Theo Lê Quý Đôn trong Kiến văn tiểu lục (1777), thì Nguyễn Dữ thi hương
đỗ Hương cống, thi hội nhiều khoa trúng kỳ đệ tam, được tuyển bổ Tri huyện
Thanh Tuyền (nay là Bình Xuyên, Vĩnh Phúc). Ông làm quan mới được một năm,
liền lấy cớ xa nhà, xin từ chức để về nhà hầu cha mẹ. Sau nhà Mạc cướp ngôi vua,
ông không thể ra làm quan, ở thôn quê dạy học trò, không bao giờ bước chân đến
chốn thị thành.
Trong Bạch Vân am cư sĩ phả ký, Vũ Khâm Lâm có nói, sau khi không ra
làm quan ẩn cư ở núi rừng Thanh Hóa Nguyễn Dữ đã làm ra sách Truyền kỳ mạn
lục. Sau khi làm xong sách, Nguyễn Dữ đưa cho thầy xem và được Nguyễn Bỉnh
Khiêm sửa chữa nhiều, phủ chính trở thành Thiên cổ tùy bút. Trong bài tựa
Truyền kỳ mạn lục của Hà Thiện Hán viết năm 1547 có đoạn: Tập Lục này là trứ
tác của Nguyễn Dữ, người Gia Phúc, Hồng Châu. Ông là con trưởng vị Tiến sĩ
triều trước Nguyễn Tường Phiêu. Lúc nhỏ chăm lối học cử nghiệp, đọc rộng nhớ
nhiều, lập chí ở việc lấy văn chương truyền nghiệp nhà. Sau khi thi đậu Hương
tiến, nhiều lần thi Hội đỗ trúng Tam trường, tùng được bổ làm quan Tri huyện
Thanh Tuyền. Mới được một năm, ông từ quan về nuôi mẹ cho tròn đạo hiếu, đến
mấy năm không đặt chân đến chốn thị thành, thế rồi ông viết ra tập Lục này để
ngụ ý.
Về thân thế của Nguyễn Dữ, vì còn nhiều điều không rõ nên đã có hai giả
thuyết được đặt ra cho tác giả của Truyền kỳ mạn lục như sau:
Giả thuyết thứ nhất dựa theo lời của Nguyễn Phương Đề trong Công dư tiệp
kí, Lê Quý Đôn trong Kiến văn tiểu lục, Bùi Huy Bích trong Hoàng Việt thi tuyển
cho rằng Nguyễn Dữ là học trò của Nguyễn Bỉnh Khiêm.
Giả thuyết thứ hai mà Lại Văn Hùng dẫn theo Trần Ích Nguyên trong
Nghiên cứu so sánh Tiễn đăng tân thoại và Truyền kỳ mạn lục lại cho rằng Nguyễn
Dữ là người đồng thời với Nguyễn Bỉnh Khiêm. Lại Văn Hùng cho rằng Nguyễn
Dữ sinh vào khoảng thập niên cuối thế kỉ XV và mất vào khoảng thập niên thứ tư
thế kỉ XVI, thọ 50 tuổi và không thể là học trò của Nguyễn Bỉnh Khiêm.
