc chính sách một con, Ủy ban Lập pháp tối cao Trung Quốc đưa ra báo cáo tuyên bố nới lỏng chính sách này, cho phép các cặp vợ chồng được sinh con thứ hai nếu cha hoặc mẹ là con một.[1][2] Đến cuối năm 2015, chính sách này bị bãi bỏ.[3][4][5][6][7][8][9][10]

Những quy định ngặt nghèo của chế độ một con được cho là nguyên nhân dẫn đến nhiều bi kịch xã hội tại Trung Quốc.[11]

Dân số Trung Quốc
Năm Dân số
(triệu người)
Tăng
(triệu người)
1964 694,6 --------
1982 1008,2 313,6
2000 1265,8 257,6
2010 1339,7 73,9
Nguồn: Cục Thống kê Trung Quốc

 

Tiến trình tháp dân số của Trung Quốc từ 2012 đến 2030.

 

Biểu đồ dân số Trung Quốc, cho thấy tỉ lệ tăng bất chấp chính sách một con.

Mục tiêu ban đầu của chính sách một con là kinh tế: làm giảm nhu cầu tài nguyên thiên nhiên, duy trì tỷ lệ lao động ổn định, giảm tỷ lệ thất nghiệp và giảm lao động thặng dư.[12]

Người phát ngôn của Uỷ ban Dân số và Kế hoạch hoá gia đình quốc gia cho biết khoảng 35,9% dân số Trung Quốc nằm trong phạm vi của chính sách một con, 52,9% trong phạm vi của chính sách một con và một nửa, 11% có thể sinh hai con hoặc nhiều hơn.[13][14]

Tỉ lệ nam nữ sinh ra trong năm 2005 đạt 118,9:100, điều này đồng nghĩa rằng số bé trai nhiều hơn 20% so với bé gái.[15] Sự mất cân bằng nghiêm trọng có thể gây ra các vấn đề xã hội nghiêm trọng trong hai hoặc ba thập kỷ tiếp theo. Theo các thống kê dân số, số dân vẫn tăng tuy nhiên tỉ lệ sinh có sự suy giảm mạnh.

Dân tộc thiểu số có sự tăng nhanh hơn so với người Hán, từ năm 1953 chiếm 6,06% dân số, đến năm 1982 6.7% và 2010 là 8,49%.[16][17][18] So sánh kết quả cuộc điều tra dân số toàn quốc lần thứ nhất với lần thứ năm, người Hán tăng 5,74%; trong khi đó dân tộc thiểu số tăng 6,92% (hơn 1,2 lần).

  • Những năm 1960, tốc độ dân số Trung Quốc tăng trưởng nhanh chóng đẩy áp lực dân số lên cao.
  • Đầu những năm 1970, dưới tác động của cuộc Cách mạng Văn hoá, Trung Quốc ban hành chính sách hai con, khuyến khích sinh con thứ hai sau khoảng 4 năm và kêu gọi cưới sinh muộn hơn.[19]
  • Năm 1978, Đặng Tiểu Bình đề ra mục tiêu: trước năm 2000, dân số Trung Quốc không được vượt quá 1,2 tỷ người.[19]
  • Năm 1979, chính sách một con được đưa vào áp dụng.[19]
  • Năm 1982, chính sách một con được đưa vào Hiến pháp.[19]
  • Năm 1984, cho phép các cặp vợ chồng ở nông thôn sinh con thứ hai nếu con thứ nhất là con gái, các cặp vợ chồng dân tộc thiểu số được phép sinh từ 3-4 con.[19]
  • Năm 1997, cho phép các cặp vợ chồng sống ở thành thị, có thể có hai con nếu cả hai vợ chồng đều là con một.[19]
  • Năm 2000, quy định về con thứ tiếp tục được nới lỏng.[13] Các điều kiện phổ biến bao gồm: vợ chồng đều là con một, vợ hoặc chồng là người dân tộc thiểu số, vợ chồng trở về từ nước ngoài, các cặp vợ chồng có con đầu bị khuyết tật.[20][21][22]
  • Từ năm 2002, các cặp vợ chồng muốn có nhiều con phải chịu đóng một khoản tiền phạt cố định.[19] Nhưng đến 1/9/2002, áp dụng Luật dân số và Kế hoạch hoá gia đình, công dân vi phạm còn phải trả thêm một khoản gọi là "phí bảo trì xã hội".[23] Khoản phí này do các tỉnh, khu tự trị và thành phố quy định, căn cứ trên thu nhập bình quân đầu người của cư dân đô thị và nông thôn của địa phương.[24]
  • Từ năm 2014, các cặp vợ chồng ở thành thị được phép có hai con nếu một trong hai vợ chồng là con một.[1]
  • Cuối năm 2015, chính sách bị bãi bỏ. Luật mới được chính thức áp dụng từ ngày 1 tháng 1 năm 2016.[4]

