Cao sơn lưu thủy nghĩa là gì năm 2024

Câu thành ngữ này dùng để chỉ tiếng nhạc hay tuyệt diệu hoặc dùng để ví về tri âm khó tìm.

Câu thành ngữ này có xuất xứ từ "Liệt Tử- thang Vấn". Truyện xảy ra vào thời Chiến quốc.

Bá Nha người nước Sở từ nhỏ say mê âm nhạc, lớn lên ông theo học gảy đàn với Thành Liên, một nghệ sĩ nổi tiếng thời bấy giờ, loại đàn lúc đó là đàn bảy dây, nên còn gọi là Thất huyền cầm.

Một hôm, Bá Nha muốn sáng tác một bản nhạc mô tả về trận mưa bão trên biển, nhưng suy nghĩ đã mấy ngày mà vẫn chưa tìm ra được giai điệu nào vừa ý mới đến hỏi ý kiến của thầy. Thành Liên biết vậy liền dẫn Bá Nha ra bờ biển để trải nghiệm hiện tượng mưa bão.

Mấy hôm sau, trên biển bỗng sấm chớp nổi lên, sóng biển dâng cao cuồn cuộn, trận mưa sa bão táp ập đến đã gợi cho Bá Nha cảm hứng sáng tác, sau đó ông đã viết một bản nhạc mô tả về cảnh mưa bão trên biển.

Về sau, Bá Nha vùi đầu vào viết nhạc và sáng tác được khá nhiều tác phẩm, trong đó bản nhạc "Cao sơn lưu thủy" được ông tâm đắc nhất, nhưng lại chẳng có mấy ai hiểu được bản nhạc này.

Một hôm, Bá Nha gảy bản nhạc này cho Chung Tử Kỳ nghe, khi gảy tới đoạn Cao sơn thì bỗng nghe Chung Tử Kỳ reo lên: "Hay lắm, quả là khí thế bàng bạc như núi Thái Sơn". Đến khi gảy tới đoạn Lưu thủy thì Chung Tử Kỳ bỗng nghe như có tiếng nước chảy từ tiếng đàn. Bá Nha thấy vậy vội cầm lấy tay Chung Tử Kỳ xúc động nói: "Ông thật là tri âm của tôi".

Sau khi Chung Tử Kỳ qua đời, Bá Nha đã giật đứt dây đàn rồi đau đớn nói: "Chung Tử Kỳ là tri âm của tôi, nay ông ta mất rồi thì tôi gảy đàn còn có ý nghĩa gì". Từ đó về sau, Bá Nha không còn gảy đàn nữa.

Bạn đã lắng nghe về câu 'Cao sơn lưu thủy, tri kỷ khó tìm' chưa? Hãy cùng khám phá ý nghĩa sâu sắc và những câu chuyện thú vị đằng sau thành ngữ này cùng Minprice.

Cao sơn lưu thủy nghĩa là gì năm 2024

Khám phá Cao Sơn Lưu Thủy

Cao Sơn Lưu Thủy, một trong những bài hát cổ điển của Trung Hoa, kể về tình bạn đẹp giữa Bá Nha và Tử Kỳ, thể hiện qua hình ảnh núi cao và dòng nước sâu của Cao Sơn và Lưu Thủy.

'Âm nhạc vang lên, dàn hòa cùng tiếng đập, Tử Kỳ buồn bã, cõi lòng như tan vỡ. Gió xuân tràn ngập, gặp ai đây tri âm? Kiếm tìm âm nhạc, thật không dễ thay!'

Từ chuyện điển tích này, thành ngữ 'Cao sơn lưu thủy, tri kỷ khó tìm' ra đời. Trên thực tế, trong cuộc sống, có một người bạn tri âm tri kỷ cũng đủ làm đầy lòng. Không gì quý bằng có người hiểu mình.

Khúc nhạc Cao Sơn Lưu Thủy và câu chuyện 'Du Bá Nha đập dàn tạ tri âm'

Câu chuyện bắt đầu tại vùng đất Sở, với Du Bá Nha - thiên tài âm nhạc, và Tử Kỳ - người tiều phu tài năng. Cả hai gặp nhau, tình bạn tri âm tri kỷ được sinh ra dưới bàn tay tài năng của Bá Nha, đến nay vẫn là câu chuyện đẹp và cảm động.

Cao sơn lưu thủy nghĩa là gì năm 2024

Qua những cuộc trò chuyện và giao lưu, Bá Nha và Tử Kỳ trở nên thân thiết, trở thành anh em tri kỷ. Mặc dù Bá Nha muốn mời Tử Kỳ cùng theo ông vào thế giới tinh thần, nhưng Tử Kỳ từ chối để hiếu kỳ cha mẹ già yếu. Hứa hẹn gặp nhau trung thu năm sau, nhưng không thể trò chuyện được nhiều với Tử Kỳ, ông bàng hoàng phát hiện người bạn đã mất.

