Vì sao Hội nghị trung ương 8 (1941) có tầm quan trọng đặc biệt đối với cách mạng tháng Tám 1945?Câu 61341 Vận dụng Vì sao Hội nghị trung ương 8 (1941) có tầm quan trọng đặc biệt đối với cách mạng tháng Tám 1945? Show
Đáp án đúng: d Phương pháp giải Dựa vào nội dung của Hội nghị tháng 8-1941 để phân tích, đánh giá. Phong trào giải phóng dân tộc từ tháng 9 – 1939 đến tháng 3 – 1945 --- Xem chi tiết Vì sao Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 8 (5-1941) có tầm quan trọng đặc biệt đối với Cách mạng tháng Tám 1945?Vì sao Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 8 (5-1941) có tầm quan trọng đặc biệt đối với Cách mạng tháng Tám 1945? A. Chủ trương giương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc. B. Hoàn chỉnh chủ trương chiến lược được đề ra từ Hội nghị Trung ương tháng 11-1939. C. Giải quyết được vấn đề ruộng đất cho nông dân. D. Củng cố được khối đoàn kết toàn dân. Hướng dẫn Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 8 có ý nghĩa lịch sử to lớn, đã hoàn chỉnh chủ trương được đề ra tại Hội nghị trung ương tháng 11 – 1939 nhằm giải quyết mục tiêu số 1 của cách mạng là dân tộc giải phóng và đề ra nhiều chủ trương sáng tạo để thực hiện mục tiêu ấy. Ngân hàng trắc nghiệm lịch sử Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 8 (5 – 1941) có tầm quan trọng đặc biệt đối với Cách mạng tháng Tám 1945 vì đãHội nghị Trung ương Đảng lần thứ 8 (5 – 1941) có tầm quan trọng đặc biệt đối với Cách mạng tháng Tám 1945 vì đã A. giải quyết được vấn đề ruộng đất cho nông dân. B. củng cố được khối đoàn kết toàn dân tộc. C. có chủ trương giương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc, tạm gác vấn đề ruộng đất. D. hoàn chỉnh chuyển hướng chỉ đạo chiến lược từ Hội nghị Trung ương (11/1939). Chủ tịch Hồ Chí Minh với việc lựa chọn thời cơ trong cách mạng tháng tám năm 194519/08/2021 16:14:41 CH Vào lúc 14 giờ ngày mồng 2 tháng 9 năm 1945, tại vườn hoa Ba Đình, trước hàng chục vạn đồng bào thủ đô Hà Nội và các tỉnh lân cận, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc bản Tuyên ngôn độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa, Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á, mở ra bước ngoặt lớn của cách mạng Việt Nam, đưa dân tộc ta bước sang kỷ nguyên mới - kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trịnh trọng tuyên bố với thế giới: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do và độc lập. Toàn thể Nhân dân Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”.Cách mạng tháng Tám năm 1945 là một trong những trang chói lọi nhất trong lịch sử của dân tộc ta, là dấu mốc lớn trên con đường phát triển trong suốt chiều dài mấy nghìn năm dựng nước, giữ nước của dân tộc Việt Nam. Chớp thời cơ chiến lược “ngàn năm có một”, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nhân dân Việt Nam tiến hành cuộc tổng khởi nghĩa “long trời, lở đất” giành chính quyền trong cả nước. Việc dự báo đúng thời cơ, nhận định đúng thời cơ và nghệ thuật chớp thời cơ của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng là vô