Vai trò của viên chức thiết bị dạy học


Vai trò của viên chức thiết bị dạy học


1. Mối quan hệ của TBDH với các yếu tố của quá trình dạy học

Vai trò của viên chức thiết bị dạy học


    Trong sơ đồ mô tả các yếu tố (thành phần) của quá trình dạy học, 

Chúng ta thấy nếu xét về phương diện nhận thức thì thiết bị dạy và học vừa là “trực quan sinh động”, vừa là “phương tiện” để nhận thức và đôi khi còn là “đối tượng” chứa nội dung cần nhận thức.

Nghiên cứu về vai trò của thiết bị dạy và học, người ta còn dựa trên vai trò của các giác quan trong quá trình nhận thức và đã chỉ ra rằng:

- Tỉ lệ kiến thức thu nhận được qua các giác quan theo tỉ lệ: 1% qua nếm, 1,5% qua sờ; 3,5% qua ngửi, 11% qua nghe, 83% qua nhìn.

- Tỉ lệ kiến thức nhớ được khi học: 20% qua những gì mà ta nghe được; 30% qua những gì mà ta nhìn được; 50% qua những gì mà ta nghe và nhìn được; 80% qua những gì mà ta nói được; 90% qua những gì mà ta nói và làm được.

- Người ta cũng tổng kết: tôi nghe – tôi quên; tôi nhìn – tôi nhớ; tôi làm – tôi hiểu.

Những số liệu trên cho thấy, để quá trình nhận thức đạt hiệu quả cao cần phải thông qua quá trình nghe – nhìn và thực hành. Muốn vậy, phải có phương tiện (thiết bị, công cụ) để tác động và hỗ trợ.

2.Một số vai trò của thiết bị dạy và học

- Cung cấp kiến thức cho HS một cách chắc chắn, chính xác và trực quan; do đó hấp dẫn và kích thích được hứng thú học tập của HS.

- Rút ngắn thời gian giảng dạy mà vẫn bảo đảm HS lĩnh hội đủ nội dung học tập.

Gia tăng cường độ lao động của cả GV và HS; do đó nâng cao hiệu quả dạy học.

Thể hiện được những yếu tố trong thực tế khó hoặc không quan sát, tiếp cận được.

3. Các giá trị giáo dục của thiết bị dạy và học

- Thúc đẩy sự giao tiếp, trao đổi thông tin, do đó giúp HS học tập có hiệu quả.

- Giúp HS tăng cường trí nhớ, làm cho việc học tập được lâu bền.

- Cung cấp thêm kiến thức, kinh nghiệm trực tiếp liên quan đến thực tiễn xã hội và môi trường sống.

- Giúp khắc phục những hạn chế của lớp học bằng cách biến cái không thể tiếp cận được thành cái có thể tiếp cận được. Điều này thực sự đúng khi thực hiện phim ảnh mô phỏng và các phương tiện tương tự.

- Cung cấp kiến thức chung, qua đó HS có thể phát triển các hoạt động học tập khác nhau. 

- Giúp phát triển mối quan tâm về các lĩnh vực học tập và khuyến khích HS tham gia chủ động vào quá trình học tập.

4. Yêu cầu đối với thiết bị dạy và học

Trên cơ sở phân tích thực trạng các thiết bị dạy và học ở trường phổ thông, người ta đã bổ sung các tiêu chí đánh giá đối với các thiết bị dạy học cụ thể đó là:

- Phù hợp với nội dung chương trình, sách giáo khoa và phương pháp dạy học mới;

- Dễ sử dụng, tốn ít thời gian trên lớp;

- Kích thước, màu sắc phù hợp;

Đảm bảo an toàn trong vận chuyển, bảo quản, sử dụng;

- Có tài liệu hướng dẫn cụ thể bằng tiếng việt.

5. Yêu cầu về mặt sư phạm khi sử dụng thiết bị dạy và học

Trên cơ sở phân tích các nguyên tắc sử dụng thiết bị dạy và học, những sai sót thường gặp trong sử dụng thiết bị dạy và học, người ta cũng rút ra những kết luận sư phạm sau:

5.1. Sử dụng thiết bị dạy và học phù hợp với người học

Phải sử dụng kết hợp nhiều loại thiết bị dạy và học một cách có hệ thống để vừa thực hiện được các đặc trưng của đối tượng nhận thức vừa phù hợp với các phong cách học tập khác nhau của người học. 

Cách học (phong cách học) là cách tác động của chủ thể đến đối tượng học hay cách thực hiện hoạt động học; là cách thức thông thường một người nhận và xử lý thông tin, đưa ra quyết định và tạo ra các giá trị. Phong cách của người đọc thể hiện qua hành vi của người đó.

Cách học (hay phong cách học) là tập hợp các yếu tố về mặt sinh lí, tính cách, tình cảm và nhận thức; là những chỉ số tương đối ổn định chỉ rõ một người học cảm nhận, tác động và ứng đáp lại môi trường học tập.