Mùa thu, Bá Nha trở về và không thấy Tử Kỳ nhưng chỉ thấy nơi anh được chôn cất. Trước mộ, ông tấu khúc nhạc 'Thiên thu trường hận' với lòng đau xót. Khi kết thúc, ông dùng đàn đập vào đá trước mộ, làm đàn vỡ tan. Từ đây, Bá Nha không còn chơi đàn, bởi người hiểu tiếng đàn ông đã ra đi.

Cao sơn lưu thủy nghĩa là gì năm 2024

'Cao sơn' và 'Lưu thủy' là hai khúc đàn Bá Nha thường tấu, chỉ Tử Kỳ hiểu được. Hai người thấu hiểu nhau nhờ âm nhạc, tình bạn đẹp đẽ. 'Cao sơn lưu thủy, tri kỷ khó tìm' là biểu tượng cho tình bạn sâu sắc giữa họ.

'Cuộc đời là giấc mộng, tỉnh giấc là mất mát. Nhân sinh giống như vở kịch, kết thúc là chấm dứt.'

Trong thế giới hiện đại, sự mập mờ giữa thật và giả khiến việc tìm kiếm một người bạn tri kỷ trở nên khó khăn. Hạnh phúc thực sự không chỉ đến từ sự giàu có mà còn là việc tìm thấy một tâm hồn tri âm, một tri kỷ đồng hành. Đôi khi, chỉ cần một người tri kỷ là đủ để làm cho cuộc sống trở nên ý nghĩa.

Hy vọng rằng qua bài viết này, bạn đã tìm thấy câu trả lời cho vấn đề 'Cao Sơn Lưu Thủy là gì?'. Chúc bạn trên hành trình của mình sẽ sớm gặp gỡ một người bạn tri âm, tri kỷ và biết trân trọng những mối quan hệ đáng quý đó.

Sự tích Bá Nha, Tử Kỳ là câu chuyện đời Xuân Thu Chiến Quốc về tình bạn âm nhạc giữa Bá Nha - một viên quan nước Tấn, và Tử Kỳ - một tiều phu bên Hán Giang. Sự tích này phổ biến ở Trung Quốc cũng như Việt Nam.

Nhân vật[sửa | sửa mã nguồn]

Bá Nha (giản thể: 伯牙, phồn thể: 伯雅) hay Sở Bá Nha, họ Du (俞) tên Thụy (瑞) tự Bá Nha, người nước Sở nhưng làm quan Thượng Đại Phu nước Tấn. Ông là một khách phong lưu văn mặc, có ngón đàn cổ cầm nổi tiếng đương thời. Tuân Huống trong thiên Khuyến học ca ngợi Bá Nha hết mực, "cổ nhân chơi đàn thì cá cũng phải ngoi lên nghe, Bá Nha chơi đàn làm sáu ngựa dừng ăn", và Sái Ung đời Đông Hán trong sách Cầm tháo cũng viết câu chuyện Bá Nha bái sư học thủ pháp "di tình" của cổ cầm

Chung Tử Kỳ (鍾子期), họ Chung (鍾) tên Huy (徽) tự Tử Kỳ, nhà tại Tập Hiền Thôn gần núi Mã Yên cửa sông Hán Giang, là một danh sĩ ẩn dật làm nghề tiều phu (đốn củi) để báo hiếu cha mẹ tuổi già.

Sự tích[sửa | sửa mã nguồn]

Tương truyền một năm nọ, Bá Nha phụng chỉ vua Tấn đi sứ qua nước Sở. Trên đường trở về đến sông Hán, gặp đêm trung thu trăng thanh gió mát, ông lệnh cho quân lính dừng thuyền uống rượu thưởng nguyệt. Cao hứng mang đàn ra gảy nhưng bản đàn chưa dứt đã bị đứt dây. Nào ngờ nơi núi cao sông dài này dường như có người biết nghe đàn, lại cũng ngờ thích khách, Bá Nha truyền quân lên bờ đi tìm thì vừa hay có tiếng chàng trai nói vọng xuống, rằng mình là một tiều phu, thấy khúc đàn hay quá nên dừng chân nghe. Bá Nha có ý nghi hoặc sao một người đốn củi lại biết nghe đàn, nhưng khi chàng trai đối đáp trôi chảy, thậm chí biết rõ bản đàn Bá Nha vừa gảy thì ông không còn mảy may ngờ vực nữa, bèn mời xuống thuyền đàm đạo. Trên thuyền, Bá Nha gảy khúc nhạc Cao sơn Lưu thủy, người tiều phu rung cảm sâu sắc, cao đàm khoát luận, khiến Bá Nha khâm phục hết mực.

Chàng trai trẻ đó chính là Tử Kỳ (Chung Tử Kỳ), một danh sĩ ẩn dật, đốn củi bến sông để được sớm tối phụng dưỡng mẹ cha già yếu. Được người tri âm, thấu cảm ngón đàn cũng là tấm chân tình của mình, Bá Nha có ý mời Tử Kỳ rời non cao rừng thẳm về kinh cùng mình để sớm hôm đàm đạo và vui hưởng vinh hoa phú quý. Nhưng Tử Kỳ thoái thác vì việc hiếu. Quan sự không thể chần chừ, Bá Nha đành phải xuôi thuyền về kinh, không quên hẹn Tử Kỳ tại chốn này một ngày nọ ông sẽ trở lại đón cả gia quyến Tử Kỳ về với mình.

