Cách tính lịch âm và lịch dương

1. Âm lịch là gì?

– Với những người trẻ tuổi,âm lịch là gìđôi khi lại là câu hỏi khó trả lời. Theo từ điển tiếng Việt, lịch âm là cách tính thời gian theo sự chuyển động liên tục của Mặt Trăng quay xung quanh Trái Đất. Người ta ấn định mỗi tháng sẽ có 29 hoặc 30 ngày, mỗi năm gồm có 12 tháng.

– Nếu là năm nhuận thì sẽ có 13 tháng, một tháng âm lịch thường có tổng cộng 29 hoặc 30 ngày. Vàlịch âm tiếng Anh là gì? Từ lâu, người Anh đã quen gọi lịch âm hay âm lịch là “lunar calendar”.

– Vậy,tết âm lịch tiếng Anh là gì? Tết Âm lịch tiếng Anh là “lunar new year”, Tết Âm lịch chính là lễ mừng năm mới của một số nước sử dụng lịch âm như Trung Quốc, Việt Nam,… thường được tổ chức sau Tết Dương lịch một khoảng thời gian gần 1 tháng.

– Qua các thời kỳ phong kiến, tuy các cơ quan sản xuất lịch được thay đổi nhiều lần, nhưng việc làm lịch đều được tổ chức một cách quy củ. Các cơ quan này không chỉ có chức năng làm lịch mà còn làm nhiệm vụ dự báo thời tiết, đồng thời quan sát thiên văn rồi làm tờ khải chi tiết để tấu trình lên vua.

– Ngay từ thời xa xưa, lịch âm đã giữ một vai trò vô cùng quan trọng trong tiềm thức, lối sống của người Á Đông. Hàng năm ở Trung Hoa có sự kiện vua tiến hành ban lịch hàng năm để cho các thần dân theo đó mà thực hiện các nghi thức tế lễ, tổ chức nông vụ. Tại Việt Nam, lễ ban lịch cho thần dân cũng được tổ chức hàng năm, hay còn gọi là lễ Ban Sóc cũng được cử hành vô cùng long trọng.

Nếu bạn muốnxem lịch âm 2021chính xác nhất thì hãy truy cập website: http://lichvannien.net

2. Cách tính năm âm lịch đơn giản nhất

– Năm âm lịch được tính theo chu kỳ tròn – khuyết của Mặt Trăng. Người xưa đã phát hiện ra rằng, Mặt Trăng tròn hay khuyết đều có quy luật, bình quân mỗi lần được tính là 29,53 ngày. Người ta thường gọi khoảng thời gian đó là tháng. Tháng đủ thường có 30 ngày, tháng thiếu sẽ có 29 ngày.

– Do trong 1 năm có 12 lần Mặt Trăng tròn – khuyết, cho nên người xưa đẽ lấy 12 tháng để gộp thành một năm. Một năm thường có 354 hoặc 355 ngày và thường gọi là năm âm lịch. Thời cổ đại, có 2 nước là Trung Quốc và Ấn Độ đã sử dụng âm lịch sớm nhất trên thế giới.

– Tuy nhiên, 1 chu kì thời tiết thay đổi từ nóng sang lạnh là 365 ngày. Trong khi đó, 1 năm âm lịch chỉ có từ 354 – 355 ngày, mỗi năm sẽ còn dư ra từ 10 – 11 ngày, 3 năm liền sẽ tạo ra số dư hơn 1 tháng. Để phù hợp với điều này, người xưa cộng đã thêm 1 tháng vào năm thứ 3. Chính vì vậy, năm nhuận sẽ có 13 tháng, tháng được thêm vào sẽ được gọi là “tháng nhuận”, còn năm nhuận sẽ có số ngày là 384 – 385.

3. Âm dương lịch là gì và hình thành như thế nào?

– Hiện nay, trên thế giới người ta sử dụng rất nhiều cách tính thời gian khác nhau, chủ yếu được quy vào 3 loại: âm lịch, dương lịch và âm dương lịch. Việt Nam thường sử dụng loại “âm lịch” (hay còn được gọi là nông lịch). Thực ra, đó chính là âm dương lịch, không còn đơn thuần là âm lịch như bạn nghĩ.

– Thời tiết thay đổi nóng – lạnh trong năm là do Trái Đất quay xung quanh Mặt Trời. Trái Đất quay quanh Mặt Trời 1 vòng thì thời tiết sẽ thay đổi nóng sang lạnh 1 lần. Trái Đất quay 1 vòng quanh Mặt Trời chính là cơ sở để hình thành nên dương lịch. Bởi vậy, người ta dùng cách chia tháng nhuận để tính lịch cho phù hợp với chu kỳ thay đổi thời tiết, có nghĩa là kết hợp giữa âm lịch và dương lịch. Cách tính lịch như vậy không còn là âm lịch thuần túy nữa mà có sự kết hợp giữa âm lịch và dương lịch, nên còn gọi là âm dương lịch.

– Năm dương lịch thường được tính bằng khoảng thời gian trái đất quay 1 vòng xung quanh mặt trời, thường là 365,2422 ngày (chính xác là 356 ngày 5 giờ 48 phút 46 giây). Để thuận tiện cho việc tính toán, người ta sẽ tính chẵn 365 ngày là 1 năm dương lịch. Do trong 365 ngày sẽ có 12 lần mặt trăng tròn rồi lại khuyết nên người ta chia 1 năm thành 12 tháng. Vì 365 không chia hết cho 12 nên đành phải chia thành 2 loại là tháng đủ (có 31 ngày) và tháng thiếu (có 30 ngày).

– Riêng tháng 2 cũng là tháng thiếu nhưng lại chỉ có 28 ngày. Như vậy cộng 12 tháng vào sẽ vừa đủ 365 ngày, đó là 1 năm dương lịch bình thường. Nhưng còn dư mỗi năm 5 giờ 48 phút 46 giây, trong suốt 4 năm liền, số dư đó cộng lại sẽ vừa bằng 1 ngày, và 1 ngày đó được cộng vào tháng 2 của năm thứ tư. Năm thứ tư ấy sẽ gọi là “năm nhuận”, thường có 366 ngày. Tháng 2 của năm nhuận sẽ có 29 ngày, ngày thứ 29 ấy được gọi là với tên là “ngày nhuận”.