Đương nhiên, không có cách học duy nhất cho mọi người, mọi nội dung (đối tương/ môn học). Do đó, cần:

+ Hướng dẫn một cách có chủ ý về các cách đáp ứng nhu cầu học đa dạng (lời nói/ ngôn ngữ; logic/ toán học; nhìn/ không gian; thân thể/vận động; nhạc/ nghe; giữa các cá nhân với nhau/ trong mỗi người); nghĩa là phải sử dụng nhiều phương pháp, kĩ thuật dạy học khác nhau. Trong đó đặc biệt chú ý kết hợp các dạng hoạt động nghe, nhìn và làm. Có những phương pháp (hình thức) dạy học có thể kết hợp được. Chẳng hạn, dạy theo dự án. Những dự án học tập thường đòi hỏi người học phải tiếp cận đề tài bằng đa dạng kĩ năng: khẩu ngữ, trực quan và xúc cảm. Nó cũng tạo điều kiện cho sinh viên tham gia đóng góp, sử dụng phong cách học tập theo thiên hướng của mình và trải nghiệm các phong cách học tp khác. Người học có phong cách năng hoạt có thể tham gia một cách có hiệu quả thông qua sự chủ động và nhiệt tình nêu ra các ý tưởng của mình; người học có thiên hướng thực tế sẽ giúp kết hợp các bằng chứng về những kinh nghiệm/ kiến thức trước đó để hợp nhất chúng vào trong dự án.

5.2. Sử dụng thiết bị dạy và học phù hợp với nội dung học tập

Khi lựa chọn các thiết bị dạy và học, phải nghiên cứu kĩ năng đặc điểm nội dung học tập, ưu (nhược) điểm của từng loại phương tiện để thực hiện cho đồng bộ. Muốn vậy, khi thiết kế bài dạy (soạn giáo án), cần phải:

- Đề ra kết quả mong đợi (mục tiêu bài học) cho người học để dễ kiểm soát trực tiếp.

- Thiết kế các hoạt động dạy và học phù hợp với kiến thức đã có, với động lực và mức độ quan tâm của HS bằng cách lựa chọn nội dung và phương pháp dạy học để liên hệ giữa trình độ của HS với mức độ nội dung mà các em kì vọng phải đạt được.                          

- Thường xuyên điều chỉnh kế hoạch này trên cơ sở thông tin phản hồi từ phía người học.

- Cần chú trọng tới những nội dung mang tính khái niệm, nguyện lí chung hơn là những nội dung mang tính cụ thể, vụn vặt.

5.3. Dùng thiết bị dạy và học để tổ chức hoạt động học tập cho HS

Dùng thiết bị dạy và học chủ yếu là để tổ chức các hoạt động học tập của HS chứ không đơn thuần chỉ để trình chiếu thông tin hoặc minh hoạ bài dạy. 

Các nghiên cứu về cấu trúc tâm lí của hoạt động đã khẳng định rằng, mỗi hoạt động cụ thể bao giờ cũng có động cơ thúc đẩy hoạt động ấy. Hoạt động gồm các hành động, mỗi hành động đều nhằm tới một mục đích nào đó. Hành động lại bao gồm các động tác, tác (tổ hợp của các cử động riềng rẽ) và nó phụ thuộc vào điều kiện, phương tiện để đạt tới mục đích định trước. Các thành phần của hoạt động trí óc được gọi là thao tác (chẳng hạn phân tích, tổng hợp, so sánh,...); còn các thành phần của hoạt động vật chất, biểu hiện bên ngoài thường được gọi là động tác (ví dụ: cầm, nắm, . . ). 

Như vậy, cách học ở mức độ cụ thể chính là cách tác động của chủ thể đến đối tượng học (tức nội dung học), nó sẽ phụ thuộc vào điều kiện, phương tiện học cụ thể. Khi tổ chức các hoạt động học tập cần chú ý: 

- Các hoạt động học tập cần khơi dậy tính tò mò đối với người học (GV cần khuyến khích người học đặt các câu hỏi tại sao, như thế nào và điều gì sẽ xảy ra nếu?). 

- Các hoạt động học tập phải thiết thực và phù hợp với mức độ phát triển về xã hội và trình độ của HS. 

- Các hoạt động học tập phải được liên hệ với những kinh nghiệm sống hàng ngày của HS (theo đó các em sẽ hiểu được ý nghĩa của việc học). 

- HS cần đạt được sự thành công và được tôn trọng nếu ta muốn các em có được thái độ tích cực đối với việc học tập. 

- Cần xem xét kiến thức, kĩ năng và thái độ mà HS có được trong chính môi trường lớp học.

- Cần tính đến bối cảnh ngôn ngữ và văn hoá đa dạng của HS.

5.4. Một số khó khăn chung trong việc sử dụng thiết bị dạy và học.

Khó khăn chủ yếu trong việc sử dụng thiết bị dạy và học ở trường học là thiết bị dạy và học thiếu, không đồng bộ; bố trí lớp học và thời khoá biểu không thuận tiện cho việc sử dụng, khai thác, bảo quản thiết bị dạy và học; chưa có quy định bắt buộc về việc sử dụng thiết bị dạy và học.... Khắc phục khó khăn trên, về nguyên tắc là phải xây dựng được các phòng học bộ môn (phòng học riêng cho từng bộ môn hoặc liên môn, tại đó hệ thống phương tiện nghe nhìn đã được lấp đặt cố định, hệ thống thiết bị dạy học được chuẩn bị sẵn sàng cùng với hệ thống bàn ghế phù hợp với đặc trưng bộ môn).