Mùa thu năm sau Bá Nha trở lại bến sông xưa, nhưng không còn gặp được Tử Kỳ vì Tử Kỳ đã mất trong một cơn bạo bệnh. Tương truyền, trước khi chết Tử Kỳ còn trăng trối phải chôn chàng nơi bến sông Hán Dương, cạnh núi Mã Yên, để giữ lời hẹn với Bá Nha. Bá Nha tìm đến mộ Tử Kỳ, bày đồ tế lễ, sầu thảm khóc gảy một bản nhạc ai điếu. Đàn xong, ông đập đàn vào đá, thề trọn đời không đàn nữa vì biết mình từ nay vĩnh viễn không còn bạn tri âm.

Khúc Cao sơn Lưu thủy[sửa | sửa mã nguồn]

Khúc Cao sơn Lưu thủy (高山流水), một trong 10 bản nhạc lừng danh thuộc thập đại danh khúc cổ nhạc Trung Hoa về sau, gắn liền với câu chuyện về tình bạn tri kỷ và sự tương thông sâu sắc giữa Bá Nha và Tử Kỳ. Cao sơn Lưu thủy tương truyền là bản đàn Bá Nha sinh thời hay tấu, nhưng chỉ Tử Kỳ thụ cảm được. Điển tích "cao sơn" (núi cao) và "lưu thủy" (nước chảy) này được Liệt Ngự Khấu người nước Trịnh trong "Thang vấn" sách Liệt Tử đời Xuân Thu Chiến Quốc ghi lại rằng:

Bá Nha chơi đàn tuyệt hay, Chung Tử Kỳ nghe đàn căng giỏi. Bá Nha chơi đàn, chí tại núi cao, Chung Tử Kỳ nói: "Hay thay! vời vợi tựa Thái sơn" (Thiện tại hồ cổ cầm, ngụy ngụy hồ nhược Thái sơn). Chí để nơi dòng nước chảy, Chung Tử Kỳ nói: "Hay thay! mênh mang như sông nước" (Thiện tại hồ cổ cầm, đãng đãng hồ nhược lưu thủy). Bất luận là chí tại cao sơn hay chí tại lưu thủy, Bá Nha trong mỗi khúc nhạc đều biểu hiện chủ đề hoặc tư tưởng của mình, nhờ đó Chung Tử Kỳ có thể lĩnh hội được ý tứ đó. Nghe nhạc vốn dĩ là cảm cái khúc ý mà người chơi gửi gắm, đạo lý này vốn dĩ đă có từ ngàn xưa vậy.

Một ngày, Bá Nha cùng Chung Tử Kỳ chơi núi Thái sơn, gặp trời mưa to, hai người dừng lại dưới một mỏm núi đá. Bá Nha trong tâm phiền muộn bèn tấu một khúc nhạc. Khúc nhạc ban đầu biểu hiện cảnh mưa rơi xuống một dòng suối trên núi, tiếp đó khúc nhạc mô phỏng âm thanh của nước lên cuồn cuộn cùng đất đá đổ nát. Mỗi khúc nhạc vừa hoàn thành, Chung Tử Kỳ đều ngay lập tức nói ngay được ý tứ mỗi bài. Bá Nha thấy thế bỏ đàn mà rằng: "Giỏi thay! Các hạ có thể nghe thấu cái chí thú trong khúc nhạc, ý của các hạ cũng là ý của ta vậy". Từ đó hai người trở thành một cặp nhân sinh tri kỷ mà đời sau vẫn ca ngợi.

Lã thị Xuân Thu cũng kể lại câu chuyện Bá Nha, Tử Kỳ tương tự như Liệt Tử, nhưng khác chút về kết cục, rằng sau khi Chung Tử Kỳ chết, Bá Nha quẳng đàn, dứt dây đến tận cuối đời không chơi đàn; từ đó trên nhân thế không có ai có thể gọi là cầm giả nữa.

Sau sách Liệt Tử và Lã thị Xuân Thu, đời Tây Hán có Hàn Thi ngoại truyện, Hoài Nam Tử, Thuyết uyển; đời Đông Hán có Phong tục thông nghĩa, Cầm tháo, Âm phổ giải đề v.v. đều viện dẫn câu chuyện này.

Điển cố văn học[sửa | sửa mã nguồn]

Tình bạn tri âm Bá Nha, Tử Kỳ còn được người đời sau nhắc lại, ngợi ca trong nhiều tác phẩm văn học (điển cố tri âm, nước non, hay lưu thủy cao sơn). Trong văn học trung đại Việt Nam, tác phẩm Đoạn trường tân thanh của thi hào Nguyễn Du, tại trường đoạn khi Kim Trọng yêu cầu Thúy Kiều gảy đàn cho nghe, có những câu nhắc đến tích này: