Answers ( )
Nghề làm vườn phát triển cây ăn quả ở nước taBạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (5.27 MB, 141 trang ) ĐƯỜNG HÒNG DẬT đẹp hơn, trong lành hơn và đáng yêu biết bao nhiêu. Bộ sách "NGHỀ LÀM VUỜN" nhẳm góp phần nhỏ bé vào việc thúc đẩy hoạt động làm vườn nước ta tiến lên bước phát triển mới. Về phát triển "Cây ăn quả" ở nước ta, tác giả giói thiệu trong hai tập này. Các tập khác viết về các sản phẩm khác cùa Nghề làm vườn sẽ lần lượt ra mắt bạn đọc trong thời gian tới. Cuốn thứ nhất vé "Cây ăn quả” trong Bộ sách NGHỀ LÀM VUỜN được viết thành 2 phần : Phẩn thứ nhất : "Phát triển căy ăn quả â nước ta". Trong phần này sách trình bày 3 nội dung : - Tinh hình và đặc điểm phát triển cây ăn quả ở Việt Nam. Sách phác hoạ một cách tổng quát hiện trạng cây ăn quả ờ nước ta. Từ đó nêu lên 4 thành công đã đạt được trong việc phát triển cây ăn quả những năm vừa qua. Đồng thời sách cũng đưa ra 4 vấn đề còn tồn tại trong việc sản xuất nhóm cây này. - Giá trị cây án quả và một số vấn đề cần chú ý trong việc phát triển. Phẩn này nêu lên 7 giá trị của cây ăn quả trên các mặt kinh tế, xã hội, nhân văn, môi trường. Trên cơ sở phân tích các đặc điểm của trổng trọt, bảo quản, chế biến cây ăn quả, phấn này trình bày 4 vấn đề cần được chú ý trong phát triển cây ăn quả ở nước ta. - Góp phần đưa nghề trồng cây ăn quả nước ta lên bước phát triển mới. Phần này trình bày bảy loại công việc cần được tiến hành để thúc đẩy phát triển cây ăn quả ở nước ta. Phần thứ hai : "Sản xuất một sô' cây ăn quả nhiệt đới có khả năng thích nghi hẹp". Sách trình bày 17 loài cây ăn quả chủ yếu ở nước ta. Đối với mỗi loài, các nội dung được trình bày trong sách bao gổm : các đặc điểm sinh học, thực vật, sinh thái; ý nghĩa công dụng của các sản phẩm ; kỹ thuật trổng trọt (bao gồm giống, nhân giống, chãm sóc, phân bón, phòng trừ sâu bệnh); chế biến. Nội dung của phần này là sự tập họp sắp sếp và hệ thống hoá tài liệu đă được viết ra trong các sách, báo, tạp chí trong nước và ngoài nước của nhiều tác giả. Vì khuôn khổ sách có hạn, cho nên những nội dung được đưa ra có sự lựa chọn, những nôi dung tương tự được sắp xếp lại và rút gọn. Đối với một số loài cây, không trình bày đầy đủ các nội dung như ở một số loài cày khác để tránh nặng nể và lặp lại. Chúng tôi xin chân thành cám ơn các tác giả đã có những tư liệu được sử dụng trong tập sách này. Để tránh rườm rà và làm cho tập sách quá dày, chúng tôi không nêu lại tất cả các tên tác giả, các bài báo và sách, tạp chí, báo đã được tham khảo. Mong các bạn thông cảm và lượng thứ. TÁC GIẢ 4 Phần thứ nhất PHÁT TRIỂN CÂY ĂN QUẢ Ở NƯỚC TA I. TÌNH HÌNH VÀ ĐẶC ĐlỂM p h á t TRlỂN c â y An q u á ở v iệ t n a m Trong 20 năm gẫn đây, tính lìr nám 1980 đến nay, diện tích cây ãn quả ở Việt Nam tâng lên liên tục. Nãm 1980 cả nước có 185.600 ha cây ăn quả, đến năm 1998 diện tích này lên đến 43K.400 ha, tăng hơn 2 lần. Tỷ lệ diện tích cây quả trong tổng diện tích cây trồng cũng răng lèn, từ 2,24% năm 1980 lên 3,75% nãm 1998 (xem bciiiịỊ I). Bảng ỉ : Diện tích cây ùn (Ịiiả à Việt Nam CỊUƠ các ìiăm (không tiìúì cìiệ/1 tích âìểit vù dừa) Năm Tổng diện tích cây trồng ( lOOOha) Diện lích cây án quả(lOOOha) Tý ]ệ diện tích cây ăn quả trong tổng diên tích cây trồng (%) 1980 8.251,0 185,6 ■ 2,24 1985 8.556,0 217,7 2,54 '1990 9.040,0 281,2 3,11 1995 10.496,9 372,8 3,55 1998 11.704,8 438,4 3,74 Trên đất nước ta, dâu đâu cũng có thể phái triển cây ăn quả, tính nào cũng có cây ăn qiui. Tuy vậy, do đạc dicm củu các đicii kiện khí hậu đất đai mỗi vùng cỏ nhừng cây LUI quá chủ lực. Nhìn chung, vùng đồng bằng sông Cửu Long là nơi có đicii kiện ihuận lợi nhài cho phát triển các ỈOÌH cày ăn qua. Nám 1998, diện lích trồng cày ăn quả của đổng bàng sông Cửu Long là 189.000ha trong số 438.400 ha cây án quả của cả nước. Đỏng bằng sồng Cửu Long có những diện (ích lớn vể cây ãn quả có múi (41.267 ha), chuối (34.K84 ha), nhíĩn và cliôin chôm (36.993 ha), dừa (104,487 ha). Vùng Đông Bắc nước ta giữ vị trí thứ 2 về diện tích í rồng cây án quá so với các vùng khác trone cả nước. Nãm 1998, diện tích cây ăn quả của vùng Đông Bắc là 57.400ha. Vùng Đông Bắc có những diện tích lớn về cây ãn quả có múi (10.l05ha), nhãn và v;’)i (22.562ha). Vùng Đông Nam Bộ có vị trí thứ 3 về diện tích cây ăn qua. Năm 1998, vìing này có 56.600ha cây ăn quả (không tính diện tích điều và dừa). Vừng này có diện tích trổng lớn đối với những loại cây: chuối (9.700ha), điểu (!63.438hu. trong số ^ìày có hàng chục ngàn hecla đang cho thu hoạch). Đồag bằng sông Hồng là vùng cây ăn quả truyền thống của Việl Nam, mặc dù về diện tích vùng này chỉ ở vị trí thứ 4. Năm 1998 vùng có 44.300ha diên lích cây ãti 5 quả. Đồng bằng sông Hồng có nhưng diện tích lớn về chuối (14.505ha), vải và nhãn (15.038ha), cây có múi (4.858ha). Bắc Trung Bộ là một vùng có diện tích cây ăn quả khá lớn. Nãm 1998 vùng này có 39.600ha cây ăn quả. Trong số này nhiều nhất là chuối (13.587ha), cây có múi (7.743ha). Đặc biệt, Bắc Trung Bộ là vùng có diện tích trổng dừa tương đối lớn so với các vùng khác ở phía Bắc nước ta. Năm 1998 vùng này có 2.814ha dừa, cung cấp dừa quả cho các tỉnh phía Bắc. Vùng Tây Bấc nước ta chỉ trong những năm gần mới phái triển cây ăn quá. Năm 1998 diện tích cây ăn quả ở vùng đạt 24.900ha. Trong số này, cây có diện lích lớn là nhãn và vải (10.221 ha), sau đó là chuối (2.540ha). Vùng duyên hải Nam Trung Bộ có diện tích cây ăn quả không nhiều, nãm 1998 vùng này chỉ có 18.000ha (không tính diện tích điều và dừa). Trong số này diện tích trồng chuối chiếm số lớn (9.052ha). Tuy vậy, vùng duyên hải Nam Trung Bộ có diện tích trồng dừa vào loại lớn nhất trong các vùng, chi sau vùng dồng bẳng sóng Cửu Long. Diện tích dừa của duyên hải miền Trung là 27.389ha (1998). Vùng này có diện tích điều khá lớn (15.764ha năm 1998). Tây Nguyên là vùng trồng cây ăn quả ít nhất nước ta. Năm 1998 cả vùng chí có 7.900ha (không tính diện tích điều và dừa). Trong số này diện tích chuối chiếm 2.592 ha. Tuy vậy Tây Nguyên có diện tích trồng điều khá lớn. Năm 1998 vùng này có 15.2] Jha điểu (bảng 2). Nhưng so với năm 1995 diện tích điều ở Táy Nguyên đã giảm 4.739 ha. Quá trình lăng giảm của từng nhóm cày ăn quả có những nct khác nhau trong bức tranh chung của cả nước cũng như ở tỉrng vùng kinh tế-sinh (hái. Sự lăng giam này chịu tác động trước hết của công tác quy hoạch phát triển cây ãn quá và củit quy hoạch phát triển các loại cày trồng nói chung, sau đó là chịu tác động của biến động thị trưòng trong nước và trên thế giới và cuối cùng là chÍỊi tác động của điểu kiên tự nhiên (khí hậu, đất đai ) và các điều kiện sản xuất (cơ cấu cây trổng, vệt tư kỹ thuật ) ở mỗi nơi. Nhìn chung, diện tích cây ăn quả trên địa bàn cả nước có lăng lên. Nhũng năm gần đây diện tích cây ăn quả có tốc độ tăng nhanh so với trước. Tuy vậy, so với nhu cầu của nhân dân ta về sản phẩm cây ăn quả cũng như so với tiềm náng đất đai và khí hậu để phát triển cây ăn quả ở nước ta, thì tốc dộ phát triển như vậy còn chậm và còn thiếu bền vững. Trong số các loại cây ãn quả có diện tích lăng lên trong những năm gần đây, tăng nhanh nhất là nhóm nhãn, vải, chôm chôm. Từ năm 1995 đến nãm 1998 cá nước có diện tích trồng các loại cây thuộc nhóm này tăng lên 55.300ha. Tàng nhiều nhất ở vìing đồng bàng sông Cửu Long sau dó đến vùng Đông Bắc. Cây điều có diện tích tăng khá, mặc dù vài năm gần đây việc tăng diện tích trồng điều có chững lại. 6 Đơn vị : ha Bảng 2. Diện tích một sô Cây ủn quả Việt Nam Cây ăn quả Năm Tổng diên tích cả nước Vùng đồng bằng sông Hồng Vùng Đông Bác Vùng Tây Bắc Vùng Bắc Trung Bộ Vùng duyên hải Nam Trung Bộ Vùng Tây Nguyên Vùng Đông Nam Bộ Vùng đổng bằng sồng Cừu Long 1995 372.800 42.400 33.600 20.300 36.200 17.100 6.800 41.500 I75.