Những cặp vợ chồng vi phạm chính sách một con phải đóng một phức phạt cao gấp nhiều lần so với thu nhập bình quân thông thường của họ.[11] Năm 2000, chính quyền Trung Quốc gọi mức phạt sinh con thứ hai là "phí đóng góp cho xã hội" chứ không phải tiền phạt, chi phí này nhằm trang trải những "thiệt hại" cho xã hội do đứa con thứ hai của các gia đình gây ra. Riêng năm 2010, tổng tiền phạt thu về khoảng 20 tỉ nhân dân tệ.[25] Mức phạt cho từng cặp vợ chồng được chính quyền các địa phương tự định ra tính theo thu nhập của gia đình vi phạm và nhiều yếu tố khác.[26]

Nếu gia đình không đóng khoản phí này, những đứa con ngoài chính sách không được đăng ký khai sinh[25], không có tên trong hộ khẩu, không được cấp chứng minh thư, không được tham gia vào hệ thống bảo hiểm cũng như không được hưởng hệ thống giáo dục, sức khoẻ của nhà nước.[27] Theo số liệu của Cục Thống kê quốc gia Trung Quốc năm 2011, có 13 triệu người dân Trung Quốc không được xã hội thừa nhận do không có hộ khẩu.[28] Trong trường hợp người mẹ bị phát hiện đang mang thai ngoài chính sách và không có khả năng đóng tiền phạt sẽ bị cưỡng ép phá thai.[29] Một số trường hợp phá thai cưỡng bức dẫn đến thai phụ bị thiệt mạng.[30] Ngoài ra, một số biện pháp khác cũng được thi hành như đặt vòng tránh thai cho phụ nữ có một con, triệt sản cho phụ nữ có hai con.[31] Chính quyền một số tỉnh như Quảng Đông từng đề ra chiến dịch chống "ba không" (không chứng minh thư, không hộ khẩu, không giấy phép tạm trú), bao gồm bắt giữ, đánh đập và giam giữ những người công dân không hộ khẩu.[11]

Riêng ở một số địa phương kém phát triển, khoản tiền phạt này là một trong những khoản thu chủ yếu của chính quyền. Điều này được cho là lý do của việc mạnh tay chống phá thai nhằm buộc người dân đóng tiền phạt.[11]

Một số nghệ sĩ nổi tiếng từng bị phạt như:

  • Hác Hải Đông: cựu cầu thủ bóng đá, bị phạt 50.000 nhân dân tệ vì sinh con thứ hai.[32]
  • Tôn Nam: ca sĩ nổi tiếng ở Trung Quốc, bị phạt vì sinh con thứ hai.[32]
  • Trương Nghệ Mưu: đầu năm 2014, Cục Kế hoạch hóa gia đình huyện Tân Hồ, thành phố Vô Tích, tỉnh Giang Tô tuyên bố mức phạt cho việc sinh đứa con thứ ba của ông là 7,5 triệu nhân dân tệ,[33] được cho là căn cứ vào thu nhập của vợ chồng đạo diễn Trương trong những năm trước. Đây là mức phạt cao nhất từ trước đến nay.[34]

 

Tỉ lệ giới tính trẻ sơ sinh tại đại lục Trung Quốc từ 1980–2010, thể hiện số bé trai trên 100 bé gái.