cùng quan trọng, góp phần rất lớn, quyết định đến sự thành công của Cách mạng tháng Tám năm 1945. Ngược dòng lịch sử, ngay từ khi còn bị giam cầm trong các nhà tù của Quốc dân Đảng, Hồ Chí Minh đã luôn thức được vấn đề thời cơ trong quá trình chỉ đạo cách mạng Việt Nam. Trong tác phẩm Nhật ký trong tù, Người đã viết: “Thác lộ, song xa dã một dụng,/ Phùng thời, nhất tốt khả thành công”; dịch nghĩa: “Lạc nước, hai xe đành bỏ phí,/ Gặp thời, một tốt cũng thành công”. Tháng 6/1940, được tin Pháp đầu hàng Đức, Nguyễn Ái Quốc lúc này đang ở Côn Minh, Trung Quốc đã triệu tập một cuộc họp Cơ quan ở nước ngoài của Đảng để phân tích tình hình và chuẩn bị kế hoạch hành động. Người đã phân tích và dự báo: “Việc Pháp mất nước là một cơ hội rất thuận lợi cho cách mạng Việt Nam. Ta phải tìm mọi cách về nước ngay để tranh thủ thời cơ. Chậm trễ lúc này là có tội với cách mạng”. Sau cuộc họp này, Nguyễn Ái Quốc đã chỉ thị cho Phùng Chí Kiên, Vũ Anh đến Quý Dương để cùng Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp đi Quế Lâm, tìm cách về nước. Cuối tháng 6/1940, Nguyễn Ái Quốc đáp máy bay đi Trùng Khánh để gặp Chu Ân Lai trao đổi về thời cuộc. Cuối tháng 9/1940, Người đã đưa ra một nhận định cực kỳ quan trọng: “Đồng minh sẽ thắng. Nhật, Pháp ở Đông Dương chóng chày sẽ bắn nhau. Việt Nam sẽ giành được độc lập”. Ngày 28/01/1941, Nguyễn Ái Quốc cùng với các đồng chí Phùng Chí Kiên, Lê Quảng Ba lên đường về nước, đến ngày 8/02/1941, Người đã đặt chân tới cột mốc 108 trên biên giới Việt Nam - Trung Quốc, trở về nước sau 30 năm bôn ba, hoạt động ở nước ngoài. Từ ngày 10-19/5/1941, Nguyễn Ái Quốc chủ trì Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ Tám để phân tích tình hình thế giới đang bị tác động sâu sắc bởi cuộc Chiến tranh Thế giới thứ hai. Người dự báo: “Nếu cuộc đế quốc chiến tranh lần trước đã đẻ ra Liên Xô, một nước xã hội chủ nghĩa thì cuộc đế quốc chiến tranh lần này sẽ đẻ ra nhiều nước xã hội chủ nghĩa, sẽ do đó mà cách mạng nhiều nước thành công”. Đối với cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng xác định nhiệm vụ giải phóng dân tộc là nhiệm vụ bức thiết của các mạng Đông Dương, không biết chớp thời cơ thì vạn năm cũng không đòi lại được. “Trong lúc này, nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập tự do cho toàn thể dân tộc thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng không đòi được”. Vào dịp tết Nguyên đán Nhậm Ngọ năm 1942, Nguyễn Ái Quốc đã cho xuất bản tác phẩmLịch sử nước ta. Đây là một bài diễn ca gồm 236 câu lục bát kể lại lịch sử nước ta từ thời vua Hùng dựng nước đến năm 1942, ca ngợi truyền thống yêu nước, bất khuất, đoàn kết của Nhân dân ta. Cuối tác phẩm, Hồ Chí Minh đã đưa ra dự báo thiên tài: Năm 1945 - Việt Nam độc lập”. Đặc biệt, nhằm tập hợp, quy tụ các lực lượng, cá nhân yêu nước trên toàn quốc cùng thực hiện các mục tiêu chung là giành lại độc lập dân tộc, thực hiện tự do, hạnh phúc cho Nhân dân, theo chủ trương của Hồ Chí Minh, ngày 19/5/1941, Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh, gọi tắt là Mặt trận Việt Minh ra