Ơ00 Cây án quả 1996 384.800 47.800 37.100 20.200 34.900 16.600 6.800 44.500 177.000 1997 426.100 44.500 55.300 23.500 38.700 15.400 7.300 55.400 186.000 (không tính dừa và điều) 1998 438.400 44.300 57.400 24.400 39.600 18.000 7.900 56.600 189.000 so sánh 1998-1995 +65.600 + 1.900 +23.800 +4.700 +3.400 +900 + 1.100 + 15.100 + 14.000 1995 55.589 1.893 4.824 1.443 6.148 330 109 263 40.579 19% 73.768 4.791 8.056 ĩ.476 6.801 547 111 1320 50.666 Cam, chanh, 1997 70.562 5.169 12.717 ỉ.032 7.302 868 160 1337 41.977 quýt 1998 67.465 4.858 10,105 975 7.743 854 178 1485 41.267 so sánh 1998-1995 + 1.876 +2.965 +5.281 -468 + 1.595 +524 +69 + 1222 +688 1995 66.773 6.192 3.183 1.265 10.950 7.006 2.198 9.833 26.136 1996 95.902 I 1.981 9.942 1.570 11.565 9.546 2.230 10.244 38.824 Chuối 1997 92.427 14.638 8.613 2.359 13.323 7.583 2.283 9.668 33.960 1998 . 96.132 14.505 9.292 2.540 13.587 9.052 2.592 9.700 34.884 so sánh 1998-1995 +29.359 +8.313 +6.109 + 1.275 +2.637 +2046 +394 -133 +8.748 Cây ăn quả Năm Tổim diện tích c;i nước Vùng đồng bằng sóng Hồng Vùng Đông Bắc Vùng Tây Bac Vùng Bác Trung Bộ Vùng duyẻn hải Nam Trung Bộ Vùng Tây Nguycn Vùng Đòng Nam Bộ Vùng đồng bàng sông Cừu Long 1995 ' 37.645 1.959 6.8K7 4.813 - - - 2.734 1 1.808 1996 73.661 24.502 9.664 7.106 1.205 97 15 1.560 29.512 Nhãn, v;ii, 1997 90.633 15.532 21.058 9.2)3 2.406 104 47 6.029 36.244 chóin chôm 1998 so sánh 92.975 15.038 22.562 10.221 2.249 118 77 5.717 36.993 1998-1995 +55.330 + 13.079 + 15.675 +5.408 - - - +2.983 +25.185 1995 172.879 264 1 3 2.784 20.071 534 lơ.266 138.956 1996 154.417 304 3 2.822 29.766 449 10.378 1 10.595 Dừa 1997 143.239 286 52 3 2.813 27.442 552 7.337 104.754 199K so sánli 142.504 433 52 3 2-814 27.389 557 6.769 104.487 1998-1995 '30.375 + 169 +52 0 +030 +7.318 +23 -3.497 -34.469 1995 159.065 - - - - 7.786 19.960 131.389 - 1996 194.937 - - - - 13.881 20.331 158.307 - Đicu 1997 202.536 - - - - 14.376 21.659 146.029 - 1998 so sánh 196.003 - - - - 15.764 15.221 163.438 - 1998-1995 +36.938 - - - - +7.978 -4.739 ^163.438 - Nguốn ệ- Nhà xuất b;in Thống kê - Hà Nỏũ 1999. "Sổ liệu thốne kê Nông - Lâm nghiệp - Thuỷ san Việt Nam 1990-1998". Nhóm cam, chanh, quýt có tăng nhưng không đáng kể. Đặc biệt là diện tích ưổng dừa giám. Cà nước giảm 30.375ha trong đó riêng vùng đổng bằng sổng Cửu Long, vùng irồng nhiều dừa nhất cả nước, giảm ticn 34.469ha so với nãm 1995. Diện lích cắc nhóm cây ãn quả ở các vùng kinh tế- sinh thái trên địa bàn cả nước lăng giảm không giống nhau. Tinh hình này tuỳ ihuộc vào điều kiện và đặc điếm của mỏi vùng nhưng diều đáng lưu ý là việc tăng giảm diện tích một loại cây m;ing nhiều dậc điểm tự phát. Tinh hình phát Iriển cây ăn quả ở Việl Nam trong nhữne năm gần dây cho thấy: chúng ta dang có bước phái triển mới trên lĩnh vực sán xuất cây ăn qiui thể hiện ớ : - Nhiểu địa phương đã chú ý đến phát triển cây ăn qua, coi đó là một trong những giái pháp để đa dạng hoá sản xuất nông nghiệp. Nhiểu hộ nông dân đã nhận (hức được qua hoạt động thực tế sán xuất của mình là trồng cây ăn quá có những đóng góp lo lớn trong thu nhập của gia đình, nâng cao đời sống và sức khoe của các thành viên trong gia đình. Tìr những nhận thức được nâng lên, các phong trào cái tạo vườn tạp, làm VAC được hương ứng nhiột tình ở khắp nơi và trở thành một hoạt động sỏi nối mang lại nhiéu hiệu qrnì thiết thực ở kháp nơi trong cả nước. - Nhiều vùng đất cho đến nay chưa được đưa vào sử dụng hoặc sử dụng chưa có hiệu qua, những năm gần đây do có thêm những hiểu biết về cây ăn qua, do có những hoạt động di chuyển dân nên đã được sử dụng trồng cây ân quả mang lại nhiều kết qua tốt trên các phưcng diện kinh tế, xã hội, mỏi trường. Vùng vải thiều ở huyên Lục Ngạn (Bắc Giang) vùng mận Tam hoa ở Bắc Hà (Lào Cai), vùng mơ ờ Sơn La, vùng trồng điều ở Ninh Thuận, vùng cam ờ Bắc Quang (Hà Giang) đểu là những vùng đíiì trước dây chưa dược sử dụng trong nòng nghiệp. - Quá trình phủ xanh đất trống đồi trọc ở một số nơi đã được kết hợp chặt chẽ với phát triển cây ăn quả. Cổc mô hình vườn rừng, vườn đồi được xây dựng và đang từng buớc được mở rông ờ nhiều nơi. Trong các mô hình này, các loại cây ăn quá có nơi là thặnh phần cây trồng chủ yếu, có nơi là thành phần cây trồng tham gia, nhưng dù ở vị trí nào, ở các mổ hình này, cây ăn quả cũng được xem là cày nuing lại hiệu quả sớm nhất, tốt nhất. Cùng với chủ trương chuyển đất trống, đồi trọc thành đất nông nghiệp, nhiều nơi khuyến khích mọi công dân có điều kiện phát triển kinh tế trang trại. Nhiều trang trại đã được xây dựng và hoạt động có hiệu qu;i irên mọi miền đất nước. Trong số các trang trại nàý, có nhiều trang trại đang kinh doanh sản xuất cây ăn quá. - Cùng với việc phát triển cây ãn qui, bữa ăn của nhàn dàn ta và dặc hiệt là của nông dân đang từng bước đirợc cải thiện rõ rệt. Nếu như trước đáy, thành phấn chủ yếu trong các bữa ăn của nhân dân ta là chất bộl (cơm, khoai, sắn) thì nay trong bữa àn có thêm đường, vitamin Việc cái tiến cơ bán hữa ăn làm thay đổi nhân ilúrc cuá ngưòi dàn và góp phẩn thay đổi nhận thức của các nhà quản lý. Chúng ta lhường lo 9 lắng cho việc đảm bảo an toàn lương thực cho toàn xã hội. Đê' đảm bảo an toàn lương thực chúng ta phấn đấu để có bình quân lương thực tính cho 1 người là 400-500kg thóc. Và để đảm bảo bữa ăn phải có ít nhất 13kg gạo cho 1 người trong 1 tháng. Chính vì vậy, mà chúng ta ]o sản xuất lúa và các loại cây lương thực khác. Hiện nay ở các nước còng nghiệp trên thế giới, trong bữa ăn của người dãn, phần chất bột chi chiếm tỉ lệ không nhiều, trong khi các sản phẩm quả, củ, rau chiếm tỉ lệ ngày càng cao. Người dân Nhật Bản hàng tháng chỉ dùng hết 5-6kg gạo 1 người. Nếu nhân dân ta chỉ dùng lOkg gạo/người/tháng thì hàng nãm chúng ta có thể giảm sàn xuất lúa gần 5 triệu tấn thóc, và có thể để dành gần 1 triệu ha đất để sản xuất các loại sản phẩm khác có giá trị cao hơn là sản xuất lương thực. Tuy nhiên, bên cạnh những tiến bộ đã đạt được, tình hình phát triển cày ăn qiui ở Việt Nam trong thời gian qua còn bộc lộ một số mặt bất cập saú đây : - Tốc độ phát triển còn chậm. Trong quá trình phát triển cây ăn quả còn nhiều lúng túng, nhiều khó khăn trở ngại nảy sinh không khắc phục được ]àm cho quá trình phát triển có lúc chững lại, nhiểu loai cây dược trồng lên lồi lại