 

Biển thông báo trên đường ở nông thôn tỉnh Tứ Xuyên: "Cấm phân biệt đối xử, ngược đãi hoặc bỏ rơi bé gái."

Chính sách một con đã tỏ ra có hiệu quả trong việc giảm thiểu tốc độ gia tăng dân số ở Trung Quốc. Tuy nhiên, chính sách cũng bị cho rằng đã thất bại ở khu vực nông thôn và không đủ khả năng để ngăn cản những người có khả năng tài chính. Bên cạnh đó là các chỉ trích về:

  • Gián tiếp làm gia tăng tỷ lệ nạo phá thai.
  • Tình trạng mất cân bằng giới tính do tập quán "trọng nam khinh nữ".
  • Tỷ lệ sinh giảm mạnh gây xáo trộn cấu trúc dân số.
  • Mở ra khe hở pháp luật tạo điều kiện cho tham nhũng.
  • Ảnh hưởng đến những người cao tuổi phụ thuộc vào sự chăm sóc và hỗ trợ chi phí y tế của con cháu khi về già, tăng gánh nặng hỗ trợ người già trong xã hội.
  • Làm giảm lượng dân số trong độ tuổi lao động, ảnh hưởng tới tốc độ phát triển kinh tế.[26][27]
  • Đẩy mạnh tệ nạn bắt cóc, buôn bán trẻ em và phụ nữ.[31]
  • Cản trở mục tiêu thu hẹp khoảng cách giữa thành thị và nông thôn.[11]
  • Sau khi đạt đỉnh dân số trong tương lai, dân số sẽ giảm nhanh chóng do bị già đi.
  • Tỉ lệ dân tộc thiểu số gia tăng.
  • Các bé gái bị bỏ rơi sau khi sinh nở.

Để đối phó với chính sách một con, một số gia đình chọn các giải pháp như sau:

  • Sinh con ở nước ngoài, lấy quốc tịch nước ngoài. Vì luật pháp nước Mỹ quy định mọi đứa trẻ sinh ra trên đất Mỹ đều là công dân Mỹ, nên lựa chọn ưu tiên để đến Mỹ (từ Trung Quốc) là đảo Saipan thuộc Quần đảo Bắc Mariana, một quốc gia lệ thuộc vào Mỹ nằm ở Tây Thái Bình Dương, nơi cho phép du khách Trung Quốc nhập cảnh mà không bị hạn chế thị thực. Hòn đảo đang trải qua sự gia tăng lượng trẻ em Trung Quốc sinh nở. Lựa chọn này thường được những người Trung Quốc tương đối giàu có chọn. Ngoài việc tránh né chính sách một con, họ còn có mong muốn khác là con họ khi lớn lên có thể rời khỏi Trung Quốc đại lục hoặc đưa cha mẹ chúng đến Mỹ. Canada là một lựa chọn khó khăn hơn vì quốc gia này từ chối nhiều yêu cầu thị thực.[35][36] Giải pháp của Trung Quốc cho vấn đề này là thắt chặt hạn chế xuất cảnh với phụ nữ mang thai.
  • Sử dụng dịch vụ mang thai hộ. Phổ biến là ở Mỹ, nơi việc mang thai hộ hoàn toàn hợp pháp, sau đó nhập quốc tịch Mỹ cho đứa trẻ.[37] Ngoài ra dịch vụ mang thai hộ cũng tồn tại ở một số lãnh thổ lân cận như: Đài Loan, Hàn Quốc,...[38]
  • Sang Hồng Kông sinh con. Theo quy định của Đặc khu, những đứa trẻ sinh ở Hồng Kông được thừa nhận là cư dân vĩnh viễn của đặc khu này, được hưởng tất cả các quyền lợi của cư dân Hồng Kông như giáo dục, y tế miễn phí và miễn thị thực tới 135 quốc gia trên thế giới.[39] Điều này khiến lượng phụ nữ đại lục sang Hồng Kông sinh con ngày càng tăng cao. Đến 2010, số trẻ do phụ nữ đại lục sinh chiếm 45% lượng trẻ em sinh ra tại Hồng Kông, đẩy các bệnh viện vào mức quá tải và tăng cao chi phí sinh nở. Tình trạng này khiến chính quyền từ việc đề ra các biện pháp hạn chế[40] đến thay đổi Luật Cơ bản của Hồng Kông, không cấp quyền cư trú cho những trẻ em này. Từ đầu năm 2012, các phụ nữ đại lục sinh con thứ hai xong trở về sẽ bị chính quyền địa phương phạt tiền.[41]
  • Vì không áp dụng xử lý đối với trường hợp sinh một lúc nhiều con (sinh đôi, sinh ba,...), ngày càng có nhiều cặp vợ chồng đang chuyển sang dùng các loại thuốc thai sản để tạo ra song thai. Tuy không có số liệu chính xác, theo một báo cáo ở Trung Quốc vào năm 2006, số lượng các cặp song sinh được sinh ra mỗi năm ở Trung Quốc đã tăng gấp đôi. Tháng 1 năm 2005, Bộ Y tế đã ban hành công văn cấm phụ nữ khỏe mạnh sử dụng thuốc thai sản, khi mua thuốc phải có đơn của bác sĩ.[42]
  • Chính sách hai con
  • Kế hoạch hóa gia đình