Qua bài viết trên đây, chắc hẳn bạn đã biết đượcâm lịch là gìvà cách tính năm âm lịch, dương lịch, năm nhuận,… một cách chính xác rồi phải không nào? Đồng thời, bạn đã có thể lên kế hoạch cho tương lai một cách rõ ràng, chi tiết nhất mà không phải lo lắng gì nữa rồi!

Ứng dụng Lịch Vạn Niên hỗ trợ điện thoại sử dụng hệ điều hành Android và iOS. Dung lượng khá là nhẹ nên bạn sử dụng điện thoại cấu hình thấp cũng có thể cài đặt Lịch Vạn Niên cho điện thoại một cách dễ dàng.

Các bạn cần giải đáp thắc mắc hoặc mọi ý kiến đóng góp vui lòng gửi vui lòng liên hệ các thông tin dưới

– Website: https://lichvannien.net

– Mail:

– Phone: 0387139054

– Địa chỉ: Tòa Nhà Viettel 285 Cách Mạng Tháng Tám, Phường 12, Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh

– Facebook: https://www.facebook.com/lichvanniennet/

– Instagram: https://www.instagram.com/lichvanniennet/

– Twitter: https://twitter.com/lichvannien_net

Mục lục

  • 1 Ví dụ
  • 2 Xác định tháng nhuận
    • 2.1 Những lần Việt Nam và Trung Quốc ăn Tết lệch ngày
  • 3 Tham khảo
  • 4 Liên kết ngoài

Ví dụSửa đổi

Lịch Do Thái, Phật lịch, lịch Hindu, lịch Tây Tạng, lịch Trung Quốc (sử dụng một mình cho tới năm 1912 và sau đó được sử dụng song song cùng lịch Gregory) hay lịch Triều Tiên (sử dụng một mình tới năm 1894 và sau đó được sử dụng song song cùng lịch Gregory) là các loại âm dương lịch, cũng như lịch Nhật Bản tới năm 1873, lịch Tiền Hồi giáo, lịch La Mã cho tới năm 45 TCN (trên thực tế sớm hơn, do sự đồng bộ hóa với Mặt Trăng đã bị mất cũng như sự đồng bộ hóa với Mặt Trời), lịch Coligny của vùng Gaule thế kỷ 1 và lịch Babylon trong thiên niên kỷ 2 TCN. Các loại âm dương lịch Trung Quốc, Coligny và Do Thái[1] ở mức độ nhiều hay ít là tuân theo năm chí tuyến trong khi Phật lịch và lịch Hindu là âm dương lịch tuân theo năm thiên văn. Vì thế ba loại lịch nhóm thứ nhất gợi ra ý tưởng về các mùa trong khi hai loại lịch của nhóm thứ hai gợi ra ý tưởng về vị trí khi trăng tròn ở giữa các chòm sao. Lịch Tây Tạng chịu ảnh hưởng của cả lịch Trung Quốc lẫn lịch Hindu.

Lịch Hồi giáo là âm lịch thuần túy mà không phải âm dương lịch do ngày tháng của nó không liên quan gì tới Mặt Trời. Lịch Julius và lịch Gregory là các loại dương lịch chứ không phải âm dương lịch, do ngày tháng của chúng không thể chỉ ra các pha của Mặt Trăng — tuy nhiên, dù không nhận thức thấy âm dương lịch, nhưng phần lớn những người theo Kitô giáo lại vô thức sử dụng âm dương lịch trong việc xác định lễ Phục Sinh.

Xác định tháng nhuậnSửa đổi

Tháng nhuận là tháng không chứa Trung khí. Trong danh sách 24 tiết khí dưới đây:

- Đông chí - Tiểu hàn - Đại hàn - Lập xuân - Vũ thuỷ - Kinh trập - Xuân phân - Thanh minh - Cốc vũ - Lập hạ - Tiểu mãn - Mang chủng - Hạ chí - Tiểu thử - Đại thử - Lập thu - Xử thử - Bạch lộ - Thu phân - Hàn lộ - Sương giáng - Lập đông - Tiểu tuyết - Đại tuyết

Những tiết khí ghi bằng chữ in đậm gọi là các trung khí, các tiết xen kẽ gọi là các tiểu khí.

Khi xác định tháng nhuận trong lịch âm dương, cần lưu ý những vấn đề sau:

- Thời điểm xảy ra điểm Sóc

- Thời điểm xảy ra Trung khí

- Khoảng cách giữa 2 tháng Tý (tức tháng 11 âm lịch - tháng chứa ngày Đông chí)

Trước hết, định nghĩa tháng là thời gian từ ngày mà mặt trăng hoàn toàn tối (gọi là ngày sóc, ngược với rằm là lúc trăng tròn nhất) đến lúc nó đi quanh trái đất đúng một vòng, nghĩa là từ ngày sóc đến ngày sóc kế tiếp. Thời điểm mặt trăng hoàn toàn tối (tức điểm Sóc) rơi vào ngày nào, thì mùng 1 tháng âm lịch bắt đầu vào ngày đó.

Tiếp theo, tháng chứa ngày đông chí đặt là tháng Tý, tức là con giáp đầu tiên trong 12 con giáp (thứ tự là Tý, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi). Giữa hai tháng Tý liên tiếp có thể có 11 hay 12 tháng, vì giữa 2 ngày đông chí là hơn 365 ngày, trong khi 12 tháng mặt trăng chỉ có hơn 354 ngày. Quy luật xác định tháng nhuận như sau:

- Lấy ra 2 điểm Sóc: Sóc A ngay trước ngày Đông chí thứ nhất, và Sóc B ngay trước ngày Đông chí thứ hai. Nếu điểm Sóc và trung khí Đông chí xảy ra trong cùng 1 ngày, thì tính luôn ngày đó là Sóc A hoặc B.

- Nếu giữa hai điểm Sóc có từ 353-355 ngày, năm ấy là năm bình thường, có 12 tháng đặt tên lần lượt theo 12 con giáp. Xem ví dụ 1.

- Nếu giữa hai điểm Sóc có từ 383-385 ngày, năm đó là năm nhuận, có 13 tháng. Vì một năm dương lịch có 12 trung khí nên nếu một năm âm lịch có đến 13 tháng, ắt sẽ có một tháng nào đó không chứa ngày trung khí nào, tháng đó sẽ lấy làm tháng nhuận, được đặt tên theo tháng liền trước nó, và cộng thêm chữ nhuận. Thí dụ nếu sau tháng Thìn là một tháng không chứa trung khí, tháng đó sẽ là tháng Thìn nhuận. Bằng cách này, ta có đúng 7 năm nhuận trong 19 năm. Xem ví dụ 2 và 3.