chật phá, nhiều lúc sản xuất phát triển theo đường vòng. Khó khăn lón nhất đang được đạt ra hiện nay đối với phát triển cây ăn quả ở Việt Nam là bảo quản, chế biến và thị trường thiêu thụ. Vùng vải Lục Ngạn, vùng mận Bắc Hà, vùng mơ dọc đường số 6 lên Tây Bắc, vùng đào Sapa nhiều vụ thu hoạch nông sản không bán được quả, giá quả tại chỗ thấp đến mức không thể bù được chi phí lao động để làm ra sản phẩm. Nhiều nơi sản phẩm không bán được đế hỏng, để thối hàng trãm, hàng nghìn tấn. Các loại quả phần lớn chỉ đirợc sử dụng để ăn tươi, trong khi hệ thống đường sá giao thống chưa thuận tiện, nơi sản xuất đến nơi tiêu thụ sản phẩm lại cách xa nhau, cho nên đến mùa thu hoạch, hiện tượng thừa ứ sản phẩm xảy ra, dẫn đến giám chất lượng, hỏng thối nhiều. Vấn đế bảo quản tươi đang còn là một khó khăn chưa được giải quyết. Mỏt số tiến bộ khoa học chưa được đưa vào sản xuất cho nên vào vụ thu hoạch, giá quả lất rẻ, nhưng hết vụ thu hoạch lại không còn quả để đáp ứng yêu cầu của thị trường. Chế biến quả rất đơn giản và thô sơ, một số quả như nhãn, vải chủ yếu được sấy khô. Ở một số nơi có xây dựng một số nhà máy chế biến quả nhưng không đủ nguyên liệu để hoạt động, thời gian hoạt động ngắn, hàng năm chỉ hoạt dộng vào khoảng 30-40 ngày. Vì vây, các nhà máy thường đạt công suất hoạt động thấp, không có hiệu quả kinh tế. Những khó khăn trên đây làm cho quá trình phát triển cây ãn quả ở Việt Nam dicn biến thất thường, lúc tàng lúc giảm. Cuối cùng tính trong một khoảng thời gian dài thì có tăng lên nhưng tốc độ tãng châm. - Quá trình phát triển cây ãn quả ở Việt Nam trong thời gian vừa qua chưa thật sự vững chắc, có những nguyên nhân khách quan như đă nêu trên đây, nhưng cũng 10 có những nguyên nhản do công tác lổ chức, quản lý, do trình độ sán xuấl còn nhiếu hạn chế. Trước hết việc phát tricn cây ăn quả còn thiếu những quy hoạch tổng thể được xây dựng một cách có đầy đủ cân cír khoa học và thực tiễn. Nhiều trường hợp việc phát triển một loại cày nào đó xuất phát chủ yếu từ những quyết định mang tính tự phát của người nông dân hoặc xuất phát tCr những ý định mang tính chủ quan cảm tính của người lãnh đạo và quản lý ở dịa phương. Trong cơ chê thị trường, những tác động của thị irường có phần nào anh hưởng đến quá trình s;in xuất. Do đó những biến động thường xuyên xày ra trên thị trường làm cho sản xuất cũng thiếu ổn định. Tír một nền kinh tế nông nghiệp quy mô nhỏ, mang tính tự (úc đi lên, chúng ta còn thiếu nhiều cơ sở vật chài trong nông thôn, sự gán bó giữa nông thôn và thành thị chưa thật chặt chẽ Irong một mối quan hộ phân công lao động, phàn công sán xuất hợp lý. Vì vậy, trong việc phát triển cây ăn quả, chúng ta chưa gniì quyết được inột cách đổng bộ và thòng suốt các khâu từ sàn xuất nông nghiệp đến bảo quán, chế biến, lưu thông đến thị trường, đến hàng hoá cho tận lới tay người tiêu dùng. Sản xuất cày án quả có những đặc điểm không hoàn toàn giống như sán xuất lúa nước. Trong khi đó cơ sở vật chất kỹ thuật cho đến tổ chức, quản lý sản xuất, đến lưu thông phân phối ở nhiều địa phương trên đất nước ta được hình thành và xíìy dựng chủ yếu là đế phục vụ cho sản xuất lúa nước. Hệ thống cơ sở vạt chất kỹ thuật cũng như tổ chức quán lý sản xuất đó chưa thể đáp ứng một cách tốt nhất cho viêc sán xuất cây àn quả. Để tạo điều kiện cho việc phát triển sân xuất cây ăn quà tốt hơn, ổn định hơn cần có những bổ sung, cải tiến trong hệ thống cơ sd vật chất kỹ thuật cũng như tổ chức quản lý sản xuất hiện có. - Nhiều vấn đề khoa học cồng nghệ có liên quan đến phát triển cây ăn quả ỏ' Việt Nam chưa được giải quyết một cách cơ bản và đổng bộ. Trong đó có những vấn đề về giống cây, về kỹ thuật canh tác, về phòng trừ sâu bệnh , có những vấn để về bảo quản, lưu thông, chế biến , có những vấn đề về tổ chức, quản lý sán xuất, về hàng hoá, thị trường Những năm gần đây Nhà nước ta đã có chú ý đến việc đàu tư thúc đẩy các hoạt động khoa học công nghệ cũng như ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật vào sán xuất và phát lriến ciìy ăn quả. Những cố gáng này dã góp phán khỏníĩ nhỏ vào bước phát triển Cíìy ăn quả ở Việt Nam. Tuy nhiên cho đến nay, nhiều nhươc điểm của sản phẩm cây ãn quá nước ta như chất lượng quả kém, thiếu đồng đều, mã dáng không đẹp, nhiều tiêu chuẩn kỹ thuật thấp so với tiêu chiiẩn của đòi hỏi thị trường quốc tế đang làm cho giá irị quà của nước ta rất thấp trên thị trường thế giới. Ngay ở thị trường trong nước, quả của tu cũng cạnh tranh kém với các loại quả nhập từ các IIƯ Ớ C khác, đặc biệt là các loại quá nluìp từ các nước lân cận như Trung Quốc, Thái Lan. Trong sán xuất, nhiều vấn đề nảy sinh ta chưa giái quyết dược một cách cơ bán vì thiếu khoa học-công nghệ. Phái triển sán xuất cây ăn qua thườn í gặp trở ngại lớn là tác hại của sâu bệnh. Cam quýt cua ta đang vấp trở ngại là bệnh vàng lá, vái thiều đang bị bệnh chêì héo, đu đủ bị bênh xoăn lá ngọn Nhiều vườn cam bị chặl bỏ vì bệnh vàng lá, nhiều vườn đu đủ bị đốn vì bệnh xoăn lá ngọn. Những trở ngại này là bước cán lớn trên con dường phát triển cây ăn quả , và chi có những thành công của khoa học cỏng nghệ mới dỡ bỏ được những trờ ngại này. Nhiều vân đề vể bảo quàn, về chế biến, về công nghệ sau thu hoạch đang được dặt ra và đang chờ giải quyết. Những vấn để này đối với cày ăn quả mang ý nghĩíi quyết định cao hơn, cấp bách hơn so với sàn xuất cây lương thực. Nhiều vấn đề kinh tế cây ăn quả, những vãín để tổ chức, quản lý sán xuất, cơ chế chính sách, quy hoạch kế hoạch đang cần có những giải quyết trcn cơ sử khoa học công nghệ đầy đủ. - Việt Nam có nliiểu tiềm năng phát triển cây àn quả, nhưng cho đến nay những tiềm năng đó chưa đirợc khơi dậy và chưa được phát huy tốt dể phục vụ cho cuộc sống củ;i nhân dân. ớ Việt Nam tìr Bắc chí Nam, từ Đông sang Tây dâu đâu cũng trồng được cây ăn qiui. Tỉnh nào cũng trổng được cày ăn quả, chưa nói là tỉnh nào cũng có loại quá đặc sán cúa mình với hương vị riêng, độc đáo mà ở nơi khác không có được : ' Lạng Sơn có đào Mẫu SƠ 1 1 , quýt Bắc Sơn, mận Hậu, na Chi Lăng. Cao Bằng có hạt dẻ Trùng Khánh. LÌIO Cai có đào Sapa, mận Bắc Hà. Hà Giang có cam Bắc Quang. Phú Thọ có bưởi Chí đám, quýt Đan Hà, liồng Hạc. Hà Nội có hồng xiêm Xuân Đính, bưởi Canh, Hà Nam có quýt Lý Nhân. Hà Tày có quýt Tich Giang, Nam Định có chuối ngự Đại hoàng, quá vàng tươi, thơm. Bắc Giang có cam Bô' Hạ, vải Lục Ngạn. Hưng Yên có nhãn lồng, ngọt, thơm, dày cùi, dễ bóc. Hải Dương có vải Thanh Hà. Thanh Hoá có cam sành, cam giấy Bản Thuỷ ven sông Mã. Nghệ An có cam Xã Đoài. Hà Tĩnh có cam Bù, bười đường Hương Sơn, bưởi Phúc Trạch. Quảng Bình có cam Voi. Thừa Thiên-Huế có thanh (rà. Bình Định có xoài Bình Định. Khánh Hoà có xoài Cam Ranh Ninh Thuận có nho. Bình Định có thanh long. Miền Đòng Nam Bộ có bưởi Biẽn Hoà, na daí. 12 Tây Nguyên có sầu riêng, bơ Lâm Đồng. Miền Tây Nam Bộ có miệt vườn giàu cây trái với xoài cát Hoà Lộc, nhăn tiêu da bò, sầu riêng hạt lép, ổi, chôm chôm, vú sữa, và nhiều loại quả khác. Chúng ta còn nhiều đất đai để phát triển cây ăn