Tuy còn nhiều nghi vấn xung quang thân thế của ông, nhưng chúng ta có thể
biết rằng: Nguyễn Dữ sinh ra vào khoảng cuối thế kỉ XV và lớn lên vào nữa đầu
thế kỉ XVI. Đây là thời kỳ nhà nước phong kiến Việt Nam đi vào con đường suy
yếu đã nhanh chóng trở nên trầm trọng. Chỉ trong vòng ba mươi năm từ khi Lê
Thánh Tông mất đến khi Mạc Đăng Dung cướp ngôi vua đã có tới 6 ông vua lên
ngôi rồi bị giết hoặc bị phế truất. Có vị vua bị coi là vua quỷ, có vị bị coi là vua
lợn. Những gì mà Lê Thánh Tông vị vua anh minh số một của nền phong kiến
Việt Nam cố công xây dựng đã nhanh chóng sụp đổ. Lê Hiền Tông đã từng than
thở về tình trạng quan trường hư nát và dù đã có chấn chỉnh nhưng vẫn không cứu
vãn được tình trạng suy vi đó. Đại Việt sử ký toàn thư đã viết: Sao mà những kẻ
tại chức đều bị vị, không nghĩ đến phép tắc của triều đình. Người vì nước quên nhà
thì ít, người bỏ phận thiếu chức thì nhiều, tha giàu bắt nghèo, không chừa thói cũ,
tham tiền khoét của vẫn theo lối xưa. Thế rồi chính sự phiền hà, lòng dân oán
hận, thổ méc bừa bãi, lại thêm đại hạn, đói khổ, nhân dân thất nghiệp, trộm
cắp nổi dậy. Vua hoang dâm xa xỉ, bất lực hoặc chết yểu. Các quyền thần đánh lẫn
nhau, giết nhau dưới cửa khuyết, dây máu chốn kinh sư. Chiến tranh loạn lạc khắp
nơi: năm 1511, Nguyễn Nghiêm loạn ở Sơn Tây, Hưng Hóa, năm 1515 loạn Phùng
Chương ở Tam Đảo, loạn Đặng Hân, Đặng Ngật ở Thanh Hóa, loạn Trần Công
Ninh ở Yên Lãng, Trần Cảo khởi binh đánh nhà Lê. Những cuộc chiến tranh ấy đã
khiến cho suốt cả vùng Hải Dương, Sơn Nam, Sơn Tây đến Thanh Hóa và kinh đô
Thăng Long chìm đắm trong khói lửa chiến tranh. Thêm vào nữa là cuộc chiến
tranh Lê - Mạc, một cuộc chiến tranh dai dẳng quyết liệt, một cuộc chiến mà
Nguyễn Bỉnh Khiêm đã từng viết:
Cá đầm, sẻ bụi vì ai đuổi
Núi xương, sông máu thảm đầy vơi
Với tình trạng ấy đã gây nên một sự xuống cấp, suy thoái trong hàng Nho sĩ.
Lê Quý Đôn đã từng than thở: Từ năm Đoan Khánh trở về sau, lời bàn luận sáng
suốt bẵng đi, thãi cầu cạnh mỗi ngày một thịnh, người có chức ít giữ được phong
độ thanh liêm, nhún nhường, trong triều đình không nghe có lời can gián, gặp có
việc thì rụt rè, cẩu thả, thấy lúc nguy thì bán nước để toàn thân, dẫu người gọi là
bậc danh nho, cũng đều yên tâm nhận sủng vinh phi nghĩa, rồi nào thơ, nào ca,
trao đổi, khoe khoang, tán tụng lẫn nhau, tập tục sĩ phu thối nát đến thế là
cùng
Đứng trước một hiện thực như vậy, những nhà nho có khí tiết không thể
tránh khỏi sự ngơ ngác, sự chán chường bởi sự đổ vỡ của niềm tin, lí tưởng. Không
ít người đã từ quan mà về, trong số ấy có Nguyễn Dữ đã cáo quan mà về - phản
ứng ấy của ông là biểu hiện của một sự phát phẫn của một tri thức, một danh sĩ
trước thời cuộc. Nguyễn Dữ cảm thấy xã hội ấy không có chỗ của mình. Cáo quan
về viết Truyền kỳ mạn lục, đấy là một hiện tượng phát phẩn trứ thư của ông. Ông
dồn vào tác phẩm của mình những điều mắt thấy tai nghe với một mong muốn
khuyến khích điều thiện, răn phạt cái ác, thương xót kẻ cùng quẩn, oan khuất.
Tóm lại, căn cứ vào những tài liệu hiện còn, có thể biết được Nguyễn Dữ
thuộc dòng dõi khoa hoạn, từng dùi mài kinh sử, ôm ấp lý tưởng hành đạo, đã đi
thi và có thể đã xuất sĩ. Về sau có lẽ vì đại thế bất an, Nguyễn Dữ lui về ẩn dật,
viết Truyền kỳ mạn lục để ký thác tâm sự, thể hiện hoài bão của mình.
Truyền kỳ - thể loại văn học mới đặc sắc của văn học Trung đại Việt Nam
Truyền kỳ là thể loại truyện ngắn cổ điển của văn học Trung Quốc thịnh
hành ở đời Đường. Kỳ nghĩa là kỳ ảo, kỳ lạ, nhấn mạnh tính chất hư cấu. Thoạt
đầu là chí quái thời Lục triều, sau phát triển độc lập thành truyền kỳ. Có loại miêu
tả cuộc đời biến ảo như mộng... Có loại ca ngợi tình yêu nam nữ... Có loại miêu tả
hào sỹ hiệp khách. Từ đời Đường trở về trước, tiểu thuyết Trung Quốc về cơ bản
mới chỉ là mầm mống, tuy ở thời Hán, Ngụy, Lục triều có chút ít phát triển, nhưng
vô luận nhìn từ góc độ khắc họa nhân vật hay miêu tả tình tiết hãy còn đơn giản,
chưa đạt đến mức độ thành thục. Đồng thời, khái niệm tiểu thuyết cũng còn rất hỗn
loạn, thông thường trở thành tên gọi chung cho các loại ghi chép truyện lạ hoặc
truyện vặt lịch sử. Phải đợi đến đời Đường, tiểu thuyết Trung Quốc mới dần dần
trưởng thành, mới có được hình thức nghệ thuật tương đối hoàn hảo cũng như nội
dung đời sống xã hội tương đối rộng rãi và giành được vị trí không thể xem thường
trong lịch sử văn học Trung Quốc.
Vào đời Đường, người ta vẫn chưa bỏ được cách nhìn lệch lạc truyền thống
đối với tiểu thuyết, nói chung vẫn gạt nó ra ngoài văn học chính thống. Bởi cách
cấu tứ chuộng sự li kì, cho nên nó được gọi là truyền kỳ. Có điều những người
sáng tác tiểu thuyết ngày một đông hơn, điều ấy nói rõ con đường sáng tác tiểu
thuyết vốn bị coi là tiểu đạo đã ngày một hấp dẫn mọi người, hơn thế, đã bắt đầu
trở thành hoạt động nghệ thuật có ý thức. Một người đời Minh là Hồ ứng Luân đã
có thể nhìn thấy điều đó, từng nói: Những chuyện biến hoá kì lạ rất thịnh vào đời
Lục triều, có điều phần lớn là ghi chép lại những điều bịa đặt chứ đâu phải truyện
biến hoá, đến người đời Đường mới có sự cấu tứ li kì, mượn tiểu thuyết để gửi gắm
ngọn bút.
Chúng ta thấy, về đại thể, truyền kỳ đời Đường có nội dung đa dạng, phong
phú xoay quanh chủ đề tình yêu nam nữ trong đời sống trần tục thường ngày và
mang đậm khuynh hướng nhân văn chủ nghĩa. Vì thế, nó có vai trò lớn trong việc
đưa văn học viết hướng tới truyền thống văn hoá dân gian, đời sống hiện thực của
quần chúng nhân dân. Đồng thời, với thủ pháp nghệ thuât độc đáo là lấy kì ảo làm
phương tiện nghệ thuật để truyền tải nội dung về đời sống con người, truyền kỳ đời
Đường góp phần không nhỏ khẳng định giá trị hư cấu và tưởng tượng trong việc
phản ánh và lý giải hiện thực cuộc sống của tác phẩm văn học. Loại hình truyền kỳ
tiếp tục phát triển ở đời Tống, Nguyên (1279-1368). Cuối Nguyên, đầu Minh (thế
kỉ thứ XIV), có Tiễn đăng tân thoại của Cù Hựu (1341-1427) là tác phẩm truyền kỳ
|