Ví dụ 1: Âm lịch năm 1984. Chúng ta áp dụng quy luật trên để tính âm lịch Việt Nam năm 1984.

- Sóc A (ngay trước Đông chí năm 1983) rơi vào ngày 4/12/1983, Sóc B (ngay trước Đông chí năm 1984) vào ngày 23/11/1984. - Giữa A và B là khoảng 355 ngày, như thế năm âm lịch 1984 là năm bình thường. Tháng 11 âm lịch của năm trước kéo dài từ 4/12/1983 đến 2/1/1984, tháng 12 âm từ 3/1/1984 đến 1/2/1984, tháng Giêng từ 2/2/1984 đến 1/3/1984 v.v.

Ví dụ 2: Âm lịch năm 2004

- Sóc A - ngay trước Đông chí 2003 - rơi vào ngày 23/11/2003. Sóc B (ngay trước Đông chí năm 2004) rơi vào ngày 12/12/2004. - Giữa 2 ngày này là khoảng 385 ngày, như vậy năm âm lịch 2004 là năm nhuận. Tháng 11 âm của năm 2003 bắt đầu vào ngày chứa Sóc A, tức ngày 23/11/2003. - Tháng âm lịch đầu tiên sau Đông chí mà không chứa Trung khí là tháng từ 21/3/2004 đến 18/4/2004 (Xuân phân rơi vào 20/3/2004, còn Cốc vũ là 19/4/2004). Như thế tháng ấy là tháng nhuận. - Từ 23/11/2003 đến 21/3/2004 là khoảng 120 ngày, tức 4 tháng âm lịch: tháng 11, 12, 1 và 2. Như vậy năm 2004 có tháng 2 nhuận.

Ví dụ 3: Âm lịch năm 2014

- Sóc A - ngay trước Đông chí 2013 - rơi vào ngày 3/12/2013. Sóc B xảy ra trùng ngày với trung khí Đông chí năm 2014 (22/12/2014). - Giữa 2 ngày này là khoảng 385 ngày, như vậy năm âm lịch 2014 là năm nhuận. - Tháng âm lịch đầu tiên sau Đông chí mà không chứa Trung khí là tháng từ 24/10/2014 đến 21/11/2014 (Sương giáng rơi vào ngày 23/10/2014, còn Tiểu tuyết rơi vào ngày 22/11/2014). Như thế tháng ấy là tháng nhuận.

Tuy nhiên, không phải lúc nào các tháng không chứa trung khí cũng được coi là tháng nhuận, vì có những trường hợp 1 năm âm lịch có nhiều tháng không chứa trung khí, nhưng chỉ 1 trong số đó được tính là tháng nhuận. Quy luật xác định tháng nhuận được bổ sung như sau:

- Nếu trong năm bình thường xuất hiện tháng không chứa Trung khí, tháng đó không được tính là tháng nhuận. Xem ví dụ 4.

- Nếu nhiều tháng trong năm nhuận không có Trung khí, thì chỉ tháng đầu tiên sau Đông chí là tháng nhuận. Xem ví dụ 5.

Ví dụ 4: Âm lịch năm 2033

- Sóc A - ngay trước Đông chí 2032 - rơi vào ngày 3/12/2032. Sóc B (ngay trước Đông chí năm 2033) rơi vào ngày 22/11/2033. - Giữa 2 điểm Sóc là 355 ngày, như vậy năm này là năm bình thường. - Trong 355 ngày đó chỉ có 1 tháng không chứa Trung khí, là tháng từ 23/9/2033 đến 22/10/2033 (Thu phân rơi vào ngày 22/9/2033, còn Sương giáng rơi vào ngày 23/10/2033). Nhưng do đây là năm bình thường nên không tính là tháng nhuận. Thay vì đặt tên là tháng 8 nhuận thì tháng này được đặt tên là tháng 9 (tháng tiếp theo). Việc này nhằm đảm bảo tháng chứa Đông chí tiếp theo vẫn là tháng 11 âm lịch.

Ví dụ 5: Âm lịch năm 2034

- Sóc A - ngay trước Đông chí 2033 - rơi vào ngày 22/11/2033. Sóc B (ngay trước Đông chí năm 2034) rơi vào ngày 11/12/2004. - Giữa 2 điểm Sóc là 385 ngày, như vậy năm này là năm nhuận. - Trong 385 ngày đó có 2 tháng không chứa Trung khí: * Tháng từ 22/12/2033 đến 19/1/2034 (Đông chí rơi vào ngày 21/12/2033, còn Đại hàn rơi vào ngày 20/1/2034). * Tháng từ 19/2/2034 đến 19/3/2034 (Vũ thủy rơi vào ngày 18/2/2034, còn Xuân phân rơi vào ngày 20/3/2034). - Trong đó, tháng từ 22/12/2033 đến 19/1/2034 là tháng đầu tiên sau Đông chí mà không chứa Trung khí, nên chỉ tháng này là tháng nhuận, còn tháng còn lại không tính là nhuận.

Khi tính ngày Sóc và ngày chứa Trung khí, bạn cần lưu ý xem xét chính xác múi giờ, vì điểm Sóc (ngày đầu tháng âm lịch) cũng như điểm Trung khí có thể xảy ra ở những ngày khác nhau, tùy theo múi giờ mà bạn sử dụng. Đây là lý do tại sao có một vài điểm khác nhau giữa lịch Việt Nam và lịch Trung Quốc. Ví dụ, có một thời điểm Sóc được ghi nhận theo múi giờ GMT+0 vào lúc 16:24 ngày 18/02/yyyy, thì theo giờ Việt Nam (GMT+7, kinh tuyến 105° đông) sẽ là 23:24 cùng ngày, do đó mùng 1 tháng âm lịch của Việt Nam sẽ rơi vào ngày 18/02/yyyy. Tuy nhiên theo giờ Bắc Kinh (GMT+8, kinh tuyến 120° đông) thì Sóc rơi vào lúc 00:24 ngày 19/02/yyyy, do đó tháng âm lịch của Trung Quốc lại bắt đầu từ ngày 19/02/yyyy, chậm hơn lịch Việt Nam 1 ngày. Trong quá khứ, đã từng có thời điểm tháng nhuận theo lịch Việt Nam và Trung Quốc khác nhau, thậm chí đã từng có thời điểm khoảng cách giữa 2 tháng Tý theo lịch âm dương của 2 nước khác nhau, dẫn đến việc có những năm mà Việt Nam và Trung Quốc ăn Tết lệch nhau tận 1 tháng.