quả. Cùng với sự phát triển cua khoa học công nghệ, cùng với bước phát triển trong đầu tư xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho nông nghiệp, chúng ta có thể có thêm hàng triệu hecta trong số trên dưới 10 triệu hecta đít trống đồi núi trọc để phát triển cây ăn quả. Phát triển cây ãn quả là một trong những hướng đa dạng hoá nông nghiệp Việt Nam, trên cơ sở phát huy tốt tài nguyên khí hậu, đất đai và sinh vât của nước ta. Tuy vậy, cho đến nay diện tích cây ăn quả nước ta mới chỉ có 438,4 nghìn hecta, chiếm 3,74% diện tích các loại cây trổng. Như vậy diện tích cây ăn quả còn quá ít, còn khiêm tốn trong tỷ lệ so với một số loài cây trồng khác và so với tiểm năng. II. GIÁ TRỊ CÂY ẢN QƠẢ VÀ MỘT s ố VẤN ĐỀ CAN c h ú ý t r o n g PHÁT TRIỂN 1. Những gỉá trị của cây ăn quả Trong nền kinh tế nông nghiệp Việt Nam, nhóm cây ăn quả có nhiều giá trị trèn các phương diện kinh tế, môi trường và xã hội. a) Giá trị dinh dưỡng : Nhóm cây ãn quả là nhóm cung cấp nhiều loại chất dinh dưỡng cho con người. Có thể nói, quả cây cung cấp cho con người mọi chất dinh dưỡng mà cơ thể cần có, đặc biệt là các loại nguyên tố vi lượng như vitamin, chất khoáng. Nhờ có các loại quả mà con người được cung cấp các chất dinh dưỡng, một c;ích đa dạng, đầy đủ và đồng bộ. Đây là một trong những đặc điểm inà các loại lương thực không có. Các loại quả cũng là yếu tố cung cấp các chất dinh dưỡng cho con người một cách cân đối, tạo điều kiện cho cơ thể phát triển hài hoà. Những mất cân đối trong bữa ăn do sử dụng quá nhiều các chất bột, được các loại quả bổ sung, khảc phục bằng cách cung cấp thẽm vitamin, đường dẻ tiêu, muối khoáng, b) Giá trị y học : Nhiều loại cây ăn quả , với các bộ phận khác nhau : rẽ, lá, hoa, quả, vỏ quả, vỏ thân !à những vị thuốc được sử dụng khá phổ biến trong các loại thuốc đỏng y. Có thế nói hầu hết cây ăn quả đểu ]à cây thuốc. Cây ăn quả với giá trị dinh dưỡng cao, vị ngọt hương thơm là yếu tố rất quan trọng trong bồi bổ, phục hồi, bổ sung sức khoẻ cho con người. Lá cầy, vỏ quả nhiễu loài cây ăn quả có những túi (inh dầu, nhiổu cây có các ancaloit.các phytonxit,các chất bay hơi Những chấl này đirợc cây ăn quả thường 13 xuyên giải phóng vào không khí, tiết ra trong môi trường, góp phần làm trong sạch môi trường, tiêu diệt nhiều loài vi khuẩn vi nấm làm cho mổi trường trở lên trong lành, mát mẻ. c) Giá trị kinh tế : Cây ăn quả là loại cây mang lại giá trị kinh tế cao. Một hecta cây ăn quả hàng năm có thể cho doanh thu hàng trăm triệu đồng, trong khi đó một hecta trồng lúa chỉ cho doanh thu 20-30 chục triệu đổng. Đặc biệt cây ăn quả là loại cây tạo thu nhập về tiền cho nông dân. Vườn cây, tuy nhiéu nơi coi là kinh tế phụ gia đình nhưng trong thực tế, mọi nhu cầu của nông dân, ngoài nhu cầu về lương thực, đều tròng chờ vào mảnh vườn, ở những vùng nghề làm vườn phát triển, cuộc sống của nông dân no đủ hơn, sung túc hơn so với những vùng chỉ sản xuất độc canh cây lương thực. , Vườn cây ăn quả, vói một cơ cấu và mât độ hợp lý là những hệ sinh thái góp phần nâng cao giá trị của đất đai, sử dụng tốt hơn các tài nguyên thiên nhiên và khí hậu, sử dụng tốt hơn khoảng không gian để tạo ra nhiều sản phẩm cho xã hội. Cùng với các vườn cây ăn quả, con người có thể tổ chức sản xuất nông nghiệp trên nhiểu tầng không gian, thay vì sản xuất trên một tầng mặt bằng như những cánh đổng lúa, những ruộng ngô. Trong vườn cây ăn quả có thể tổ chức sản xuất quanh năm, ”mùa nào thức nấy" làm cho tài nguyên thiên nhiên như : ánh sáng, độ ẩm, nhiệt độ được sử dụng hợp lý hơn, mang lại hiệu quả cao hơn. d) Giá ỉ í A ữ h ộ i: Nhiéii Jia phương đã sử dụng việc phát triển cây ăn quả để xoả đói giảm nghèo. Bà con Bắc Hà gọi cây mận là cây xoá đói giảm nghèo của nông dân. Trong chương trình xoá đói giảm nghèo của một số nơi, phát triển cây ăn quả được xem là một giải pháp quan trọng. Cùng với giá trị kinh tế cao, cây ãn quả góp phần tăng đáng kế thu nhập của nông dân và do đó nâng cao đời sống của các hộ nông dân. Những vùng có nghể vườn phát triển, đòi sống của cư dân nông thôn trở nên trù phú, vãn minh. đ) Giá trị nhân văn : Vườn cây ăn quả là thạc địa, là môi trường để giáo dục con cái những hiểu biết về thiên nhiên, góp phần xây đắp tình yêu đối với thiên nhiên. Từ lòng yêu thiên nhiên, yêu cây cối, yêu mảnh vườn mà nâng cao lên, bổ sung cùng cố tình yêu xóm làng, quê hương đất nước. Vườn cây ăn quả với vẻ đẹp sâu kín, tĩnh lặng góp phần làm dịu không khí những ngày nắng nồng, làm ấm hơn những ngày đông giá buốt. Vườn làm dịu đi những cãng thẳng trong cuộc sống, là nơi con người tìm đến với thiên nhiên sau những giờ lao động căng thẳng, mệt nhọc. Tuổi già thường tìm đến với những vườn cây ãn quả. Với dạng lao động nhẹ 14 nhàng : nhặt hái lá sâu, thụ phấn bổ sung cho hoa, nhặt quả rụng những người có tuổi tìm thấy ở vườn cây nơi hoạt động và rèn luyện thân thể, nơi thư giãn, nơi tĩnh dưỡng tinh thần. Có lẽ không có gì tốt hơn cho sức khoẻ và tinh thần của những người cao tuổi là các vườn cây ăn quả. e) Giá trị cõng nghiệp : Một số loài cây ăn quả lại vừa là cây công nghiệp. Cây điều, cây dừa, và một số cây khác vừa cho ta quả, hạt để ăn như những cây ăn quả khác, vừa là nguyên liệu cho các hoạt động công nghiệp chế biến. Nhiều sản phẩm từ cây ăn quả là những sản phẩm cỏng nghiệp rất có giá trị. Có thể kể .Ể dầu dừa, dầu vỏ hạt điều, papain Các loại cày ăn quả là nguyên liệu của công nghiệp chế biến đổ hộp quả, mứt, nước quả, rượu vang. Phát triển các xí nghiệp chế biến quả phụ thuộc vào sản xuất cây ăn quả . Mặt khác công nghiệp chế biến nâng cao giá trị sử dụng và giá trị hàng hoá của sản phẩm cây ãn quả. Công nghiệp chế biến quả và các sản phẩm cây ăn quả là một lĩnh vực có nhiều triển vọng ở nước ta. Trong tương lai, khi diện tích cây ăn quả được mở rộng, khi các vùng chuyên canh cây ăn quả được hình thành, công nghiệp chế biến quả vừa là yếu tố thúc đẩy phát triển nghề làm vườn trồng cây ăn quả, vừa là một ngành công nghiệp tạo ra sản phẩm có giá trị đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất khẩu của lĩước ta. Vưòn cây ăn quả còn là yếu tố quan trọng trong viêc làm trong lành môi trường các xí nghiệp còng nghiệp, góp phần phát triển bền vững cho công nghiệp. Xu hirớng xây dựng các xí nghiệp cỏng nghiệp hiện nay ở nhiổu nước trên chế giới là xây dirng các xí nghiệp - cồng vicn vùa đảm bảo môi trường sản xuất trong lành cho công nhàn, vừa làm đẹp canh quan xí nghiệp. g) Giá trị môi trường : Vườn cây ăn quả góp phần tạo môi trường sống trong lành cho cư dân nông thôn, một phẩn cư dân đô thị, nhất là ờ các đô thị nhỏ, nơi người dân có khuynh huớng lạo dựng các phố-vườn. ở các đô thị lớn, số nhà có vườn không nhiều nhưng những nhà có mành vườn nhỏ rất có giá trị trên phương diện làm trong ỉànli môi trường sống, ở những nhà thiếu đất trong thành phố, nhiều gia đình đã có nhiều cố gắng để tạo dạng vườn cây trên sàn thượng. Nhiều nhà trồng cây ở hành lang, trên ban công. Những nỗ lực trên đây cho thấy ý nghĩa sinh thái, ý nghĩa môi