Một số vấn đề về cơ sở vật chất và thiết bị dạy học ở trường phổ thông.

1. Khái niệm Hệ thống cơ sở vật chất và thiết bị  dạy học

Hệ thống cơ sở vật chất (CSVC) và thiết bị dạy học (TBDH) có hai nhóm, đó là:

a) CSVC: Trường sở, đồ gỗ và các thiết bị dùng chung. Trường sở có: khối học tập, khối các phòng chuyên dụng (thí nghiệm, thực hành, phòng tin học, phòng truyền thống, phòng đa chức năng phục vụ văn hoá, văn nghệ, thể dục thể thao, phòng nghe nhìn v.v…); 

b) TBDH: Là những phương tiện vật chất cần thiết giúp cho GV và HS tổ chức quá trình giáo dục, giáo dưỡng hợp lí, có hiệu quả các môn học ở nhà trường. 

Thiết bị dạy và học bao gồm các các phương tiện mang tin, phương tiện kỹ thuật dạy học và phương tiện tương ứng được sử dụng trực tiếp trong quá trình dạy học để truyền tải nội dung, tương tác với phương pháp dạy học nhằm đạt mục tiêu xác định.

Thiết bị dạy và học là toàn bộ sự vật, hiện tượng tham gia vào quá trình dạy học, đóng vai trò là công cụ hay điều kiện để GV và HS sử dụng làm khâu trung gian tác động vào đối tượng dạy học. Thiết bị dạy và học có chức năng khơi dậy, dẫn truyền và làm tăng sức mạnh tác động của người dạy đến nội dung và người học.

Như vậy, cần quan tâm tới các dấu hiệu sau đây của thiết bị dạy và học:

- Một vật (hay một hiện tượng) nào đó được coi là thiết bị dạy và học khi nó được đặt trong mối quan hệ giữa nó với đối tượng dạy: nghĩa là khi được GV hay học viên dùng làm công cụ hay điều kiện để hoạt động dạy học được tiến hành (đều là khâu trung gian nhưng công cụ thiên về mặt tác động thực tế, còn phương tiện thiên về mặt chức năng).

- Phương tiện có chức năng khơi dậy, dẫn truyền và làm tăng sức mạnh tác động của GV hoặc học viên lên nội dung dạy học. Do đó một phương tiện chỉ trở thành thiết bị dạy và học khi GV và HS biết cách sử dụng nó; mặt khác, sẽ có sự phân biệt giữa phương tiện dạy học của GV và phương thức học tập của HS trong sự quan hệ chuyển hoá lẫn nhau.

- Yếu tố quyết định trình độ hoạt động dạy học không phải dạy và học cái gì, mà dạy và học cái đó bằng phương pháp và phương tiện nào?  Để nâng cao hiệu quả dạy học, cần phải nâng cao tính hiệu quả dạy học, cần phải nâng cao tính hiện đại của các thiết bị dạy và học và trình độ sử dụng chúng của người dạy và người học.

c) Đa phương tiện

Đa phương tiện là sự tích hợp nhiều phương tiện, nhiều kênh thông tin khác nhau mang tính hệ thống với sự tương tác đa chiều, đa liên kết, đa môi trường trong cùng một thời điểm.

Đa phương tiện là một hệ thống kỹ thuật dùng để trình diễn các dữ liệu và thông tiện, sử dụng đồng thời các hình thức chữ viết, âm thanh, hình ảnh, động hình (qua hệ thống computer); trong đó tạo khả năng tương tác giữa người sử dụng và hệ thống.

Trên quan điểm công nghệ, dạy học với đa phương tiện là loại hình công nghệ kép, bao gồm công nghệ về tổ chức quá trình nhận thức và công nghệ về phương tiện kĩ thuật dạy học. Hai công nghệ thành phần này phải được kết hợp với nhau theo quan điểm hệ thống, nghĩa là chúng phải tạo thành một hệ toàn vẹn trong sự tương tác 

Vai trò của viên chức thiết bị dạy học


d) Sơ đồ hệ thống CSVC và TBDH 

2. Phân loại thiết bị dạy và học

Thiết bị dạy và học là tập hợp các đối tượng vật chất mà người GV sử dụng với tư cách là phương tiên điều khiển hoạt động nhận thức của HS; còn đối với HS, đó là các nguồn tri thức, là phương tiện giúp HS lĩnh hội nội dung dạy học, hình thành kĩ năng. Nói cách khác, thiết bị dạy học là hệ thống đối tượng vật chất, phương tiện kĩ thuật được GV và HS sử dụng trong quá trình dạy học.

Người ta thường phân ra:

- Thiết bị dạy và học truyền thống, là những phương tiện đã được dùng từ xưa tới nay trong dạy học; ví dụ bảng viết, tranh vẽ, mô hình…

- Thiết bị dạy và học hiện đại, là những thiết bị dạy và học mới được đưa vào nhà trường; ví dụ các sản phẩm công nghệ điện tử viễn thông như camera số, máy chiếu đa phương tiện…

Những thiết bị dạy và học thường dùng trong dạy học ở trường THPT phổ thông là:

+ Hình vẽ (tranh giáo khoa, hình vẽ trên bảng của GV);

+ Mô hình vật chất (tĩnh và động);

+ Vật thật (dụng cụ, đồ dùng, chi tiết máy, các máy móc, thiết bị kĩ thuật trong dạy thực hành,…);

+ Các phương tiện kĩ thuật dạy học (máy chiếu bản trong, máy chiếu vật thể, máy vi tính, ti vi và đầu video/VCD/DVD, máy chiếu đa phương tiện,…).

3. Sử dụng TBDH để nâng cao chất lượng giáo dục và kĩ năng thực hiện các PPGD tích cực.

3.1. Vì sao phải sử dụng TBDH để nâng cao chất lượng giáo dục và kĩ năng thực hiện các PPGD tích cực

Quá trình dạy học cấu thành bởi nhiều yếu tố có liên quan chặt chẽ và tương tác nhau. Các thành tố cơ bản của quá trình giáo dục là: Mục tiêu – nội dung – phương pháp – Kiểm tra, đáng giá- GV - HS – HTDH- PTDH

Các yếu tố cơ bản này tạo thành quá trình sư phạm hẹp. Nếu kể đến các yếu tố khác như điều kiện tự nhiên, xã hội, văn hoá… Đó là quá trình sư phạm rộng đầy đủ thành tố hơn. Trong phạm vi tư liệu, chúng ta chỉ chủ yếu đề cập đến quá trình sư phạm hẹp và hệ thống cơ sở vật chất  và TBDH phục vụ cho quá trình này.

Theo sơ đồ trên ta thấy các cặp thành tố có quan hệ tương hỗ hai chiều. Cả quá trình có nhiều mối quan hệ và việc điều khiển tối ưu quá trình này có thể được coi là nghệ thuật về mặt sư phạm TBDH có mặt trong quá trình nêu trên có vai trò tương đương với các thành tố khác và không thể thiếu một thành tố nào.

Lý luận dạy học đã khẳng định quá trình dạy học là một quá trình trong đóhoạt động dạy và hoạt động học là những hoạt động khăng khít giữa các đối tượng xác định và có mục đích nhất định.

Để quá trình dạy học có chất lượng và hiệu quả cao, con người đã tìm ra và sử dụng nhiều phương pháp khác nhau cho mục đích này và theo đó TBDH phục vụ cho phương pháp dạy học cũng ra đời và  phát triển.

Đứng về mặt nội dung và phương pháp dạy học thì TBDH  đóng vai trò hỗ trợ tích cực. Vì có TBDH tốt thì  mới có thể tổ chức được quá trình dạy học khoa học, đưa người học tham gia thực sự vào quá trình này, tự khai thác và tiếp nhận tri thức dưới sự hướng dẫn của người dạy. TBDH phải đủ và phù hợp mới triển khai được các phương pháp dạy học một cách hiệu quả. Tuy nhiên, đứng trên một góc độ khác thì TBDH còn là bộ phận không thể thiếu được của nội dung và PPGD.

TBDH là các sản phẩm khoa học kỹ thuật có chức năng xác định và mang tính mục đích sư phạm rất cao, chúng chứa đựng một tiềm năng tri thức to lớn đồng thời đóng  vai trò là đối tượng nhận thức (ví dụ: kính hiển vi khi dùng để quan sát thì nó là công cụ. Phương tiện học dùng để quan sát các vật nhỏ vượt quá khả năng quan sát của mắt thường, nhưng trong môn quang học thì kính hiển vi lại là đối tượng cần được người học nhận thức về mặt cấu tạo và các quy luật quang học. TBDH là bộ phận của nội dung và phương pháp, chúng có thể vừa là phương tiện để nhận thức, vừa là đối tượng chứa nội dung cần nhận thức.

Ngoài mối quan hệ với mục tiêu, nội dung, phương pháp, TBDH còn có quan hệ chặt chẽ với các yếu tố GV- người tổ chức, điều khiển và HS - chủ thể tự điều khiển của quá trình dạy học tạo nên “vùng hợp tác sinh động” giữa những người tham gia quá trình sư phạm với các yếu tố khác của quá trình dạy và học.

Việc dạy học theo cách truyền thụ một chiều đang dần được thay bằng cách dạy học coi người học là trung tâm của quá trình nhận thức. Hướng đổi mới tích cực này đã dựa trên  một số thay đối cơ bản có liên quan chặt chẽ đến TBDH:

- Người học được chủ động hơn trong công việc, được tham gia tích cực vào quá trình học tập.

- Người học được tổ chức hoạt dộng được làm nhiều hơn thông qua việc làm đó mà chiếm lĩnh tri thức.

Khi ta sử dụng thuật ngữ  “đổi mới phương pháp dạy học”. Cái cần đổi mới chỉ là cách thức, điều kiện, công nghệ mới nhằm thực hiện phương pháp đã có mà thôi (VD: có thể thực hiện các phương pháp thực nghiệm cố điển bằng công nghệ rất hiện đại như tia sáng thường trong thí nghiệm quang học cổ điển được thay bằng tia Laser...). Như vậy, TBDH góp phần nâng cao chất lượng của các phương pháp dạy học đã có.