Những lần Việt Nam và Trung Quốc ăn Tết lệch ngàySửa đổi

Ví dụ 1: Việt Nam ăn Tết trước Trung Quốc 1 ngày (Tết Đinh Hợi 2007)

Điểm Sóc của tháng 2/2007 được ghi nhận (theo múi giờ GMT+0) vào lúc 16:14 ngày 17/2/2007. Khi chuyển qua giờ Việt Nam và Trung Quốc, ta có kết quả sau:

- Giờ Việt Nam (GMT+7): 23 giờ 14 phút ngày 17/2/2007. Vậy mùng 1 Tết ở Việt Nam rơi vào ngày 17/2/2007.

- Giờ Trung Quốc (GMT+8): 00 giờ 14 phút ngày 18/2/2007. Vậy mùng 1 Tết ở Trung Quốc rơi vào ngày 18/2/2007.

Ví dụ 2.1: Việt Nam ăn Tết trước Trung Quốc 1 tháng (Tết Ất Sửu 1985)

Trong giai đoạn 1983-1985, âm dương lịch của Việt Nam và Trung Quốc có sự khác nhau về tháng nhuận, cũng như khoảng cách giữa 2 tháng Tý, dẫn đến Tết Ất Sửu 1985 của 2 nước bị lệch nhau 1 tháng. Trước khi tính khoảng cách giữa 2 tháng Tý theo lịch Việt Nam và Trung Quốc, ta có các dữ liệu quan trọng sau:

- Điểm Sóc trong tháng 11/1984 rơi vào ngày 23/11/1984.

- Trung khí Đông chí năm 1984 rơi vào lúc 23:23 ngày 21/12/1984 (theo giờ Việt Nam), tương ứng với 00:23 ngày 22/12/1984 (theo giờ Trung Quốc).

- Điểm Sóc trong tháng 12/1984 rơi vào ngày 22/12/1984.

  • Âm lịch năm 1984-1985 theo giờ Việt Nam:
- Sóc A (ngay trước Đông chí năm 1983) rơi vào ngày 4/12/1983, Sóc B (ngay trước Đông chí năm 1984) vào ngày 23/11/1984. - Giữa A và B là khoảng 355 ngày, như thế năm âm lịch 1984 theo lịch Việt Nam là năm bình thường. - Tết Ất Hợi 1985 tại Việt Nam rơi vào ngày 21/1/1985. - Sóc B (ngay trước Đông chí năm 1984) rơi vào ngày 23/11/1984, Sóc C (ngay trước Đông chí năm 1985) rơi vào ngày 12/12/1985. - Giữa B và C là khoảng 385 ngày, như thế năm âm lịch 1985 theo lịch Việt Nam là năm nhuận. - Tháng âm lịch đầu tiên sau Đông chí mà không chứa Trung khí là tháng từ 21/3/1985 đến 19/4/1985 (Xuân phân rơi vào lúc 23:14 ngày 20/3/1985 theo giờ Việt Nam, còn Cốc vũ rơi vào ngày 20/4/1985). Như thế tháng ấy là tháng nhuận.
  • Âm lịch năm 1984-1985 theo giờ Trung Quốc:
- Sóc A (ngay trước Đông chí năm 1983) rơi vào ngày 4/12/1983, Sóc B xảy ra trùng ngày với trung khí Đông chí năm 1984 (22/12/1984). - Giữa A và B là khoảng 385 ngày, như thế năm âm lịch 1984 theo lịch Trung Quốc là năm nhuận. - Tháng âm lịch đầu tiên sau Đông chí mà không chứa Trung khí là tháng từ 23/11/1984 đến 21/12/1984 (Tiểu tuyết rơi vào ngày 22/11/1984, còn Đông chí rơi vào ngày 22/12/1984). Như thế tháng ấy là tháng nhuận. - Tết Ất Hợi 1985 tại Trung Quốc rơi vào ngày 20/2/1985. - Sóc B xảy ra trùng ngày với Đông chí năm 1984 (22/12/1984), Sóc C (ngay trước Đông chí năm 1985) rơi vào ngày 12/12/1985. - Giữa B và C là khoảng 355 ngày, như thế năm âm lịch 1985 theo lịch Trung Quốc là năm bình thường. - Tháng âm lịch đầu tiên sau Đông chí mà không chứa Trung khí là tháng từ 20/2/1985 đến 20/3/1985 (Vũ thủy rơi vào ngày 19/2/1985, còn Xuân phân rơi vào lúc 00:14 ngày 21/3/1985 theo giờ Trung Quốc. Nhưng do đây là năm bình thường nên không tính là tháng nhuận. Việc này nhằm đảm bảo tháng chứa Đông chí tiếp theo vẫn là tháng 11 âm lịch.

Ví dụ 2.2: Việt Nam ăn Tết trước Trung Quốc 1 tháng (Tết Mậu Thân 2148)

Dữ liệu quan trọng: Trung khí Đại hàn 2148 được ghi nhận vào lúc 23:29 ngày 20/1/2148 theo giờ Việt Nam, tương ứng với 00:29 ngày 21/1/2148 theo giờ Trung Quốc.

  • Âm lịch năm 2147-2148 theo giờ Việt Nam:
- Sóc A (ngay trước Đông chí năm 2147) rơi vào ngày 23/11/2147, Sóc B (ngay trước Đông chí năm 2148) rơi vào ngày 11/12/2148. - Giữa A và B là khoảng 385 ngày, như thế năm âm lịch 2148 theo lịch Việt Nam là năm nhuận. - Tháng âm lịch đầu tiên sau Đông chí mà không chứa Trung khí là tháng từ 20/2/2148 đến 19/3/2148 (Vũ thủy rơi vào ngày 19/2/2148, còn Xuân phân rơi vào ngày 20/3/2148). Như thế tháng ấy là tháng nhuận. - Tết Mậu Thân 2148 tại Việt Nam rơi vào ngày 21/1/2148.
  • Âm lịch năm 2147-2148 theo giờ Trung Quốc:
- Sóc A (ngay trước Đông chí năm 2147) rơi vào ngày 23/11/2147, Sóc B (ngay trước Đông chí năm 2148) rơi vào ngày 11/12/2148. - Giữa A và B là khoảng 385 ngày, như thế năm âm lịch 2148 theo lịch Trung Quốc là năm nhuận. - Tháng âm lịch đầu tiên sau Đông chí mà không chứa Trung khí là tháng từ 23/12/2147 đến 20/1/2148 (Đông chí rơi vào ngày 22/12/2147, còn Đại hàn rơi vào lúc 00:29 ngày 21/1/2148 theo giờ Trung Quốc. Như thế tháng ấy là tháng nhuận. - Tết Mậu Thân 2148 tại Trung Quốc rơi vào ngày 20/2/2148.

Ví dụ 3.1: Trung Quốc ăn Tết trước Việt Nam 1 tháng (Tết Canh Thân 2520)

Ta có một số dữ liệu quan trọng như sau:

- Điểm Sóc tháng 12/2519 rơi vào ngày 23/12/2519.

- Trung khí Đại hàn 2520 rơi vào ngày 21/1/2520.

- Điểm Sóc tháng 1/2520 được ghi nhận vào lúc 23:46 ngày 21/1/2520 theo giờ Việt Nam, tương ứng với 00:46 ngày 22/1/2520 theo giờ Trung Quốc.

Điều này dẫn đến việc độ dài tháng âm lịch của Việt Nam và Trung Quốc khác nhau, cụ thể như sau:

- Lịch Việt Nam: tháng âm lịch bắt đầu từ 23/12/2519 đến 20/1/2520, kéo dài 29 ngày. Mùng 1 tháng sau rơi vào ngày 21/1/2520. Vì ngày xảy ra trung khí Đại hàn trùng với ngày mùng 1 của tháng sau, nên dẫn đến tháng trước đó không có trung khí.

- Lịch Trung Quốc: tháng âm lịch bắt đầu từ 23/12/2519 đến 21/1/2520, kéo dài 30 ngày. Mùng 1 tháng sau rơi vào ngày 22/1/2520. Vì trung khí Đại hàn xảy ra vào ngày cuối tháng âm lịch (theo giờ Trung Quốc), nên vẫn đảm bảo tháng này có chứa trung khí.

  • Âm lịch năm 2519-2520 theo giờ Việt Nam:
- Sóc A - ngay trước Đông chí 2519 - rơi vào ngày 23/11/2519. Sóc B (ngay trước Đông chí năm 2520) rơi vào ngày 11/12/2520. - Giữa 2 điểm Sóc là 385 ngày, như vậy năm âm lịch 2520 theo lịch Việt Nam là năm nhuận. - Trong 385 ngày đó có 2 tháng không chứa Trung khí: * Tháng từ 23/12/2519 đến 20/1/2520 (Đông chí rơi vào ngày 22/12/2519, còn Đại hàn rơi vào ngày 21/1/2520). * Tháng từ 20/2/2520 đến 19/3/2520 (Vũ thủy rơi vào ngày 19/2/2519, còn Xuân phân rơi vào ngày 20/3/2520). - Trong đó, tháng từ 23/12/2519 đến 20/1/2520 là tháng đầu tiên sau Đông chí mà không chứa Trung khí, nên chỉ tháng này là tháng nhuận, còn tháng còn lại không tính là nhuận. - Tết Canh Thân 2520 tại Việt Nam rơi vào ngày 20/2/2520.
  • Âm lịch năm 2519-2520 theo giờ Trung Quốc:
- Sóc A (ngay trước Đông chí năm 2519) rơi vào ngày 23/11/2519, Sóc B (ngay trước Đông chí năm 2520) rơi vào ngày 11/12/2520. - Giữa A và B là khoảng 385 ngày, như thế năm âm lịch 2520 theo lịch Trung Quốc là năm nhuận. - Tháng âm lịch đầu tiên sau Đông chí mà không chứa Trung khí là tháng từ 20/2/2519 đến 19/3/2520 (Vũ thủy rơi vào ngày 19/2/2520, còn Xuân phân rơi vào ngày 20/3/2520. Như thế tháng ấy là tháng nhuận. - Tết Canh Thân 2520 tại Trung Quốc rơi vào ngày 21/1/2520.

Ví dụ 3.2: Trung Quốc ăn Tết trước Việt Nam 1 tháng (Tết Kỷ Mão 2539)

Trong giai đoạn 2537-2539, âm dương lịch của Việt Nam và Trung Quốc có sự khác nhau về tháng nhuận, cũng như khoảng cách giữa 2 tháng Tý, dẫn đến Tết Kỷ Mão của 2 nước bị lệch nhau 1 tháng. Trước khi tính khoảng cách giữa 2 tháng Tý theo lịch Việt Nam và Trung Quốc, ta có các dữ liệu quan trọng sau:

- Điểm Sóc trong tháng 11/2538 rơi vào ngày 23/11/2538.

- Trung khí Đông chí năm 2538 rơi vào ngày 22/12/2538.

- Điểm Sóc trong tháng 12/2538 rơi vào lúc 23:16 ngày 22/12/2538 theo giờ Việt Nam, tương ứng với 00:16 ngày 23/12/2538 theo giờ Trung Quốc. Điều này dẫn đến việc Đông chí rơi vào ngày đầu tháng sau (theo giờ Việt Nam), tương ứng với ngày cuối tháng trước (theo giờ Trung Quốc).

  • Âm lịch năm 2537-2539 theo giờ Việt Nam:
- Sóc A (ngay trước Đông chí năm 2537) rơi vào ngày 4/12/2537, Sóc B xảy ra trùng ngày với trung khí Đông chí năm 2538 (22/12/2538). - Giữa A và B là khoảng 384 ngày, như thế năm âm lịch 2538 theo lịch Việt Nam là năm nhuận. - Tháng âm lịch đầu tiên sau Đông chí mà không chứa Trung khí là tháng từ 23/11/2538 đến 21/12/2538 (Tiểu tuyết rơi vào ngày 22/11/2538, còn Đông chí rơi vào ngày 22/12/2538). Như thế tháng ấy là tháng nhuận. - Tết Kỷ Mão 2539 tại Việt Nam rơi vào ngày 20/2/2539. - Sóc B xảy ra trùng ngày với Đông chí năm 2538 (22/12/2538), Sóc C (ngay trước Đông chí năm 2539) rơi vào ngày 11/12/2539. - Giữa B và C là khoảng 355 ngày, như thế năm âm lịch 2539 theo lịch Việt Nam là năm bình thường. - Tháng âm lịch đầu tiên sau Đông chí mà không chứa Trung khí là tháng từ 20/2/2539 đến 20/3/2539 (Vũ thủy rơi vào ngày 19/2/2539, còn Xuân phân rơi vào ngày 20/3/2539. Nhưng do đây là năm bình thường nên không tính là tháng nhuận. Việc này nhằm đảm bảo tháng chứa Đông chí tiếp theo vẫn là tháng 11 âm lịch.
  • Âm lịch năm 2537-2539 theo giờ Trung Quốc:
- Sóc A (ngay trước Đông chí năm 2537) rơi vào ngày 4/12/2537, Sóc B (ngay trước Đông chí năm 2538) vào ngày 23/11/1984. - Giữa A và B là khoảng 355 ngày, như thế năm âm lịch 2538 theo lịch Trung Quốc là năm bình thường. - Tết Kỷ Mão 2539 tại Trung Quốc rơi vào ngày 21/1/2539. - Sóc B (ngay trước Đông chí năm 2538) rơi vào ngày 23/11/2538, Sóc C (ngay trước Đông chí năm 2539) rơi vào ngày 11/12/2539. - Giữa B và C là khoảng 384 ngày, như thế năm âm lịch 2539 theo lịch Trung Quốc là năm nhuận. - Tháng âm lịch đầu tiên sau Đông chí mà không chứa Trung khí là tháng từ 20/2/2539 đến 20/3/2539 (Vũ thủy rơi vào ngày 19/2/2539, còn Xuân phân rơi vào ngày 21/3/2539). Như thế tháng ấy là tháng nhuận.

Cách tính lịch Dương lịch

Mục: Khác Thuộc: none

Dương lịch là loại lịch mà ngày tháng của nó chỉ ra vị trí của Trái Đất trong chuyển động của nó xung quanh Mặt Trời (hay nói tương đương là vị trí biểu kiến của Mặt Trời trên thiên cầu)

Dương lịch là loại lịch mà ngày tháng của nó chỉ ra vị trí của Trái Đất trong chuyển động của nó xung quanh Mặt Trời (hay nói tương đương là vị trí biểu kiến của Mặt Trời trên thiên cầu)

Trong ngôn ngữ giao tiếp thông thường của người Việt hiện nay, thuật ngữ dương lịch nói chung chỉ là nói tới lịch Gregory mặc dù trên thực tế có nhiều loại lịch khác có cách thức tính toán ngày tháng như đã nói trên.

Dương lịch chí tuyến

Nếu như vị trí của Trái Đất (hay Mặt Trời) được tính toán liên quan tới điểm phân (điểm xuân phân hay điểm thu phân) thì ngày tháng chỉ ra mùa (và như thế nó đồng bộ với xích vĩ của Mặt Trời). Những loại lịch như thế được gọi là dương lịch chí tuyến.

Một năm lịch trung bình của loại lich như thế là xấp xỉ bằng một vài dạng của năm chí tuyến (thông thường hoặc là năm chí tuyến trung bình hoặc là năm xuân phân).

Các loại lịch sau là dương lịch chí tuyến:

  • Lịch Gregory
  • Lịch Julius
  • Lịch Bahá'í
  • Lịch Alexandria
  • Lịch Iran (lịch Jalāli)
  • Lịch Malayalam
  • Lịch Tamil
  • Dương lịch Thái

Các loại lịch kể trên đều có một năm thường bằng 365 ngày, và đôi khi được mở rộng bằng cách bổ sung thêm 1 ngày dư để tạo thành năm nhuận.

Dương lịch thiên văn

Nếu như vị trí của Trái Đất được tính toán liên quan tới vị trí của các định tinh thì ngày tháng của nó chỉ ra chòm sao hoàng đạo mà Mặt Trời có thể được tìm thấy gần đó. Những loại lịch như thế được gọi là dương lịch thiên văn.

Một năm lịch trung bình của những loại lịch này xấp xỉ năm thiên văn.

Lịch Hindu và lịch Bengal là dương lịch thiên văn. Chúng thông thường dài 365 ngày, nhưng hiện nay đã lấy thêm ngày dư để tạo ra năm nhuận.

Phi dương lịch

Các loại lịch có thể được gọi là phi dương lịch, như lịch Hồi giáo là một loại âm lịch thuần túy và các loại lịch được đồng bộ với chu kỳ giao hội của Sao Kim hoặc đồng bộ với các thời điểm mọc gần Mặt Trời của các ngôi sao.

Âm dương lịch

Các loại âm dương lịch cũng có thể được coi là 'dương lịch' ở một mức độ nhất định nào đó, mặc dù ngày tháng của chúng trên thực tế lại chỉ ra các pha của Mặt Trăng. Do một âm dương lịch điển hình có một năm bao gồm một số nguyên dương nhất định các tháng Mặt Trăng, nên ngày tháng của nó không chỉ ra được vị trí của Trái Đất trong chuyển động xung quanh Mặt Trời như ở trường hợp của dương lịch thuần túy. Lịch Trung Quốc là một loại âm dương lịch điển hình.

Bài viết khác :

  • • Cách tính lịch Âm
  • • Khí quyển và đại dương
  • • Liên đại Hỏa thành
  • • Mặt Trăng
  • • Sự hình thành Trái Đất
  • • Lớp vỏ (địa chất) Trái Đất
  • • Hiện tượng thủy triều
  • • Sự chuyển động của Trái Đất quanh Mặt Trời
  • • Hiện tượng Nhiệt đới
  • • Hiện tượng Mùa mưa

Trang nhất/ Bản tin

Tìm hiểu về Âm lịch, Dương lịch và năm Nhuận

07/06/2007 12:00 | 6

Âm lịch là loại lịch theo Mặt trăng. Người Babylon dùng lịch này đầu tiên từ mấy ngàn năm trước kỷ nguyên chúng ta. Những người dùng Âm lịch đầu tiên gồm người Ai Cập, Trung Hoa, Hébreux (Do Thái thời xưa). Hiện tại lịch musulman (Hồi giáo) và một số dân Phi châu cũng dùng âm lịch. Nước ta cũng vậy.