đời. Chương trình Việt Minh nêu rõ: “Liên hiệp hết thảy các tầng lớp Nhân dân, các đoàn thể cách mạng, các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại, chiến đấu đánh đổ chủ nghĩa đế quốc phát xít Nhật, giành quyền độc lập cho nước Việt Nam… lập chính phủ Nhân dân của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, do Quốc dân Đại hội cử lên, lấy cờ đỏ, sao vàng năm cánh làm quốc kỳ…”. Ngày 25/10/1941, Việt Minh ra bản Tuyên ngôn: “Việt Minh chủ trương liên hiệp hết thảy các giới đồng bào yêu nước, không phân biệt giàu nghèo, già trẻ, trai gái, không phân biệt tôn giáo và xu hướng chính trị, đặng cùng nhau mưu cuộc giải phóng và sinh tồn…”. Dưới sự chỉ đạo của Trung ương Đảng, đứng đầu là Hồ Chí Minh, công tác xây dựng lực lượng cách mạng, phát động phong trào đánh Pháp, đuổi Nhật, chuẩn bị khởi nghĩa giành chính quyền đã diễn ra sôi nổi trong toàn quốc. Phong trào xây dựng các đoàn thể cứu quốc, như Hội Nông dân cứu quốc, Hội Thanh niên cứu quốc, Hội Phụ nữ cứu quốc, Hội Công nhân cứu quốc… diễn ra sôi nổi từ cuối năm 1941 ở cả nông thôn và thành thị. Song song với việc xây dựng các đoàn thể cứu quốc, tổ chức Mặt trận Việt Minh, việc xây dựng các căn cứ địa cũng được Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm. Dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Người, khu căn cứ địa Cao Bằng, Bắc Cạn, Lạng Sơn, Hà Giang, Tuyên Quang, Thái Nguyên đã phát triển mạnh mẽ và trở thành khu giải phóng Việt Bắc. Hồ Chí Minh cũng chỉ thị cho đồng chí Võ Nguyên Giáp thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân vào ngày 22/12/1944. Đến giữa năm 1945, dưới sự lãnh đạo của Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng, lực lượng cách mạng trên toàn quốc đã phát triển vượt bậc, sẵn sàng cho thời cơ đến. 21 giờ 30 phút ngày 9/03/1945, Nhật đồng loạt tấn công Pháp trên toàn Đông Dương, bắt sống Toàn quyền Decoux và các sĩ quan cáo cấp tại Sài Gòn, đến chiều ngày 10/03, quân Pháp đầu hàng Nhật. Ngay trong đêm Nhật đảo chính Pháp, Ban Thường vụ Trung ương Đảng mở rộng đã họp ở Đình Bảng. Hội nghị đã đưa ra Chỉ thịNhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta. Bản Chỉ thị nêu rõ: “Ngay bây giờ phát động chiến tranh du kích, chiếm căn cứ, duy trì và mở rộng chiến tranh du kích, phải là phương pháp duy nhất của dân tộc ta để đóng vai trò chủ động trong việc đánh đuổi quân ăn cướp Nhật bản ra khỏi nước, chuẩn bị hưởng ứng quân Đồng minh một cách tích cực”. Tháng 5/1945, sau khi phát xít Italia, phát xít Đức bị đánh bại ở châu Âu, phát xít Nhật hoàn toàn bị cô lập và đứng trước nguy cơ bị tiêu diệt. Tiếp đến, ngày 9/8/1945, Hồng quân Liên Xô tuyên chiến với phát xít Nhật. Chỉ trong vòng một tuần lễ, Hồng quân Liên Xô đã tiêu diệt đạo quân Quan Đông - đạo quân tinh nhuệ bậc nhất của quân đội Nhật, giải phóng vùng Đông bắc Trung Quốc và Bắc Triều Tiên. Trước đó nhằm gây sức ép với Chính phủ Nhật và phô trương sức mạnh vũ khí hạt nhân, trong hai ngày 6 và 9/8/1945, Mỹ ném hai quả bom nguyên tử xuống hai thành phố của Nhật là Hirôsima vàNagazaki làm hàng