Xuất phát từ đặc trưng tư duy hình ảnh, tư duy cụ thể của con người, trong quá trình dạy và học, sự trực quan đóng vai trò quan trọng đối với việc lĩnh hội kiến thức của người học, đặc biệt quan trọng là kênh nhìn. Không ít nội dung học tập phức tạp cần đến sự hỗ trợ tích cực của phương tiện trực quan mới giải quyết được: định luật, hiện tượng trừu tựơng trong khoa học tự nhiên, trong kỹ thuật chuyên ngành, tin học v.v… HS rất cần được trực tiếp làm thực nghiệm, được lắp rắp: thao tác, quan sát, nhận xét bằng việc sử dụng các dụng cô, phương tiện cô thể. Nghĩa là học bằng hành.

Để học tập khoa học theo phương pháp được khám phá, chứng minh kiến thức, thể hiện tường minh phương pháp nghiên cứu và kỹ năng thì các phương tiện, dụng cụ phòng thí nghiệm phòng thực hành có vai trò và tiềm năng to lớn.

Yêu cầu trực quan cao trong việc quan sát, trình diễn vận hành của cơ chế, cấu trúc, vận động,  mô hình, mô phỏng: các phương tiện Nghe - nhìn có ưu thế rõ rệt.

3.2. Vai trò của các TBDH trong việc nâng cao khả năng sư phạm

Thực hiện các PPGD trực quan, thực nghiệm, tạo những “vùng hợp tác” giữa GV và HS, tạo ra khả năng thực hành, củng cố kiến thức, rèn luyện kỹ năng làm việc, học tập, sự khéo léo chân tay, bồi dưỡng khả năng tự học, tự chiếm lĩnh tri thức, tạo ra sự hứng thú, lôi cuốn khi học, tiết kiệm thời gian trên lớp, cải tiến các hình thức lao động SP, tạo khả năng tổ chức một cách khoa học và điều khiển hoạt động dạy học.

3.3. Những điểm cần chú ý khi xây dựng, lựa chọn, sử  dụng TBDH

- Phù hợp đối tượng: phải xem xét đặc điểm và khả năng nhận thức của HS, khi tổ chức và thiết kế cơ sở hạ tầng trường học, lựa chọn các mẫu TBDH, lựa chọn nguyên vật liệu cho công tác giảng dạy  học tập.

- Tính khoa học: là mức độ chuẩn xác trong việc phản ánh hiện thực.

- Tính sư phạm: Là sự phù hợp với yêu cầu về mặt sư phạm như độ rõ, kích thước, màu sắc, dễ sử dụng, phù hợp với tâm sinh lý HS.

- Tính kinh tế: Là giá thành tương xứng với hiệu quả giáo dục đào tạo.

TBDH cũng được đánh giá theo một số tiêu chuẩn trên.

Công thức ước lệ sau đây thể hiện sự đánh giá chung nhất đối với thiết bị dạy học:

Hiệu quả đầu tư = Hiệu quả sư phạm / giá thành TBDH     

Như vậy, thiết bị dạy học có thể đơn giản hay hiện đại nhưng qua sử dụng, nó phải cho kết quả khoa học, đảm bảo yêu cầu về mặt mỹ quan, sư phạm, an toàn và hợp lý, tương xứng với hiệu quả mà nó mang lại và không nhất thiết là những thiết bị phải đắt tiền.

4. Sử dụng tổng hợp các phương tiện dạy học trong đổi mới PPGD ở trường phổ thông.

4.1. Tại sao phải sử dụng tổng hợp các phương tiện dạy học

Bất kỳ một phương tiện trực quan nào cũng chỉ mang những thông tin khoa học nhất định và có chức năng sư phạm riêng biệt. Chúng cần được bổ sung lẫn nhau để góp phần xây dựng một cách hoàn chỉnh những biểu tượng, hình ảnh, khái niệm, quy luật thích hợp của đối tượng nghiên cứu. Lời nói của GV, câu định nghĩa trong sách giáo khoa có thể cung cấp một loại thông tin hoàn chỉnh, có hệ thống. Các vật thực, các đối tượng tự nhiên cho biết hình dáng thực, kích thước, màu sắc bề ngoài của chúng làm cho HS hiểu được những tính chất vật lý của đối tượng nghiên cứu. Thí nghiệm cho HS hiểu được bản chất của các hiện tượng và các quá trình xảy ra trong tự nhiên, trong phòng thí nghiệm hay trong sản xuất. Bảng vẽ, tranh, sơ đồ, hình vẽ có tác dụng định hướng để nhấn mạnh những vấn đề, những điểm chủ yếu cần chú ý trong quá trình tiếp thu kiến thức. Phim ảnh giúp khám phá ra những điều không trực tiếp thấy được hoặc khó thấy trong thực tế của các sự vật và hiện tượng, xây dựng mối liên hệ giữa vật chất và hiện tượng, phản ánh được thuộc tính của đối tượng nghiên cứu. Phim còn có tác dụng giúp cho HS tri giác được một cách liên tiếp, kế tục nhau của một quá trình, một hành động hay hoạt động của đối tượng ở trạng thái động.

Kinh nghiệm sư phạm cho thấy rằng muốn HS nắm được đầy đủ các kiến thức khoa học về các đối tượng nghiên cứu thì trong quá trình dạy học phải sử dụng phối hợp một cách hợp lý các phương tiện trực quan dạy học và kết hợp chặt chẽ với lời nói của GV.

4.2. Các hình thức sử dụng phối hợp các phương tiện dạy học

Có nhiều dạng phối hợp khác nhau các phương tiện trực quan dạy học trong bộ đồ dùng dạy học tối ưu. Người ta thường sử dụng hai kiểu phối hợp sau đây trong quá trình dạy học:

a) Sử dụng phối hợp bộ đồ dùng dạy học được tiến hành khi HS thu lượm các kiến thức bằng kinh nghiệm, còn phần lý thuyết thì chưa được nghiên cứu. Trong trường hợp này, sự phối hợp được bắt đầu từ việc sử dụng các phương tiện dạy học giúp cho HS hình thành các biểu tượng cụ thể, sau đó đến các phương tiện góp phần vào việc tư duy dựa vào các tài liệu đã tri giác và kiểm tra những kết luận ở trong thực tiễn.

Việc sử dụng phối hợp các phương tiện này không những chỉ phù hợp với chức năng của từng loại phương tiện, mà còn phù hợp với việc nghiên cứu từng đối tượng cụ thể trong mỗi quá trình sư phạm nhất định.

b) Sự phối hợp các phương tiện trực quan dạy học được tiến hành khi HS đã nắm được lý thuyết và nghiên cứu những yếu tố mới trong bài thì việc sử dụng theo tiến trình ngược lại. Tức là trước hết dùng các tài liệu để kích thích tư duy trừu tượng của HS, sau đó sử dụng các phương tiện dạy học góp phần vào chứng minh những kết luận rút ra đến việc hình thành các biểu tượng cụ thể.

4.3. Những điều cần chú ý khi sử dụng phối hợp phương tiện trực quan

a) Khi sử dụng các phương tiện trực quan, không những chỉ sử dụng mọi khả năng thích hợp nhất của mỗi loại mà còn phải kết hợp chặt chẽ giữa việc quan sát các hình ảnh của sự vật với việc quan sát các quá trình, các hiện tượng của sự vật (với thí nghiệm hoá học, GV yêu cầu HS quan sát không chỉ các hiện tượng xảy ra, mà còn cả quá trình, cả diễn biến của các phản ứng hoá học). Qua việc kết hợp các sự quan sát đó, đồng thời kết hợp với lời hướng dẫn của GV trong khi biểu diễn đã thúc đẩy sự phát triển tư duy trừu tượng và sáng tạo cho HS.

b) Để tập trung chú ý vào những vấn đề bản chất nhất của bài học, cần phải lựa chọn các phương tiện nào thích hợp nhất, có tác dụng “mạnh” nhất đối với bài học đó. Những phương tiện đó phải diễn tả nội dung chính của bài học. Phải sử dụng đúng lúc, đúng chỗ, đúng liều lượng mỗi loại phương tiện.

c) Nghiên cứu, xây dựng, chế tạo và trang bị bộ phương tiện dạy học tối ưu phục vụ cho từng đề tài, từng mục và từng chương trình các bộ môn là điều kiện quan trọng góp phần nâng cao hiệu quả của việc sử dụng phối hợp các phương tiện dạy học.

4.4.  Bộ phương tiện dạy học trực quan tối ưu

a) Bộ phương tiện dạy học trực quan tối ưu là tổng hợp các vật dụng dùng trong việc dạy học, đáp ứng đầy đủ và thích hợp nhất với yêu cầu khoa học để nghiên cứu các vấn đề cụ thể của nội dung bài học được hoàn thiện cao về mặt kỹ thuật, có giá thành hạ; chúng góp phần làm cho GV giảng dạy một cách tốt nhất (mất ít thời gian, ít sức lực và ít phương tiện nhất) làm cho HS nắm được tốt nhất những kiến thức khoa học, kỹ năng, kỹ xảo, trau dồi thế giới quan khoa học.

b) Bộ phương tiện dạy học tối ưu cho mỗi bộ môn có thể bao gồm các loại sau đây

- Sách giáo khoa và các tài liệu tham khảo.

- Các vật liệu dạy học tự nhiên (vật thực, mẫu sưu tập, tiêu bản vật nhồi .v.v.) gồm 2 loại để GV biểu diễn và tài liệu phân phát cho từng HS.

- Các bộ đồ dùng thí nghiệm và thực hành (dùng cho GV và HS).

- Bộ vật liệu in: Tranh, ảnh, sơ đồ, hình vẽ, bảng.

- Các loại mô hình.

- Các tài liệu nghe- nhìn: Computer nối mạng internet, các phần mềm dạy học, Đĩa CD, DVD, băng ghi âm, băng video - cassette, phim giáo khoa, phim đèn chiếu, tấm bản dương, tấm bản trong v.v...

- Các tài liệu hướng dẫn phương pháp sử dụng các tài liệu nói trên cho từng chương từng bài.

c) Khi chế tạo các phương tiện trong bộ đồ dùng dạy học tối ưu cần phải đạt những yêu cầu sau:

- Nội dung các phương tiện dạy học cần phải thống nhất về mặt tư tưởng, lý luận, phù hợp với yêu cầu khoa học của chương trình từng môn học.

- Các nguyên tắc giáo dục trong từng loại phương tiện phải thống nhất.

- Mỗi loại trong bộ đồ dùng dạy học phải được lựa chọn cẩn thận, chúng phải hỗ trợ lẫn nhau, bổ sung cho nhau, không trùng lặp, phải đảm bảo tính chất liên tục, tính logic, hợp với quy luật nhận thức của HS.

- Sách giáo khoa phải giữ vai trò trung tâm trong bộ đồ dùng dạy học tối ưu đó.

d) Việc sử dụng phối hợp các phương tiện trực quan trong quá trình dạy học có yêu cầu khách quan là các phương tiện và thiết bị dạy học phải được bố trí tập trung, luôn luôn bên cạnh người dùng (tận tay GV) để có thể sử dụng chúng bất kỳ lúc nào, đồng thời các phương tiện và thiết bị đó phải được bảo quản một cách tốt nhất, hợp lý nhất.

e) Kinh nghiệm sư phạm nhiều năm của nhiều nước đã chứng tỏ rằng việc giảng dạy, học tập các môn học trong các phòng học đặc biệt dành cho môn học đó gọi là “Phòng bộ môn” là điều kiện tốt nhất, thích hợp nhất để thực hiện việc sử dụng phối hợp đạt hiệu quả cao. Mặt khác, dạy và học trong phòng bộ môn còn có nhiều tính chất ưu việt khác, đáp ứng với yêu cầu của phương pháp dạy học hiện đại.

Bổ xung

3. Vai trò của phương tiện trong quá trình dạy học

1.3.1. Vai trò chung

Khoa học và công nghệ ngày càng phát triển thì phương tiện dạy học cũng ngày càng trở thành yếu tố quan trọng, có ảnh hưởng lớn tới chất lượng và hiệu quả của quá trình dạy học. Đặc biệt, trong các môn học thuộc ngành khoa học tự nhiên thì có những nội dung sẽ không thể thực hiện được nếu thiếu phương tiện dạy học.

Trước đây, khi đề cập tới các thành tố của quá trình dạy học thường chỉ chú trọng tới 3 thành phần là mục đích, nội dung và phương pháp dạy học. Ngày nay, do sự phát triển về chất, quá trình dạy học được xác định gồm 6 thành tố là: mục đích (hẹp hơn là mục tiêu), nội dung, phương pháp, phương tiện dạy học, hình thức tổ chức dạy học và kiểm tra đánh giá. Các thành tố này có quan hệ tương tác hai chiều lẫn nhau (Hình 1.1)

học

Hình 1.1: Mối quan hệ giữa các thành tố của quá trình dạy học

Trong sơ đồ trên, nếu xét về phương diện nhận thức thì phương tiện dạy học vừa là cái để học sinh “trực quan sinh động”, vừa là phương tiện để giúp quá trình nhận thức được hiệu quả.

Nghiên cứu về vai trò của phương tiện dạy học, người ta còn dựa trên vai trò của các giác quan trong quá trình nhận thức và đã chỉ ra rằng:

- Kiến thức thu nhận được qua các giác quan theo tỉ lệ: 1% qua nếm, 1,5% qua sờ; 3,5% qua ngửi, 11% qua nghe, 83% qua nhìn (Tô Xuân Giáp).

- Tỉ lệ kiến thức nhớ được sau khi học: 20% qua những gì mà ta nghe được; 30% qua những gì mà ta nhìn được; 50% qua những gì mà ta nghe và nhìn được; 80% qua những gì mà ta nói được; 90% qua những gì mà ta nói và làm được (Tô Xuân Giáp).

- Cũng theo Tô Xuân Giáp, ở Ấn độ, người ta cũng tổng kết: tôi nghe – tôi quên; tôi nhìn – tôi nhớ; tôi làm – tôi hiểu.

Những số liệu trên cho thấy, để quá trình nhận thức đạt hiệu quả cao cần phải thông qua quá trình nghe – nhìn và thực hành. Muốn vậy, phải có phương tiện (thiết bị, công cụ) để tác động và hỗ trợ.

1.3.2. Vai trò đối với giáo viên

- Hỗ trợ hiệu quả cho giáo viên trong quá trình tổ chức các hoạt động nhận thức cho người học bởi đảm bảo quá trình dạy học được sinh động, thuận tiện, chính xác.

- Rút ngắn thời gian giảng dạy mà vẫn bảo đảm người học lĩnh hội đủ nội dung học tập một cách vững chắc.

- Giảm nhẹ cường độ lao động của giáo viên, do đó nâng cao hiệu quả dạy học.

1.3.3. Vai trò đối với người học

- Kích thích hứng thú học tập cho người học, tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình lĩnh hội kiến thức của người học.

- Giúp người học tăng cường trí nhớ, làm cho việc học tập được lâu bền.

- Là phương tiện giúp người học hình thành và rèn luyện các kĩ năng, kĩ xảo cả thao tác trí tuệ lẫn thao tác vật chất. Cung cấp thêm kiến thức, kinh nghiệm trực tiếp liên quan đến thực tiễn xã hội và môi trường sống.