Âm lịch là loại lịch theo Mặt trăng. Người Babylon dùng lịch này đầu tiên từ mấy ngàn năm trước kỷ nguyên chúng ta. Những người dùng Âm lịch đầu tiên gồm người Ai Cập, Trung Hoa, Hébreux (Do Thái thời xưa). Hiện tại lịch musulman (Hồi giáo) và một số dân Phi châu cũng dùng âm lịch. Nước ta cũng vậy.

Vì phải bắt đầu một tháng lúc trăng mới mọc và chu kỳ quay của Mặt trăng xung quanh Trái đất có độ dài bằng 29,5..., số ngày không chẵn, nên họ dùng những tháng 29 và 30 ngày.

(BBT)

1. Nhuận của lịch là gì? Vì sao lại có nhuận?

Nhuận là do chủ quan của người làm lịch đặt ra nhằm cho thời gian phù hợp với quy luật thiên nhiên. Dương lịch và âm lịch đều có nhuận.

Cách tính lịch âm và lịch dương

Như chúng ta đã biết, quá trình phát triển của lịch sử loài người là quá trình tìm kiếm để chọn lọc những đơn vị thời gian đó thành những hệ đếm để phục vụ cho hoạt động xã hội. Lịch (âm lịch và dương lịch) là những bảng ghi thứ tự thời gian, chia chuỗi thời gian liên tục thành những đơn vị thời gian và sắp xếp chúng thành một hệ đếm phù hợp với nhu cầu của con người.

Ta biết rằng trong Thế giới trời sao có 3 đơn vị thời gian thiên nhiên quan trọng, nó gắn liền với thế giới trần gian - một thế giới của muôn loài động vật rất phong phú và đa dạng. Ba đơn vị thời gian đó là:

- Năm Mặt trời biểu thị chu kỳ thời tiết, tức là chu kỳ quay của Trái đất xung quanh Mặt trời có độ dài bằng 365,242198... ngày (gần 365,25 ngày).

- Tháng Mặt trăng biểu thị chu kỳ quay của Mặt trăng xung quanh Trái đất có độ dài bằng 29,5... ngày.

- Ngày là thời gian ánh sáng Mặt trời trở lại do nguyên nhân Trái đất tự quay quanh mình vừa tròn một vòng.

Ba đơn vị thời gian này là bộ máy chỉ thời gian trong thái dương hệ của chúng ta không phải do con người tự đặt ra. Các nhà thiên văn khí tượng đã nhận thấy 3 đơn vị thời gian thiên nhiên này không thông ước với nhau, nghĩa là không tìm được một số nào chia hết cho cả 3 đơn vị. Vì vậy, nếu lấy ngày làm đơn vị thì tháng Mặt trăng và năm Mặt trời không phải là số ngày nguyên, mà có vô số số lẻ.

Người làm lịch thì phải tính năm, tháng có bao nhiêu ngày. Bởi vậy những phần lẻ trên đây đã làm cho bài toán tính lịch trở thành hắc búa. Nếu bỏ phần lẻ đi thì tháng không đúng với tuần trăng, năm không đúng với mùa khí hậu; mà lịch thì phải lấy tròn. Do đó trong âm lịch phải có tháng thiếu (29 ngày), tháng đủ (30 ngày); trong dương lịch có tháng 30 ngày, tháng 31 ngày; riêng tháng hai là 28 ngày hoặc 29 ngày. Năm, phải có năm thường, năm nhuận (dài hơn). Ðây không phải là một quy luật thiên nhiên, mà là một quy luật chủ quan dùng thuật lấy thừa bù thiếu của người xếp lịch. Bởi vậy dương lịch và âm lịch đều có nhuận.

a. Nhuận của dương lịch

là để khắc phục phần lẻ của năm Mặt trời (0,242198... ngày) do chưa đưa vào để xếp lịch. Vì vậy cứ 4 năm dư ra 1 ngày, một thế kỷ dư ra gần một tháng... Ðể tránh sai sót này, người làm lịch đã quy ước trung bình 4 năm thêm 1 ngày vào tháng 2, tức là năm đó có 366 ngày (năm Nhuận) và tháng hai có 29 ngày.

a. Nhuận âm lịch

là để khắc phục sự sai khác tháng Mặt trăng (tháng âm lịch) với quy luật thời tiết - chu kỳ thời tiết (năm dương lịch). Bởi vì, tháng âm lịch chỉ có 29-30 ngày, nên dẫn đến năm âm lịch chỉ có 354-355 ngày, ngắn hơn năm dương lịch trung bình 11 ngày; hay nói cách khác là năm âm lịch đi nhanh hơn năm dương lịch là 11 ngày, 3 năm nhanh hơn 1 tháng, 9 năm nhanh hơn một mùa. Vì vậy, ngày đầu năm vào mùa Xuân thì 9 năm sau vào Hạ... Chính vì thế người đời xưa phải ăn Tết Nguyên Ðán vào đủ các loại hình thời tiết, không còn mang tính cổ truyền khí tiết của ngày tết đượm sắc Xuân mới.

Ðể khắc phục tình trạng trên, người làm lịch đã phải tăng số ngày cho năm âm lịch bằng hình thức nhuận với quy ước là Thập cửu niên thất nhuận nghĩa là cứ 19 năm có 7 năm nhuận, năm nhuận âm lịch có 13 tháng.

c. Năm nhuận theo lịch pháp

Ðể đảm bảo đúng vào tiết xuân ngày Mồng Một Tết chỉ ở trong khoảng từ tiết Lập Xuân đến tiết Vũ Thủy, tức là từ ngày 21.01 đến 20.02 dương lịch. Nếu năm âm lịch nào (khi chưa tính thêm tháng nhuận) có ngày Mồng Một Tết năm sau sớm hơn này 21.01 dương lịch thì năm đó phải là năm nhuận.

- Theo quy ước trên, qua năm 2001, ngày Mồng Một Tết Tân Tỵ nhằm vào ngày 24.01 dương lịch (hợp với quy ước). Do vậy, năm 2001 - Tân Tỵ là năm không có nhuận âm lịch (13 tháng).