  1. ^ a b Vì sao người Trung Quốc không muốn sinh con thứ hai VnExpress
  2. ^ Một bà mẹ Trung Quốc sinh đôi ở tuổi 63 Lưu trữ 2014-02-21 tại Wayback Machine Sài Gòn Tiếp Thị
  3. ^ Five things to know about China's one-child policy, CA: CBC.
  4. ^ a b “China to abolish decades-old one-child policy”. Al Jazeera English. ngày 29 tháng 10 năm 2015. Truy cập ngày 30 tháng 10 năm 2015.
  5. ^ Jiang, Steven; Hanna, Jason (ngày 29 tháng 10 năm 2015). “China says it will end one-child policy”. CNN. Truy cập ngày 29 tháng 10 năm 2015.
  6. ^ “Beschluss der Kommunistischen Partei: China beendet Ein-Kind-Politik” (bằng tiếng Đức). DE: Tagesschau. ngày 29 tháng 10 năm 2015. Truy cập ngày 29 tháng 10 năm 2015.
  7. ^ “China to end one-child policy and allow two”. BBC News.
  8. ^ “China to allow two children for all couples”. Xinhua. ngày 29 tháng 10 năm 2015.
  9. ^ Phillips, Tom. “China ends one-child policy after 35 years”. The Guardian.
  10. ^ “The 'model' example of China's one child policy”. BBC News.
  11. ^ a b c d e Hộ khẩu và những "đứa trẻ đen" Tuổi Trẻ
  12. ^ “全慰天:社会主义经济规律与中国人口问题” [Days of full-comfort: the law of the socialist economy with Chinese population] (bằng tiếng Trung). Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 10 năm 2013. Truy cập ngày 8 tháng 2 năm 2014.
  13. ^ a b “于学军:除豫以外各省区市独生子女夫妻可生二胎”. 新华网. ngày 10 tháng 7 năm 2007. Truy cập ngày 31 tháng 7 năm 2009.
  14. ^ cn/china/2007-07/11/content_5432238.htm “Most people free to have more child” Kiểm tra giá trị |url= (trợ giúp) (bằng tiếng Anh). 11 tháng 7 năm 2007. Truy cập ngày 30 tháng 10 năm 2008.
  15. ^ 男性比女性多出3700万—治理"性别失衡"刻不容缓中国政府网 ngày 6 tháng 7 năm 2007
  16. ^ 之十五:控制人口增长成绩巨大 坚持基本国策任重道远 国家统计局 ngày 28 tháng 9 năm 1999
  17. ^ 中国民族中国政府网 ngày 26 tháng 7 năm 2005
  18. ^ 2010年第六次全国人口普查主要数据公报 国家统计局 ngày 28 tháng 4 năm 2011
  19. ^ a b c d e f g Chính sách "một con" của Trung Quốc từ một số góc nhìn Báo điện tử ĐCS Việt Nam
  20. ^ 陈文钊 (ngày 21 tháng 3 năm 2005). “19种人享受"二胎政策"”. 泉州晚报. 新华网福建频道. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 3 năm 2005. Truy cập ngày 1 tháng 8 năm 2009.
  21. ^ 陈佳 (ngày 7 tháng 3 năm 2008). “江西修订计划生育条例 11种情形可再生第二胎”. 新法制报. 中国新闻网. Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 3 năm 2008. Truy cập ngày 1 tháng 8 năm 2009.