1.4. Yêu cầu đối với phương tiện dạy học

Để thực hiện tốt vai trò của mình, phương tiện phải đáp ứng được một số yêu cầu dưới đây: - Phù hợp với nội dung chương trình, giáo trình, phương pháp dạy học mới và khả năng lĩnh hội của người học; - Đảm bảo tính nhân trắc học; - Dễ sử dụng, đảm bảo độ tin cậy cao, chắc chắn, có độ bền cao; - Kích thước, màu sắc phù hợp; - Đảm bảo an toàn trong vận chuyển, bảo quản, sử dụng; - Đảm bảo tính kinh tế; - Có tài liệu hướng dẫn cụ thể.

1.5. Sử dụng phương tiện dạy học theo hướng tích cực hóa người học

1.51. Nguyên tắc sử dụng phương tiện dạy học

a) Đảm bảo an toàn: Đây là một nguyên tắc quan trọng khi sử dụng thiết bị dạy học. Các thiết bị dạy học được sử dụng phải an toàn với các giác quan của học sinh, đặc biệt khi sử dụng các thiết bị nghe nhìn. Do vậy, trong quá trình sử dụng, giáo viên cần chú ý một số vấn đề an toàn như: an toàn điện, an toàn cho thị giác, an toàn cho thính giác ...

b) Đảm bảo nguyên tắc 3Đ: đúng lúc, đúng chỗ và đủ cường độ. - Nguyên tắc sử dụng phương tiện dạy học “Đúng lúc”

Sử dụng đúng lúc phương tiện dạy học là việc trình bày phương tiện vào lúc cần thiết, lúc học sinh cần được quan sát, gợi nhớ kiến thức, hình thành kĩ năng trong trạng thái tâm, sinh lí thuận lợi nhất (trước đó, GV đã dẫn dắt, gợi mở, nêu vấn đề chuẩn bị).

4

Việc sử dụng phương tiện dạy học đạt hiệu quả cao nếu được giáo viên đưa đúng thời điểm nội dung và phương pháp dạy học cần đến. Cần đưa phương tiện theo trình tự bài giảng, tránh trưng bày đồng loạt trên bàn, giá, tủ trong một tiết học cũng như biến lớp học thành một phòng trưng bày.

- Nguyên tắc sử dụng phương tiện dạy học “Đúng chỗ”

Sử dụng phương tiện dạy học đúng chỗ là tìm vị trí để giới thiệu phương tiện trên lớp học

hợp lí nhất, giúp cho học sinh có thể sử dụng nhiều giác quan nhất để tiếp xúc với phương tiện một cách đồng đều ở mọi vị trí trong lớp học.

Vị trí trình bày phương tiện phải đảm bảo các yêu cầu chung cũng như riêng của nó về chiếu sáng, thông gió và các yêu cầu kĩ thuật đặc biệt khác.

Các phương tiện phải được giới thiệu ở những vị trí đảm bảo tuyệt đối an toàn cho giáo viên và học sinh trong và ngoài giờ dạy. Đồng thời phải bố trí sao cho không làm ảnh hưởng tới quá trình làm việc, học tập của các lớp khác.

Phải bố trí chỗ để phương tiện dạy học tại lớp sau khi dùng để không làm phân tán tư tưởng của học sinh khi tiếp tục nghe giảng.

- Nguyên tắc sử dụng phương tiện dạy học “Đủ cường độ”.

Từng loại phương tiện có mức độ sử dụng tại lớp khác nhau. Nếu kéo dài việc trình diễn

hoặc dùng lặp lại một loại phương tiện quá nhiều lần trong một buổi giảng, hiệu quả của chúng sẽ giảm sút. Theo số liệu của các nhà sinh lí học, nếu như một dạng hoạt động được tiếp tục trên 15 phút thì khả năng làm việc sẽ giảm sút rất nhanh. Nên sử dụng phương tiện nghe nhìn không quá 3 đến 4 lần trong một tuần và kéo dài không quá 20 - 25 phút trong một tiết học.

c) Đảm bảo tính hiệu quả

Bảo đảm tính hệ thống, đồng bộ và trọn vẹn về nội dung dạy học (sử dụng kết hợp nhiều loại phương tiện dạy học một cách có hệ thống, đồng bộ và trọn vẹn; các phương tiện dạy học không mâu thuẫn, loại trừ nhau.

Phù hợp với đối tượng học sinh; với nhân trắc và tiêu chuẩn Việt Nam.

Bảo đảm sự tương tác trong hệ thống dạy học

"Nói hay chưa phải là dạy, chỉ xem chưa phải là học”.

Nói đến tương tác là nói đến sự “hợp tác”, “cộng tác”, tác động qua lại giữa giáo viên, học

sinh với các thành tố của quá trình dạy học.

Phương tiện dạy học dù có hiện đại đến đâu thì bản thân nó cũng không thể thay thế được

vai trò của giáo viên mà trước hết là phương pháp dạy học của họ. Ngược lại, phương pháp dạy học của giáo viên cũng lại chịu sự qui định của điều kiện, phương tiện dạy học cụ thể. Vì vậy, giữa các yếu tố nội dung, phương tiện, phương pháp dạy học có mối quan hệ tác động qua lại lẫn nhau và với chủ thể học tập (người học). Mối quan hệ đó chính là sự “tương tác” chủ yếu giữa các yếu tố của hệ thống dạy học. Sự tương tác đa chiều này tạo nên hiệu quả, chất lượng của quá trình dạy học.

Vai trò của viên chức thiết bị dạy học