trường to lớn của các vườn cây. Cày ăn quả là những loại cây thích hợp để phủ xanh đất trống, đồi trọc. Trước đây việc đưa cây ăn quả lên các vùng đất trống đồi trọc gặp nhiểu khó khăn và phần lớn các trường hợp là không thành công. Gần đây do có những tiến bộ khoa học - công nghệ mới, do có sự phân bố lai dân cư, phân bố lại lao động, do các kêì câu hạ tẩng trong nông nghiệp được xây dựng, do hiếu biết của nông dân được nâng lên, do các hoạt động khuyến nông ngày càng có kết quả hơn, cho nên ờ nhiều nơi cây án quả trờ thành các loài cây rất thích hợp cho việc phủ xanh đất trống, đồi trọc. Vùng vải Lục Ngạn (Bắc Giang), vùng mơ Sơn La, vùng mận, mơ Bắc Hà (Lao Cai), vùng điều Đổng Nai, Ninh Thuận là những vùng cày ăn quả đã được đưa lên đồi thành công. Cây ăn quả được đưa lên đồi trở thành những cây có giá trị về kinh tế, đồng thời có ý nghĩa lớn trong việc phủ xanh đất đai , nâng cao độ che phủ đất, góp phần cải tạo môi trường sống và mỏi trường sinh thái. Cùng với việc phủ xanh, nhiều loài cây ăn quả.có tác dụng cải tạo đất, biến đất đồi hoang thành đất nông nghiệp. Nhiều vùng đất trũng được lèn liếp trồng cây ăn quả, đất càng ngày càng tốt lên. Các khu du lịch, các điểm du lịch nếu được đưa cây ăn quả vào trồng thành những vườn lớn, những cánh rừng sẽ là nơi hấp dẫn lớn đối với khách. Chùa Hương có mơ, Sapa có đào, Nha Trang có xoài Cây ăn quả vừa làm cho các khu du lịch đẹp hơn, hấp dẫn hơn vừa góp phần cải tạo môi trường sinh thái. Đất nước ta có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển cây ãn quả. Trong tương lai, diện tích cây ăn quả có thể đưa lên 2-3 triệu hecta, lúc đó, dất nước ta có thế xem như ]à một vườn cây ăn quả lớn. Đến lúc đó nhiều vấn đề kinh tế-xã hội-môi trường sẽ có bước phát triển mới, an toàn lương thực-thực phẩm được đảm bảo hơn, mặt hàng xuất khẩu phong phú hơn, sức khoẻ nhân dân tăng thêm, đời sống tinh thần và vãt chất của nhân dân được nâng lên, độ phủ xanh tăng, môi trường sinh thái được cải thiện đáng kể. 2ề Một sô vấn đề cần được chú ý trong phát triển cây ăn quả ở Việt Nam a) Cây ăn quả ở nước ta có rất nhiều giống chủng. Cho đến nay cây ãn quả được trồng ở địa phương, chủ yếu là do nhân dân tự tìm lấy giống, tự đế’ lấy giống. Vì vậy, thường là gặp giống nào trổng giống ấy, học được kỹ thuật nào trổng theo kỹ íhuật đó. Giống cliủim các loại cây ăn quả do đó thường rất nhiều. Mặt khác, do điều kiện khí hậu, đấl dai ở nước ta rất đa dạng, có nhiều biến động, cho nên các dạng, kiểu sinh thái của các loài cây ăn quả rất phong phú. Hiện tượng nhiều giống chủng cây ăn quả là kết quả của quá trình phát triển cày ăn quả ở nước ta trong những năm vừa qua. Hiện tượng này tạo ra một số thuận lợi nhưng cũng có nhiều không thuận lợi. Có những mặl thuận lo'ị như sau : - Nhiều giống chủng khác nhau tạo nên những quần thể cây khồng thật sự đồng nhất irên từng vườn cây. Điều này làm cho sự phát sinh và phát triển hàng loạt của sâu bệnh gạp trở ngại. Cho nên sâu bệnh thường ít khi phát triển thành dịch và ít khi gây hại nặng. - Nhiều giống, chủng với các đặc điểm ít nhiều có khác nhau, trong đó có thế không chín cùng một (hời gian. Điều này cho phép người làm vườn kéo dài thời gian thu hoạch và được sảr^ phẩm với các giá trị khác nhau. Giá đầu vụ và cuối vụ thường cao hơn giữa vụ. - Nhiéu giống chủng cho phép người làm vườn lựa chọn loại hình phù hợp với 16 Tây Nguyên có sầu riêng, bơ Lâm Đồng. Miển Tây Nam Bộ có miệt vườn giàu cày trái với xoài cát Hoà Lộc, nhãn tiêu da bò, sầu riêng hạt lép, ổi, chôm chôm, vú sữa, và nhiều loại quả khác. Chúng ta còn nhiều đất đai để phát triển cây ăn quả. Cùng với sự phát triển của khoa học công nghệ, cùng với bước phát triển trong đầu tư xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho nòng nghiệp, chúng ta có thể có thêm hàng triệu hecta trong số trên dưới 10 triệu hecta đít trống đổi núi trọc để phát triển cây ăn quả. Phát triển cây ãn quả là một trong những hướng đa dạng hoá nông nghiệp Việt Nam, trên cơ sở phát huy tốt tài nguyên khí hâu, đất đai và sinh vật của nước ta. Tuy vậy, cho đến nay diện tích cây ăn quả nước ta mới chí có 438,4 nghìn hecta, chiếm 3,74% diện tích các loai cây trồng. Như vậy diện tích cây ăn quả còn quá ít, còn khiêm tốn trong tỷ lệ so với một số loài cây trồng khác và so với tiềm năng. II. GIÁ TRỊ CÂY ÁN QUẢ VÀ MỘT s ố VẤN ĐỀ CAN c h ú ý t r o n g PHÁT TRIỂN 1. Những giá trị của cây ăn quả Trong nền kinh tế nông nghiệp Việt Nam, nhóm cây ăn quả có nhiều giá trị trên các phương diện kinh tế, môi trường và xã hội. a) Giá trị ditik dưỡng : Nhóm cây ăn quả là nhóm cung cấp nhiều loại chất dinh dưỡng cho con người. Có thể nói, quả cây cung cấp cho con người mọi chất dinh dưỡng mà cơ thể cần có, đặc biệt là các loại nguyên tố vi lượng như vitamin, chất khoáng. Nhờ có các loại quả mà con ngưòi được cung cấp các chất dinh dưỡng, một cách đa dang, đầy đủ và đồng bộ. Đây là một trong những đặc điếm mà các loại lương thực không có. Các loại quả cũng là yếu tố cung cấp các chất dinh dưỡng cho con người mót cách cân đối, tạo điều kiện cho cơ thể phát triển hài hoà. Những mất cân đối trong bữa ăn do sử dụng quá nhiều các chất bột, được các loại quả bố sung, khác phục bằng cách cung cấp thêm vitamin, đường dễ tiêu, muối khoáng. b) Giá trị y học : Nhiểu loại cây ãn quả , với các bộ phận khác nhau : rễ, lá, hoa, quả, vỏ quả, vỏ thản là những vị thuốc được sử dụng khá phổ biến trong các loại thuốc đông y. Có Ihể nói hầu hết cây ãn quả đều là cây thuốc. Cây ãn quả với giá trị dinh dưỡng cao, vị ngọt hương thơm là yếu tố rất quan trọng irong bồi bô, phục hồi, bổ sung sức khoẻ cho con người. Lá cây, vỏ quả nhiẻu loài cây ãn quả có những túi tinh dầu, nhiểu cây có các anca1oit;các phytonxit,các chất bay hơi Những chất này được cây ãn quả thường 13 xuyên giải phóng vào không khí, tiết ra trong môi trường, góp phần làm trong sạch môi trường, tiêu diệt nhiều loài vi khuẩn vi nấm làm cho môi trường trở lên trong lành, mát mẻ. c) Giá trị kinh t ế : Cây ãn quả là loại cây mang lại giá trị kinh tế cạo. Một hecta cây ăn quả hàng năm có thể cho doanh thu hàng trăm triệu đồng, trong khi đó một hecta trồng lúa chỉ cho doanh thu 20-30 chục triệu đồng. Đặc biệt cây ăn quả là loại cây tạo thu nhập về tiền cho nông dân. Vườn cây, tuy nhiều nơi coi là kinh tế phụ gia đình nhưng trong thực tế, mọi nhu cầu của nông dân, ngoài nhu cầu về lương thực, đéu trông chờ vào mảnh vườn. Ở những vùng nghề làm vườn phát triển, cuộc sống của nông dân no đủ hơn, sung túc hơn so với những vùng chỉ sản xuất độc canh cây lương thực. Vườn cây ăn quả, với một cơ cấu và mật độ hợp lý là những hệ sinh thái góp phần nâng cao giá trị của đất đai, sử dụng tốt hơn các tài nguyên thiên nhiên và khí hậu, SỪ dụng tốt hơn khoảng không gian để tạo ra nhiều sản phẩm cho xã hội. Cùng với các vườn cây ăn quả, con người có thể tổ chức sản xuất nông nghiệp trên nhiều tầng không gian, thay vì sản xuất trên một tầng mặt bằng như những cánh đồng lúa, những ruộng ngô. Trong vườn cây ăn quả có thể tổ chức sản xuất quanh năm, "mùa nào thức nấy" làm cho tài nguyên thiên nhiên như : ánh sáng, độ ẩm, nhiệt độ được sử dụng hợp lý h>m, mang lại hiệu quả cao hơn. đ) Giá u xã hội .ệ Nhici Lia phương đã sử dụng việc phát triển cây ăn quả để xoá đói giảm nghèo. Bà con Bầc Hà gọi cây mận là cây xoá đói giảm nghèo của nông dân. Trong chương trình xoá đói giảm nghèo của một sô' nơi, phát triển cây ãn quả được xem là một giải pháp quan trọng. Cùng với giá trị kinh tế cao, cây ăn quả góp phần tâng đáng kể thu nhập của nông dân và do đó nâng cao đòi sống của các hộ nông dân. Những vùng có nghề vườn phái triển, đời sống của cư dân nông thôn trở nên trù phú, văn minh. đ) Giá trị nhân văn : Vườn cây ăn quả là thực địa, là môi trường để giáo dục con cái những hiểu biết về thiên nhiên, góp phần xây đắp tình yêu đối với thiên nhiên. Từ lòng yẻu thiẻn nhiên, yêu cây cối, yêu mảnh vườn mà nâng cao lên, bổ sung củng cố tình yêu xóm làng, quê hương đất nước. Vườn cây ãn quả với vẻ đẹp sâu kín, tĩnh lặng góp phần làm dịu không khí những ngày nắng nồng, làm ấm hơn những ngày đông giá buốt. Vườn làm dịu đi những căng thẩng trong cuộc sống, là nơi con người tìm đến với thiên nhiên sau những giờ lao động căng thẳng, một nhọc. Tuổi già thường tìm đến với những vườn cây ăn quả. Vói dạng lao động nhẹ 14 nhàng : nhặt hái lá sâu, thụ phấn bổ sung cho hoa, nhặt quả rụng những người có tuổi tìm thấy ở vườn cây nơi hoạt động và rèn luyện thân thể, nơi thư giãn, nơi tĩnh dưỡng tinh thần. Có lẽ không có gì tốt hơn cho sức khoẻ và tinh thần của những người cao tuổi ỉà các vườn cây ăn quả. e) Giá trị công nghiệp : Một số loài cây ăn quả lại vừa là cãy cồng nghiệp. Cây điều, cây dừa, và một số cây khác vừa cho ta quả, hạt để ăn như những cây ăn quả khác, vừa là nguyên liệu cho các hoạt động công nghiệp chế biến. Nhiều sản phẩm từ cây ăn quả là những sản phẩm công nghiệp rất có giá trị. Có thể kể : dầu dừa, dầu vỏ hạt điểu, papain Các loại cây ãn quả là nguyên liệu của công nghiệp chế biến đồ hộp quả, mứt, nước quả, rượu vang. Phát triển các xí nghiệp chế biến quả phụ thuộc vào sản xuất cây ăn quả . Mạt khác công nghiệp chế biến nâng cao giá trị sử dụng và giá trị hàng hoá của sản phẩm cây ăn quả. Công nghiệp chế biến quả và các sản phẩm cây ăn quả là một lĩnh vực có nhiểu triển vọng ở nước ta. Trong tương lai, khi điện tích cây ãn quả được mở rộng, khi các vùng chuyên canh cây ãn quả được hình thành, công nghiệp chế biến quả vỉía là yếu tô' thúc đẩy phát triển nghề làm vưòn trồng cây ăn quả, vừa là một ngành công nghiệp tạo ra sản phẩm có giá trị đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất khẩu của nước ta. Vườn cây ăn quả còn là yếu tô' quan trọng trong việc làm trong lành môi trường các xí nghiệp còng nghiệp, góp phần phát triển bền vững cho công nghiệp. Xu hướng xây dựng các xí nghiệp công nghiệp hiện nay ở nhiều nước trên thế giới là xây dựng các xí nghiệp - công viên vừa dảm bảo mỏi trường sản xuất trong lành cho công nhân, vìra làm đẹp cảnh quan xí nghiệp. g) Giá trị môi trường ; Vườn cây ăn quả góp phần tạo môi trường sống trong lành cho cư dân nông thôn, một phần cư dân đô thị, nhất là ở các đô thị nhỏ, nơi người dân có khuynh huớng tạo dựng các phố-vườn. ở các đô thị lớn, số nhà có vườn không nhiều nhưng những nhà có mảnh vườn nhỏ rất có giá trị trên phương diên làm trong hình môi trường sống. Ở những nhà thiếu đâì trong thành phố, nhiều gia đình đã có nhiêu cố gắng để tạo dựng vườn cây trên sân thượng. Nhiều nhà trồng cây ở hành lang, trên ban công. Những nỗ lực trên đáy cho thấy ý nghĩa sinh thái, ý nghĩa môi trường to lớn của các vườn cây. Cây ãn quả là những loại cây thích hợp đế’ phủ xanh đất trống, đổi trọc. Trước đây việc dưa cây ãn quả ỉên các vùng dất trống đồi trọc gặp nhiều khó khãn và phần lớn các trường hợp là không thành công. Gần đây do có những tiến bộ khoa học - công nghệ mới, do có sự phân bố lại dân cư, phân bố lại lao động, do các kết cấu hạ tầng trong nông nghiệp được xây dựng, đo hiếu biết của nông dân dược nâng lên, do các hoạt dộng khuyến nông ngày càng có kết quả hơn, cho nên ở nhiều nơi cây ãn quả trở thành các loài cây rất thích hợp cho việc phủ xanh đất trống, đồi trọc. Vừng vải Lục Ngạn (Bắc Giang), vùng mơ Sơn La, vùng mận, mơ Bắc Hà (Lao Cai), vùng 15 điều Đổng Nai, Ninh Thuận là những vùng cây ăn quả đã được đưa lèn đồi thành công. Cây ăn quả được đưa lẽn đồi trở thành những cây có .giá trị về kinh tế, đồng thời có ý nghĩa lớn trong việc phủ xanh đất đai , nâng cao độ che phủ đất, góp phần cải tạo môi trường sống và môi trường sinh thái. Cùng với việc phủ xanh, nhiều loài cây ăn quả có tác dụng cải tạo đất, biến đất đồi hoang thành đất nông nghiệp. Nhiều vùng đất trũng được lên liếp trồng cây ản quả, đất càng ngày càng tốt lên. Các khu du lịch, cấc điểm du lịch nếu được đưa cây ân quả vào trồng thành những vườn lớn, những cánh rừng sẽ là nơi hấp dẫn lớn đối với khách. Chùa Hương có mơ, Sapa có đào, Nha Trang có xoài Cây ăn quả vừa làm cho các khu du lịch đẹp hơn, hấp dẫn hơn vừa góp phần cải tạo môi trường sinh thái. Đất nước ta có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển cây ăn quả. Trong tươiig lai, diện tích cây ăn quả có thể đưa lên 2-3 triệu hecta, lúc đó, đất nước ta có thế xem như là một vườn cày ăn quả lớn. Đến lúc đó nhiều vấn đề kinh tế-xã hội-môi trường sẽ có bước phái triển mới, an toàn lương thực-thực phẩm được đảm báo hơn, mật hàng xuất khẩu phong phú hơn, sức khoẻ nhân dân tăng thêm, đời sống tinh thần và vật chất của nhân dân được nâng lên,'độ phủ xanh tăng, môi trường sinh thái được cải thiện đáng kế. 2. Một sô vấn đề cần được chú ý trong phát triển cây ăn quả ở Việt Nam a) Cày ăn quả ở nước ta có rất nhiêu giống chủng. Cho đến nay cây ăn quả được trồng ở địa phương, chủ yếu là do nhân dân tự tìm lấy giống, tự đế lấy giỏng. Vì vậy, thường là gặp giống nào trồng giống ấy, học dược kỹ thuật nào trồng theo kỹ thuật dó. Giống chỉmg các loại cây ăn quả do đó thường rất nhiểư. Mậl khác, do điểu kiện khí hậu, dấl đai ỡ nước ta rất đa dạng, có nhiều biến động, cho liên các dạng, kiểu sinh thái của các loài cây ăn quả rất phong phú. Hiện tượng nhiều giống chủng cây ăn quả là kết quủ của quá trình phát triến cảy ăn quá ở nước ta trong những năm vừa qua. Hiện tượng này tạo ra mội sô' thuận lợi nhưng cũng có nhiều không thuận lợi. Có những mặt thuận ỉ ơi như sau : - Nhiều giống chủng khác nhau tạo nên những quần thể cày khống thật sự đổng nhất trên từng virờn cày. Điều này làm cho sự phát sinh và phát triển hàng loại của sâu bệnh găp trở ngai. Cho nên sâu bệnh thường ít khi phát triển thành dịch và ít khi gây hại nặng. - Nhiều giống, chủng với các đặc điểm ít nhiều có khác nhau, trong đó có thể không chín cùng một thời gian. Điều này cho phép ngưòi làm vườn kéo dài thời gian thu hoạch và được sản phẩm với các giá trị khác nhau. Giá đầu vụ và cuối vụ thường cao hơn giữa vụ. - Nhiều giống chủng cho phép người làm vườn lựa chọn loại hình phìi hợp vứi 16 điểu kiện tự nhiên và canh tác của mình. Trong điểu kiện trồng cây ăn quả một cách đại trà, chưa có những biện pháp tương ứng với các yêu cầu riêng của từng loại giống, việc có nhiều chủng loại thích hợp hơn với cách trồng chung và điều kiện tự nhiên của mổi vùng. Khi các điều kiện tự nhiên có nhiều biến động, trong lúc trình độ thâm canh còn nhiểu hạn chể, việc có nhiều giống chủng hạn chế được tình trạng mất trắng, là tình huống thường gặp khi chỉ trổng một loại hình đồng nhất. Những mặt khôiìíị thuận lợi của nhiều giống chủng là : - Khối lượng quả thu hoạch thường không đồng nhất về kích thước, màu sắc, độ chín và một số đặc tính sinh hoá. Sự khỏng đồng nhất về khối lượng quả, làm giá trị thương phẩm giảm nhiều, thậm chí khởng đạt được các yêu cầu theo tiêu chuẩn hàng hoá. - Nhiều chủng giống làm cho rất khó khăn thu được khối lượng hàng hoá lớn. Điều này là trở ngại lớn khi phải cung cấp nguyên liệu cho các xí nghiệp chế biến cũng như tạo thành khối lượng hàng cho xuất khẩu. - Nhiều chủng giống là trở ngại lớn trong việc áp dụng các tiến bộ khoa học- công nghệ. Phần lớn các tiến bộ khoa học-công nghệ chỉ phát huy tác dụng tốt khi dược tiến hành đúng (liều lượng, kỹ thuật, thời điểm, cơ cấu, v.v ), trên cơ sở hiểu sâu sắc đối tượng tác động, tức là giống cây trổng. Do có nhiểu chủng giếng cho nên khó hiểu sâu và đầy đủ các đặc điểm của từng chủng giống. Điều này đối với cán bộ kỹ thuật đã khó, đối với nồng dân là điểu không thể có được. Những thuận lợi trên đây phù hợp cho một nền sản xuất nhỏ, mang tính tự cấp tự túc. So với một nền sản xuất hàng hoá thì tình trạng nhiều giống chủng là những trở ngại cần được sớm khắc phục. Công tác giống cây ăn quả đang đặt ra nhiều yêu cấu đối với công tác khoa học cũng như cồng nghệ ở nước ta. Cần sớm có những kiểm kê và đánh giá các giống chủng cây ăn quả ở nước ta. Trên cơ sở gìn giữ và quản lý tốt nguồn gen, bảo tổn đa dạng sinh học của đất nước, cần nhanh chóng tiếp thu các tiến bộ khoa học và công nghệ về giống cây ãn quả của các nước trên thế giới. Thực hiện cuộc đổi mới về giống cây ăn quả để sớm có những giống tốt, đảm bảo năng suất cao, chất lượng đáp ứng các yêu cầu của thị trường trong nước cũng như xuất khẩu. b) Quả cây phần lớn là bộ phận mềm, chứa nhiều nước nên dếgỉập nát, hư hỏng. Trong nền nông nghiệp tự túc, vấn đề này không phải là việc lớn, nhưng trong nền kinh tế thị trường thì đây là một trong những vấn đề chi phối nhiều hoạt động khác. Đặc điểm này cần được chú ý ngay từ khi chọn giống, sử dụng các giống cây trong sản xuất. Cẩn có những giống có quả có khả năng chịu được va đập, chống được sâu bệnh xâm nhập sau thu hoạch, có khả năng cất giữ được lâu, v.v Thu hái quả cần nhẹ nhàng, không làm sây sát vỏ quả. Điều này thực hiện tương đối dễ với một vài cây ăn quả trong vườn cho nhu cầu của gia đình, nhưng rất 17 khó thực hiện khi thu hái quả ở những vườn lớn với hàng chục hàng trăm tấn quả trong mỗi dợt thu hoạch. Quả cần chín đồng đều, vì nếu trong một khối hàng hoá mà quả có múc độ chín khác nhau rất dễ bị hư hỏng. Quả cần có hình dáng và kích thước giống nhau mới hạn chế được hư hại, giập nát trong quá trình cất giữ vận chuyển. Ở nhiều nước có nghề trồng cây ăn quả phát triển trên thế giới người ta đã có nhiều công trình nghiên cứu khoa học có liên quan đến đặc điểm này. Trên cơ sở các kết quả nghiên cứu người ta đã xây dựng và áp dụng những quy trình thu hái, bảo quản, chuyên chở, đóng gói sản phẩm cây ăn quả nói chung và riêng cho từng loại quả. Ở nước ta còn ít cồng trình nghiên cứu trên lĩnh vực này. Vì vây, trên con đường phát triển cây ăn quả ở nước ta đây là vấn đề cần được chú ý một cách thoả đáng. c) Tính chu kỳ trong phát triển cây ăn quả là một đặc điểm cần được tính đến đầy đủ trong tổ chức sản xuất. Cây ăn quả có những loài cây hàng năm, nhưng phần ỉớn là những loài cây lâu năm. Đối với cây lâu năm, điều đầu tiên cần được lưu ý là chu kỳ kinh tế. Một vườn cây ăn quả thường trải qua các giai đoạn : kiến thiết cơ bản, thu hoạch ban đầu, thu hoạch chủ yếu và tận thu. 0 giai đoạn kiến thiết cơ bản, người làm vưòn bỏ vốn ra đầu tư mà không có thu hoạch gì. Giai đoạn này thường kéo dài 3-5 năm. Tuỳ theo loại cây mà có thể dài hơn hoặc ngắn hơn. Ba giai đoạn sau là những giai đoạn quan trọng trong chu kỳ kinh tế của cây ăn quả. Chu kỳ này đặc trưng cho từng loại cây. Tính toán hiệu quả kinh tế của cây ăn quả người ta thường tính toán cho từng chu kỳ kinh tế. Ở giai đoạn ban đầu năng suất cùa cây chưa cao và đang tích luỹ dần qua các năm. Ở giai đoạn này thu nhập của người nông dân thường chỉ đủ bù đắp cho những chi phí bỏ ra để chãm sóc và duy trì vưòn cây. Giai đoạn này thường được tác động để rút ngăn lại, càng chóng kết thúc càng tốt. Tuy nhiên, những biện pháp tác động trong giai đoạn này có ý nghĩa rất lớn đối với giai đoạn sau. Thường những tác động đó thể hiện ờ năng suất, chất lượng quả, ở thòi gian kéo dài và do đó ảnh hưởng đến hiệu quả kinh tế của giai đoạn sau và của toàn bộ chu kỳ kinh tế của cây. Giai đoạn thu hoạch chủ yếu có ý nghĩa quyết định trong chu kỳ kinh tế của cây ăn quả. Ngưòi nông dân trồng cây ăn quả có thu nhập chính ở giai đoạn này. Thu nhập ở giai đoạn này không những cần bù đắp được tất cả chi phí để chãm sóc, tu bổ vườn cây, mà còn bù đắp những chi phí bỏ ra trong thời kỳ kiến thiết cơ bản, và tạo ra lợi nhuận cho người làm vườn. Ở giai đoạn này, năng suất quả tiếp tực tãng trong thời kỳ đầu rồi đạt đến đỉnh cao về năng suất. Đỉnh cao năng suất này được duy trì một thời gian. Thời gian này có thể dài hoặc ngắn tuỳ thuộc vào đặc tính của giống, vào điểu kiện khí hậu thời tiết và vào các biện pháp kỹ thuật canh tác được áp dụng. Sau đó năng suất giảm đần và cây chuyển sang giai đoạn tiếp theo. Giai đoạn này càng kéo dài ra càng tốt, nông dân càng thu lợi nhuận cao.Vì vây, người làm vườn cố gắng tìm mọi cách và áp đụng những biện pháp thảm canh để vừa nâng cao năng suất, vừa kéo dài giai đoạn này. Trong thực tế sản xuất giai đoạn này thường bị rút ngấn lại do nhiều nguyên nhàn khác nhau: có thể là do chăm sóc kém, chăm bón không đầy đủ, có thể là do sâu bệnh gây hại làm cho cây chóng tàn. Giai đoạn này bị rút ngắn làm cho hiệu quả kinh tế của cây thu được không cao. Thậm chí có những trường hợp chủ vườn không thu lại đủ chi phí đầu tư cho kiến thiết cơ bản và cho chăm sóc cây. Giai đoạn tận thu thường ngắn. Ở giai đoạn này thu nhập từ vườn cần đủ bù đắp chi phí chăm sóc vườn cây và lợi nhuận của người nông dân. Người chủ vườn cần lựa .chọn thời gian kết thúc phù hợp đảm bảo cho chu kỳ kinh tế của vườn cây đạt hiệu quả cao nhất và toàn bộ hoạt động sản xuất của người làm vườn đạt hiệu quả kinh tế ; cao nhất. Như vậy, làm vườn trồng cây ăn quả không thể chỉ tính toán góí gọn trong từng vụ hoặc từng năm sản xuất, mà cần có tầm nhìn về cách bố trí sản xuất tương ứng với từng chu kỳ kinh tế. Tính chu kỳ trong phát triển cây ăn quả còn thể hiện ở chu kỳ ra quả của cày. Những người làm vườn thường gặp tình trạng ''một năm ra