  22. ^ “广州:留学一年以上并怀孕回国生二胎不算超生”. 法制晚报. 北青网. ngày 21 tháng 1 năm 2005. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 7 năm 2011. Truy cập ngày 31 tháng 8 năm 2009.
  23. ^ “中华人民共和国人口与计划生育法”. 第九届全国人民代表大会常务委员会. 中国政府门户网站. ngày 29 tháng 12 năm 2001. Truy cập ngày 31 tháng 7 năm 2009.
  24. ^ “社会抚养费征收管理办法”. 中国政府网. ngày 2 tháng 8 năm 2002. Bản gốc lưu trữ ngày 19 tháng 5 năm 2011. Truy cập ngày 31 tháng 7 năm 2009.
  25. ^ a b Chấp nhận đóng tiền phạt cao để có con thứ hai ở Trung Quốc Thanh Niên Online
  26. ^ a b Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên nhandan
  27. ^ a b Phận chui nhủi của con thứ hai ở Trung Quốc VnExpress
  28. ^ 230 triệu trẻ em trên thế giới không được khai sinh Lưu trữ 2014-02-24 tại Wayback Machine Đường bộ
  29. ^ Thảm kịch từ chính sách một con ở Trung Quốc Tuổi Trẻ Online
  30. ^ “湖南计生办强制引产花季少女和胎儿双双殒命”. Radio Free Asia. 2009年4月14日. Truy cập 2013年3月16日. Kiểm tra giá trị ngày tháng trong: |ngày truy cập= và |ngày tháng= (trợ giúp)
  31. ^ a b http://tuoitre.vn/Tuoi-tre-cuoi-tuan/279930/trung-quoc-va-chinh-sach-mot-con.html#ad-image-0 Tuổi Trẻ
  32. ^ a b Vụ Trương Nghệ Mưu vi phạm chính sách một con: Người nổi tiếng có quyền đứng trên luật? Thể thao Văn Hoá
  33. ^ Tranh cãi quanh án phạt 26 tỉ đồng của Trương Nghệ Mưu Lưu trữ 2014-02-22 tại Wayback Machine Người Lao động
  34. ^ Trương Nghệ Mưu bị phạt hơn 26 tỉ đồng vì sinh nhiều con Dân Trí
  35. ^ Eugenio, Haidee V. “Birth tourism on the upswing”. Saipan Tribune. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 5 năm 2012. Truy cập ngày 8 tháng 2 năm 2014.
  36. ^ Eugenio, Haidee V. “Many Chinese giving birth in CNMI trying to get around one child policy”. Saipan Tribune. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 12 năm 2012. Truy cập ngày 8 tháng 2 năm 2014.
  37. ^ Người giàu Trung Quốc thuê dân Mỹ đẻ hộ Tiền Phong Online
  38. ^ Trung Quốc: đề nghị thương mại hoá quyền sinh con thứ hai Lưu trữ 2014-02-19 tại Wayback Machine Sài Gòn Tiếp Thị
  39. ^ Du lịch tại Hongkong kết hợp sinh con thứ hai VietnamPlus
  40. ^ Tràn sang Hong Kong chờ "vỡ chum" Thể thao Văn Hoá
  41. ^ Trung Quốc phạt tiền người sang Hong Kong sinh con thứ Lao động
  42. ^ “China: Drug bid to beat child ban”. China Daily. Associated Press. ngày 14 tháng 2 năm 2006. Truy cập ngày 11 tháng 11 năm 2008.

Lấy từ “https://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Chính_sách_một_con&oldid=68581999”