chục vạn người chết và để lại những hậu quả nặng nề kéo dài. 12 giờ ngày 15/8/1945, Đài phát thanh Tôkiô của Nhật Bản phát đi lời tuyên bố của Nhật hoàng “chấp nhận bản Tuyên bố chung của các cường quốc - Tuyên bố Pốtx-đam”. Nước Nhật bị quân Mỹ chiếm đóng. Quân đội Nhật đang đồn trú tại các quốc gia khác ở nguyên vị trí chờ quân Đồng minh đến giải giáp. Chiến tranh Thế giới thứ hai kết thúc. Thông tin từ nước Nhật, khiến quân đội Nhật đang đóng ở Việt Nam hoang mang, rệu rã; Chính phủ thân Nhật bị lung lay cực điểm. Ngay từ ngày 12/8, Hồ Chí Minh đã biết được thông tin về khả năng đầu hàng của quân Nhật, đồng thời Người cũng nắm rõ tinh thần cách mạng sôi sục của quần chúng Nhân dân. Ngày 13/8/1945, Kỳ bộ Việt Minh Bắc Kỳ đã ra thông báo khẩn: “Thời kỳ tiền khởi nghĩa đã hết, chúng ta đứng trong tình thế trực tiếp khởi nghĩa”. Hồ Chí Minh nhận rõ thời cơ tổng khởi nghĩa đã chính thức xuất hiện và thời cơ này chỉ tồn tại trong khoảng hai mươi ngày, từ ngày 15-8/1945 (Nhật hoàng chính thức tuyên bố đầu hàng Đồng minh) đến ngày 5-9/1945 (quân đồng minh kéo vào nước ta để giải giáp quân Nhật). Và Người đã khẩn trương chỉ đạo Hội nghị đại biểu toàn quốc của Đảng (ngày 14 đến 15/8) và Đại hội quốc dân (ngày 16 đến 17/8) tại Tân Trào, thành lập Ủy ban khởi nghĩa toàn quốc và Ủy ban giải phóng dân tộc Việt Nam - Chính phủ lâm thời sau khi cách mạng thắng lợi. Hội nghị đại biểu toàn quốc của Đảng (ngày 14 đến 15/8) đã khẳng định: “cơ hội rất tốt cho ta giành quyền độc lập đã tới”, cách mạng Việt Nam lúc này đang trong “tình thế vô cùng khẩn cấp”. Ngày 17/8/1945, trước đình Tân Trào, thay mặt Ủy ban dân tộc giải phóng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc lời tuyên thệ: “Chúng tôi là những người được Quốc dân đại biểu bầu vào Ủy ban giải phóng dân tộc để lãnh đạo cuộc cách mạng của Nhân dân ta. Trước lá cờ thiêng liêng của Tổ quốc, chúng tôi nguyện kiên quyết lãnh đạo Nhân dân tiến lên, ra sức chiến đấu chống quân thù, giành độc lập cho Tổ quốc. Dù phải hy sinh đến giọt máu cuối cùng, quyết không lùi bước…”. Ngày 18/8/1945, Hồ Chí Minh viết thư kêu gọi đồng bào cả nước: “Hỡi đồng bào yêu quí! Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến! Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta. Nhiều dân tộc bị áp bức trên thế giới đang đua nhau tiến bước giành quyền độc lập. Chúng ta không thể chậm trể. Tiến lên! Tiến lên! Dười lá cờ Việt Minh, đồng bào hãy dũng cảm tiến lên. Đáp lời kêu gọi của Người và Trung ương Đảng, chỉ trong vòng 15 ngày (từ ngày 14 - 28/8/1945), toàn thể Nhân dân Việt Nam trên khắp mọi miền đất nước, từ thành thị đến nông thôn, từ miền núi đến đồng bằng, hải đảo… đều nhất loạt đứng lên tổ chức khởi nghĩa, lập ra chính quyền Nhân dân, làm nên cuộc khởi nghĩa trong toàn quốc thành công rực rỡ. Tại Hà Tĩnh, từ ngày 17/8, Nhân dân các huyện Cẩm Xuyên, Thạch Hà, Can Lộc, dưới sự lãnh đạo của lực lượng tự vệ đã chiếm huyện lỵ, lập chính quyền Nhân dân. Ngày 18/8, quần chúng Nhân dân và lực lượng vũ trang tiến về thị xã, chiếm các công sở, buộc lính bảo an giao nộp vũ khí, chính quyền cách mạng được thành lập và ra mắt ngay trong cuộc mít tinh của quần chúng. Cùng với Quảng Nam, Mỹ Tho, Bắc Giang và Hải Dương, Hà Tĩnh là một trong năm địa phương giành chính quyền về tay Nhân dân sớm nhất trong cả nước. Ngày 2/9/1945 tại Quảng trường Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ cách mạng lâm thời đọc Bản Tuyên ngôn độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Bản tuyên ngôn đã khẳng định: “Sự thật là từ mùa thu năm 1940, nước ta đã thành thuộc địa của Nhật, chứ không phải thuộc địa của Pháp nữa. Khi Nhật hàng Đồng minh thì Nhân dân cả nước ta đã nổi dậy giành chính quyền, lập nên nước Việt Nam dân chủ cộng hòa… Một dân tộc đã gan góc chống lại ách nô lệ của Pháp hơn 80 năm, một dân tộc đã gan góc đứng về phe Đồng Minh chống phát xít mấy năm nay, dân tộc đó phải được tự do! Dân tộc ấy phải được độc lập”. Sau này, khi đánh giá về cuộc cách mạng thánh Tám năm 1945, Tổng bí thư Trường Chinh đã viết: “Cách mạng tháng tám là kết quả của 80 năm đấu tranh không ngừng của dân tộc Việt Nam chống thực dân Pháp. Nó cũng là một biến cố lịch sử vĩ đại của nước ta từ khi Quang Trung đuổi quân xâm lược Mãn Thanh (1789) đến nay”. Nhà sử học người Pháp Charees Fourniau cũng cho rằng: “Cách mạng tháng Tám là tiêu điểm của thế kỷ XX”. 76 năm đã trôi qua, chúng ta càng nhận thức sâu sắc hơn về tầm vóc, ý nghĩa lịch sử trọng đại của Cách mạng tháng Tám 1945. Nghệ thuật chớp thời cơ của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945vẫn luôn là bài học cực kỳ quý báu cho cả hiện tại và tương lai. Bài học này hiện vẫn đang được Đảng và Nhân dân ta kế thừa, phát huy, góp phần tạo nên những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trong công cuộc xây dựng đất nước. Dù trong hoàn cảnh nào, có khó khăn đến đâu nhưng nếu biết đoàn kết, tập hợp sức mạnh của Nhân dân, đặt dưới sự lãnh đạo toàn diện của Đảng Cộng sản Việt Nam, thì mọi nhiệm vụ cách mạng đều sẽ thành công./. Nguồn bài viết: Tùng Lĩnh
Chưa có ý kiến nào, bạn hãy là người đầu tiên gửi ý kiến cho bài viết này. Gửi ý kiến
Thành quả của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là không thể phủ nhận(ĐCSVN) - Hằng năm, vào dịp kỷ niệm Cách mạng tháng Tám và Quốc khánh 2/9, các thế lực thù địch, phản động bằng mọi âm mưu, thủ đoạn, với nhiều hình thức đã bóp méo sự thật, xuyên tạc lịch sử, phủ nhận thành quả cách mạng của dân tộc.
Các thế lực đó cho rằng, Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công không phải là do sự lãnh đạo tài tình của Đảng Cộng sản Việt Nam, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, không phải là sức mạnh đoàn kết của toàn dân tộc đứng lên làm cách mạng mà là nhờ một sự “may mắn” của hoàn cảnh lịch sử. Thậm chí, còn trắng trợn vu cáo, xuyên tạc lịch sử rằng “dù không có Đảng Cộng sản, nhiều thuộc địa vẫn giành được độc lập mà ít tốn xương máu. Sự hao tổn xương máu là do Đảng Cộng sản Việt Nam gây ra”. Những luận điệu thiếu khách quan, sai sự thật, xuyên tạc lịch sử đó của là nhằm hạ thấp uy tín, vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, hạ thấp, coi nhẹ sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, xem nhẹ vai trò và giá trị thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám, từ đó làm cho nhân dân ta mất niềm tin vào Đảng và chế độ. Do đó, chúng ta cần tỉnh táo nhận diện, nâng cao tinh thần cảnh giác, sức đề kháng để tăng cường đấu tranh phản bác các luận điệu tuyên truyền, xuyên tạc của các thế lực thù địch. Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công là kỳ tích vĩ đại có một không hai trong lịch sử Việt Nam thế kỷ XX, không phải là một cuộc cách mạng vội vàng, ngẫu nhiên, “ăn may” như các thế lực thù địch, phản động xuyên tạc, bóp méo. Để có được thành quả đó, toàn dân tộc Việt Nam, dưới sự lãnh đạo tài tình của Đảng Cộng sản Việt Nam, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phải nỗ lực, vượt qua mọi khó khăn, thử thách, kể cả sự hy sinh, mất mát cho việc chuẩn bị mọi mặt trong suốt 15 năm kể từ khi Đảng ta ra đời. Đó là sự chuẩn bị về chủ trương, đường lối; về xây dựng lực lượng chính trị; về xây dựng lực lượng vũ trang; về xây dựng căn cứ địa cách mạng; về xác định, lựa chọn thời cơ khởi nghĩa… Về chủ trương, đường lối: Để có thành quả cách mạng Tháng Tám năm 1945, Đảng ta đã có sự điều chỉnh về đường lối chiến lược và sách lược phù hợp. Từ việc tiến hành song song hai nhiệm vụ cách mạng là phản đế và phản phong, đến việc xác định nhiệm vụ trước mắt là giải phóng dân tộc. Thực hiện chủ trương kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang, tiến từ khởi nghĩa từng phần đến Tổng khởi nghĩa với phương pháp đấu tranh phù hợp, chuyển từ đấu tranh đòi quyền dân sinh, dân chủ sang đấu tranh trực tiếp đánh đổ chính quyền của đế quốc và tay sai; từ hoạt động hợp pháp, nửa hợp pháp sang hoạt động bí mật và bất hợp pháp… Các quan điểm này được thể hiện nhất quán, xuyên suốt qua các cao trào cách mạng 1930 - 1931, 1936 - 1939, 1939 - 1945, mà đỉnh cao là cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền tháng Tám năm 1945. Về xây dựng lực lượng chính trị: Đảng ta xác định lực lượng chính trị quần chúng có vai trò rất quan trọng trong sự nghiệp cách mạng. Để xây dựng lực lượng chính trị quần chúng đông đảo, mạnh mẽ, cần có đội ngũ cán bộ nắm giữ các vị trí chủ chốt trong bộ máy lãnh đạo để liên kết các phong trào đấu tranh. Chính vì thế, ngay từ những ngày đầu thành lập, Đảng ta đã chú trọng xây dựng lực lượng chính trị. Đảng đã cử nhiều thanh niên ưu tú đi học tập, đào tạo tại các trường của Quốc tế Cộng sản để sau này về nước nắm giữ các chức vụ chủ chốt trong Đảng, trong các tổ chức cách mạng, truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào trong nước, trang bị lý luận cách mạng cho các tầng lớp nhân dân. Bên cạnh đó, Đảng đã thành lập một số tổ chức quần chúng để lập nên khối đại đoàn kết toàn dân đứng lên làm cách mạng cứu nước. Về xây dựng lực lượng vũ trang: Để giành chính quyền cách mạng, Đảng chủ trương xây dựng lực lượng vũ trang và xác định đây là lực lượng nòng cốt, trực tiếp tham gia chiến đấu, có vị trí vô cùng quan trọng, quyết định sự thành công của cách mạng.