Ðể dễ nhớ, muốn biết năm nào là năm nhuận âm lịch, cứ lấy năm dương lịch tương ứng chia cho 19, nếu số dư là một trong 7 con số: 0, 3, 6, 8, 11, 14, 17 thì năm âm lịch đó là năm nhuận.

d. Tháng nhuận theo lịch pháp

- Tháng âm lịch nào trong năm nhuận không có ngày Trung khí thì tháng ấy gọi là tháng nhuận, nghĩa là tháng gọi tên của tháng trước kề liền.

- Nếu 1 hay 2 năm liền kề nhau có 2 tháng đều thiếu ngày Trung khí thì tháng trước là tháng nhuận, tháng sau không phải là tháng nhuận nữa.

2. Tên năm âm lịch và thời tiết theo âm lịch hay dương lịch?

Hiện nay ở nước ta và một số nước khác trong khu vực Ðông Nam Á đang còn xuất bản và sử dụng hai loại lịch, đó là dương lịch và âm lịch.

+ Dương lịch là loại lịch theo Mặt trời, dùng đơn vị thời gian thiên nhiên là năm Mặt trời, tức là độ dài chu kỳ quay của Trái đất xung quanh Mặt trời.

+ Âm lịch là loại lịch theo Mặt trăng, dùng đơn vị thời gian thiên nhiên là tháng Mặt trăng, tức là độ dài chu kỳ quay của Mặt trăng xung quanh Trái đất.

Theo Hán - Việt thì Mặt trời là Thái Dương, Mặt trăng là Thái Âm. Do vậy, lịch theo Mặt trời gọi là dương lịch, lịch theo Mặt trăng gọi là âm lịch.

Vì tồn tại hai loại lịch như vậy và cứ mỗi lần đón mừng xuân mới của năm âm lịch lại là một dịp bàn tán xôn xao về tên của năm ấy.

Người ta cho rằng nếu năm nào có nhuận thì năm đó sẽ là một năm mất mùa, thiên tai lắm, địch họa khôn lường... Vậy sự thực tên năm âm lịch, nhuận có phải do thượng đế, thần thánh sinh linh gì tạo ra như một số học thuyết của chủ nghĩa duy tâm đã truyền bá trong nhân dân ta? Trong khuôn khổ của bài viết này, chỉ đề cập đến việc đặt tên năm âm lịch và thời tiết theo âm lịch hay theo dương lịch để cùng tham khảo.

Từ thời xa xưa, con người vẫn tin rằng có một mối liên hệ huyền bí nào đó giữa vũ trụ và sự sống. Vì vậy, người thượng cổ đã xây dựng lên cả một kho tàng thần thoại lý thú về bầu trời sao ngoạn mục thể hiện trong các chuyện cổ Hy Lạp. Tất nhiên trong những chuyện hoang đường như vậy đã không thoát khỏi tư tưởng huyền bí mà vai trò thiêng liêng của thượng đế đã ngự trị trong các tôn giáo suốt thời gian dài.

Từ thế kỷ XVI, khoa học thiên văn phát triển đã đánh dấu bước ngoặt lịch sử của con người trong nhận thức thế giới trời sao. Trong những thế kỷ gần đây, người ta biết rằng Mặt trời là nguyên nhân tồn tại của sự sống và phát triển của loài người. Nhờ sự hiểu biết về thuyết chuyển động tương đối trong vật lý cơ học, con người mới khẳng định rằng Trái đất cùng với các hành tinh khác quay xung quanh Mặt trời tạo thành hệ Mặt trời và gọi chuyển động ấy là chuyển động biểu kiến của Mặt trời xung quanh Trái đất hay còn gọi là đường Hoàng Ðạo.

Người phương Ðông chia đường Hoàng Ðạo ra làm 12 cung kể từ điểm Xuân Phân, qua Hạ Chí, đến Thu Phân và đến Ðông Chí để biểu thị các mùa khí hậu nóng, lạnh khác nhau như: xuân, hạ, thu, đông.

Người phương Tây đặt tên ấy theo tên của các chòm sao như Ðại Hùng, Tiểu Vương, Thiên Vương, Tiên Nữ, Phi Mã...

Các nhà cổ đại Trung Quốc lại đặt 12 cung trên theo chi, tượng trưng cho Trời là: Tý, Sửu, Dần, ...Tuất, Hợi. Họ kết hợp với 10 can, tượng trưng cho Ðất là: Giáp, Ất, Bính... Nhâm, Quý để đặt tên năm âm lịch theo nguyên tắc Can chi ký pháp, tức là ghép can với chi theo một trật tự thứ tự được thể hiện rõ trong thuật số tử vi.

Thực ra tên năm âm lịch hàng năm chỉ là một quy ước của lịch pháp âm lịch mà nền văn minh cổ đại Trung Quốc đã dùng trong việc sắp xếp lịch trong các kỷ nguyên và được truyền sang nước ta trở thành lịch cổ truyền. Cho đến nay vẫn còn nhiều người cho rằng tên năm âm lịch có ảnh hưởng quyết định đến tương lai cuộc sống của mỗi con người, có năm ảnh hưởng đến chu kỳ thời tiết trong năm như: Năm Thìn nhiều bão, năm Mão mất mùa, năm Tý, năm Dần nhiều thiên tai, địch họa....

Tuy nhiên, ở nước ta hiện nay còn một số vùng quen dùng âm lịch để tính toán chỉ đạo sản xuất nông nghiệp dẫn đến nhiều trường hợp bỏ lỡ thời vụ, đặc biệt vào những năm âm lịch có nhuận. Chính vì vậy, kể từ năm 1968, Chính phủ đã quyết định Nông lịch theo dương lịch và nước ta bắt đầu sử dụng loại âm lịch mới được tính toán theo múi giờ số 7 (Kinh độ 105 độ Ðông) đi qua Thủ đô Hà nội để thay thế cho loại âm lịch cũ được tính toán theo múi giờ số 8 (Kinh độ 120 độ Ðông) đi qua Thủ đô Bắc Kinh - Trung Quốc.

Dương lịch ứng dụng trong nông nghiệp dựa vào 24 ngày Tiết (12 Tiết khí và Trung khí), mỗi Tiết khoảng 15-16 ngày, biểu thị thời vụ, thời tiết sát với từng vùng lãnh thổ của nước ta.

Trần Xuân Hiền -Trung tâm Dự báo Khí Tượng Thủy Văn Lâm Đồng

(Theo VietSciences)