Từ thực tiễn tình hình đầu những năm 1930, lực lượng vũ trang phát triển còn nhỏ lẻ, chưa có tổ chức, Đảng ta đã từng bước thành lập các đội du kích. Hội nghị Trung ương 8 (tháng 5/1941) đã ra nghị quyết thành lập các đội tự vệ cứu quốc, tự vệ chiến đấu làm cơ sở cho đấu tranh ở địa phương cũng như Tổng khởi nghĩa trên phạm vi cả nước. Tháng 12 năm 1941, lãnh tụ Hồ Chí Minh quyết định thành lập Đội vũ trang Cao Bằng. Đây là quá trình thúc đẩy việc xây dựng lực lượng quân sự, bước đầu xác định những nguyên tắc cơ bản để tiến tới thành lập lực lượng vũ trang tập trung, làm nòng cốt cho toàn dân khởi nghĩa. Khi phong trào cách mạng phát triển, với chủ trương xây dựng lực lượng vũ trang ba thứ quân, nhằm đẩy mạnh hình thức đấu tranh quân sự, tháng 12 năm 1944, Hồ Chí Minh ra Chỉ thị thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân, lực lượng nòng cốt cho các tổ chức vũ trang đánh giặc. Đây là sự kiện lịch sử quan trọng đánh dấu bước khởi đầu công cuộc xây dựng và phát triển quân đội cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng. Về xây dựng căn cứ địa cách mạng: từ so sánh tương quan lực lượng giữa ta và địch, từ kinh nghiệm truyền thống của ông cha ta trong lịch sử giữ nước, Đảng ta đã tổ chức xây dựng các căn cứ địa cách mạng để tập hợp, xây dựng các tổ chức, lực lượng cách mạng và huấn luyện lực lượng này để chuẩn bị cho khởi nghĩa. Trên thực tế, các căn cứ địa cách mạng của ta đã phát huy tốt vai trò là nơi tổ chức, giữ gìn, phát triển lực lượng cách mạng và đảm bảo yếu tố thông tin liên lạc dễ dàng với cách mạng thế giới, đặc biệt là với Liên Xô và Trung Quốc. Từ năm 1940 đến năm 1945, Đảng ta đã tích cực chỉ đạo xây dựng và củng cố các căn cứ địa cách mạng. Hội nghị Trung ương 7 của Đảng (tháng 11/1940) chủ trương thành lập các căn cứ du kích, lấy Bắc Sơn – Võ Nhai làm trung tâm. Cuối năm 1940, Trung ương Đảng và lãnh tụ Hồ Chí Minh lựa chọn Cao Bằng để xây dựng căn cứ địa cách mạng. Đến Hội nghị Trung ương 8 (tháng 5/1941) quyết định duy trì và phát triển các căn cứ du kích Bắc Sơn, Võ Nhai, đồng thời mở rộng căn cứ địa Cao Bằng. Chỉ trong một thời gian ngắn, chúng ta đã xây dựng được một vùng căn cứ địa Việt Bắc rộng lớn cùng nhiều chiến khu và căn cứ vũ trang khác. Đây thực sự là những nơi trọng yếu chỉ đạo quá trình xây dựng, phát triển lực lượng cách mạng, là những trung tâm đầu não lãnh đạo lực lượng khởi nghĩa trên phạm vi toàn quốc. Về xác định, lựa chọn thời cơ khởi nghĩa: Sự chỉ đạo tài tình của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh là đã nhạy bén nắm bắt sự biến đổi nhanh chóng và mau lẹ của tình hình thế giới để chờ cơ hội chín muồi tiến hành tổng khởi nghĩa. Việc chọn đúng thời cơ, ra quyết định Tổng khởi nghĩa đúng lúc thể hiện cụ thể trong Chỉ thị “Nhật – Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” tháng 3 năm 1945 của Ban Thường vụ Trung ương Đảng, bản Quân lệnh số 1 của Uỷ ban khởi nghĩa toàn quốc phát đi đêm 13/8/1945. Với sự chuẩn bị chu đáo, đầy đủ mọi yếu tố cho khởi nghĩa trong thời gian lâu dài và biết chọn đúng thời cơ khởi nghĩa mà sức mạnh của nhân dân ta trong Cách mạng Tháng Tám được nhân lên gấp bội, cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền tháng Tám năm 1945 của dân tộc đã thắng lợi to lớn, triệt để, khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hoà. Từ những vấn đề trên, một lần nữa khẳng định, Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công là kết quả tổng hợp của nhiều yếu tố. Ngoài bối cảnh thế giới có những chuyển biến mau lẹ, thuận lợi thì yếu tố chủ quan vẫn là cơ bản, quyết định. Đặc biệt là vai trò lãnh đạo của Đảng ta, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh. Cách mạng Tháng Tám nổ ra và thành công là minh chứng hùng hồn khẳng định, Đảng ta đã nghiên cứu và vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin một cách linh hoạt, sáng tạo vào điều kiện cụ thể của đất nước, tình thế cách mạng để đề ra đường lối cách mạng đúng đắn, lựa chọn phương pháp cách mạng phù hợp. Cách mạng Tháng Tám thắng lợi hoàn toàn không phải là một sự “ăn may” mà là kết quả tất yếu của quá trình đấu tranh lâu dài, đầy gian khổ, hy sinh của nhân dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh. Cuộc cách mạng vĩ đại đó là một biểu tượng của tinh thần quật cường “đem sức ta mà giải phóng cho ta”, đó là sự kết tinh và toả sáng của sức mạnh nội lực Việt Nam. Bên cạnh đó, Cách mạng Tháng Tám diễn ra dưới hình thức tổng khởi nghĩa nhưng hầu như không có đổ máu. Đó là do Đảng ta đã lãnh đạo sử dụng bạo lực cách mạng một cách hợp lý, bao gồm cả bạo lực chính trị và bạo lực vũ trang, kết hợp chặt chẽ giữa lực lượng chính trị của toàn dân tộc và lực lượng vũ trang cách mạng, giữa đấu tranh vũ trang và đấu tranh chính trị, trong đó đấu tranh chính trị là chủ yếu, làm nền cho đấu tranh vũ trang. Đến lượt mình, đấu tranh vũ trang làm chỗ dựa vững chắc và thúc đẩy đấu tranh chính trị đến cao trào, tiến tới một cuộc tổng khởi nghĩa toàn diện. Chính lực lượng chính trị của quần chúng, của toàn dân kết hợp với lực lượng vũ trang cách mạng, trong đó lực lượng chính trị đóng vai trò quyết định chủ yếu đã tạo nên sức mạnh to lớn của cuộc Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945, làm nên cuộc cách mạng ít đổ máu. Đảng Cộng sản Việt Nam và toàn thể dân tộc Việt Nam xứng đáng được hưởng thành quả trọng đại đó. Những luận điệu xuyên tạc mà các thế lực thù địch, phản động nêu ra đối với cách mạng tháng Tám không gì khác vẫn là nhằm phủ nhận những thành quả, ý nghĩa lịch sử, giá trị thời đại, sức sống mãnh liệt của cuộc cách mạng và xa hơn là phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng, phủ nhận sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc, từ đó phủ nhận toàn bộ sự nghiệp cách mạng vĩ đại của nhân dân ta dưới dự lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt của Đảng. Giá trị lịch sử và ý nghĩa thời đại của Cách mạng Tháng Tám là không thể phủ nhận. Vì vậy, mọi mưu toan chống phá, sự suy diễn chủ quan, xuyên tạc, vu cáo về cuộc cách mạng này đều không có giá trị./. TS Tống Thị Nga, Học viện Chính trị CAND
|