quả, một năm trả cành”. Cây ãn quả thường gặp một năm cho năng suất cao, một nãm không ra quả hoặc cho năng suất không đáng kể. Hiện tượng này đã được nhiều người nghiên cứu và nhiều nông dân làm vườn giỏi có những biộn pháp có hiệu quả. Đây là một hiện tượng thường xảy ra đối với cây ăn quả. Vì vậy, người làm vườn cần chú ý tìm học tập kinh nghiệm và kỹ thuật khắc phục để vườn cầy luôn cho năng suất, đảm bảo hiệu quả thường xuyẻn của nghề làm vườn. d) Công tác bảo vệ thực vật ở vườn cây ăn quả có những nét riêng Cây ăn quả thường phát triển nhiều cành lá, quanh năm trên cây có những bộ phận non mềm ; hoa, quả là những bộ phận chứa nhiều nước, mểm cho nên thường bị nhiều loài sâu bệnh gây hại. Nhưng bên cạnh đó, vườn cây ăn quả là một hệ sinh thái tương đối ổn định, các cơ chế cân bằng trong hệ sinh thái đó được thiết lập và hoạt động tương đối có hiệu quả. Vì vậy sâu bệnh tuy nhiểu, nhưng chỉ gây ra những thiệt hại đáng kể khi trạng thái cân bằng sinh học trong vườn cây bị rối loạn hoặc bị phá vở. , Từ những đặc điểm trên, công tác bảo vệ thực vật trong vườn cây ăn quả có những nét khác so với phòng trừ sâu bệnh cho cây lương thực ở ngoài đổng. Có những biện pháp áp dụng tốt cho cây lương íhực nhưng không thể áp dụng cho vườn cây ãn quả, thí dụ như luân canh, cày vùi gốc rạ, cày lật đất, cho nước vào ngâm ruộng, v.v Ngược lại, có những biện pháp áp dụng tốt và có hiệu quả trong vườn 19 cây, nhưng không áp dụng được hoặc áp dụng được nhưng mang lại hiệu quả thấp ở đông ruộng, thí dụ như quét vôi gốc cày, trổng cây thu hút thiên địch tự nhiên, thả gà vào vườn nhặt sâu. Cũng cần chú ý là vườn cây ăn quả, nhất là các vườn gia đình, thường ở rất gần nhà ở của người, vì vậy, nhiều biện pháp khi tiến hành phải rất thận trọng để tránh ảnh hưởng xấu đến con người và các loài gia súc gia cầm. Để phòng trừ sâu bệnh cho các vườn cây ăn quả cần thực hiện tổng hợp bảo vệ cây. Tình thần tổng hợp cần được xuyên suốt trong toàn bộ quy trình, trong mỗi biện pháp và giải pháp, trong việc sử dụng các loại vật tư, và thiết bị. Tổng hợp bảo vệ cây trong vườn cây ăn quả được thực hiện theo các hướng sau đây : + Áp dụng cúc biện pháp kỹ thuật tạo điều kiện cho cây phát triển tất : Cây ãn quả phát triển trong các điều kiện thuận lợi sẽ có khả năng phát huy các đặc tính tốt, trong đó có đăc tính chống chịu sâu bệnh. Vì vây, cần áp dụng các biện pháp kỹ thuât thâm canh, đặc biệt là các biện pháp phù hợp với yêu cầu của từng loại cây, từng giống cây. Tuy nhiên, cần chú ý là cây phát triển tốt không đổng nhất với cây có đặc tính chống chịu sâu bệnh cao. Bởi vì, trong số các loài sinh vật gây hại, có một nhóm các loài chỉ phát sinh và gây hại nặng trong điều kiện cây sinh trường và phát triển tốt. Vì vậy, trong công tác phòng trừ sâu bệnh gây hại, điều quan trọng là điều tiết sinh trưởng và phát triển của cây phù hợp với tình hình phát sinh và gây hại của các loài sâu bệnh, làm sao cho cây ở trong trạng thái tốt nhất, có khả nãng chống chịu cao nhất đối với những loài có nguy cơ gây hại nhiều nhất, Các biện pháp kỹ thuật thâm canh, cũng như điều tiết sinh trưởng và phát triển của cây đều hướng tới thu hoạch năng suất cao. Vì mục tiêu đạt năng suất quả cao, cho nên trong một số trường hợp, có thể chấp nhận để sâu bệnh phát sinh ở những mức đô nhất định trên các bộ phận sinh trưởng cuả cây. + Tụo nên những quần thể đa dang trong vườn cây Một quẩn thể đa dạng là một bộ phận của hệ sinh thái tương đối bền vững, trong đó các mối quan hệ giữa các loài sinh vật thường ở trong trạng thái cân bằng. Vườn cây ăn quả có thể áp dụng nhiều hệ thống trồng trọt khác nhau để tạo nên những quần thể đa dạng : - Hỗn canh : trồng hỗn hợp nhiều loại cây trên từng đơn vị diện tích. Trên phương diện phòng trừ sâu bệnh, hỗn canh tạo nên sự không đồng nhất trong nguồn thức ăn, trong không gian cư trú của các loài gây hại. Điều này gây trở ngại cho sâu bệnh phát sinh hàng loạt và gây ra những trận dịch lớn. - Xen canh : trồng xen những cây trổng phụ vào giữa các hàng cây ăn quả. ở những năm đầu cây ăn quả chua khép tán, có thể trổng một sô' loài cây lương thực, đậu đỗ. Khi cây ăn quả đã khép tán có thể những cây che bóng, những cây nguồn mật cho 20 các loài thiên địch. Việc trổng các loại cây nguổn mật có ý nghĩa rất lớn trong việc thu hút ký sinh, thiên địch giúp trừ sâu bệnh hại có hiệu quá trong các vườn cây. - Hợp canh : sử dụng cac loại cây công sinh, cây tương hỏ trồng chung với cây ăn qua. Các loài cây cộng sinh tạo nên sự đa dạng trong quần thể cây trồng vườn cây. Có thế trồng trầu không, hồ tiêu cho leo lên cây cau, cây mít, cây sầu riêng, v.v Trong mội quần thể sinh vật đa dạng, các loài sâu bệnh có thể vẫn tồn tại nhưng do những mối quan hộ ổn định giữa các loài sinh vật trong quẩn thể đó cũng như do tính khống đổng nhất trong mói trường, vì vậy khó tích luỹ nhanh, nhân lên với tốc độ lớn cho nên khó gày hại lớn và phát sinh thành dịch sâu bệnh. + Thực hiện vệ sinh vườn cây : Vệ sinh vườn cây vừa có tác dụng trực tiếp loại trừ và ngăn ngừa một số loài sâu bênh gây hại cụ thể như bọ xít, sâu xám, chuột, v.v , vệ sinh víra có tác dụng phòng trừ sâu bệnh nói chung bẳng cách tiêu diệt các ký chủ trung gian (các loài cỏ dại, cày dại trong vườn ), loại bỏ các nơi trú ẩn, v.v Trong vườn cây ăn quả, còng tác vệ sinh được thực hiện chủ yếu qua các biện pháp sau đây : - Diệt trừ cỏ dại, cây dại. - Quét vôi thân cây vào mùa đống - Cắt tỉa cành khô, cành bị sâu bệnh, cành vượt, cành tăm. - Thu dọn tàn dư cây và đưa ra khỏi vườn. Về ý nghĩa phòng trừ sâu bệnh của các biện pháp trên đây dễ dàng nhận thấy. Tuy nhiên việc thực hiện các biện pháp trên đây cần chú ý đến 2 vấn đề rất cẩn thiết đối với vườn cày ăn quả. Thứ nhất là, việc tăng cường các chất hữu cơ cho đất, đất vườn cíin rất nhiều chất hữu cơ vì vậy khi thu dọn quá triệt để cây cỏ dại, các tàn dư cày, chúng ta đã lấy di của vườn một kliối lượng chất hữu cơ rất đáng kể. Thứ hai là, cần chống rửa trôi, xói mòn trong đất vườn. Đất vườn nếu không có cây che phủ, chịu tác động trực tiếp của ánh nắng, gió, đòng chảy của các trận mưa lớn sẽ bị rửa trôi nhanh chóng lớp đất mặt. Điểu này có ảnh hường không nhỏ đến năng suất quả và tuổi thọ của cây làm rút ngắn chu kỳ khai thác. Các chất hữu cơ, cây cỏ đại trong vườn, là các yếu tố có ý nghĩa lớn trong việc chống rửa trôi, xói mòn đất. Vì vậy, các biện pháp vệ sinh vườn cây là công việc cần thiết cần được tiến hành đcu đặn. Nhưng tuỳ theo tình hình cụ thể về diễn biến và gây hại của sâu bệnh mà có cách xử lý thích hợp đối với các chất hữu cơ. + Dù)ÌÍỊ phương pháp canh túc và tỉiủ CÔHÌỊ là có hiệu iịiKỈ kiììỉì tê nhất. Do đặc điểm ở gần nhà, người Irong gia đình có ihể nhiều lần trong ngày ra vườn, cho ncn đối với các vườn cây ăn quá, tốt nhất là dùng các biện pháp thú công và canh tác như sau : - Hái, thu gom các lá cây bị bệnh, đưa ra khỏi vườn. 21 Tóm tắt lý thuyếtLựa chọn mô hình trồng cây ăn quả, phù hợp với khí hậu, thổ nhưỡng tại địa phương, cựu chiến binh Nguyễn Văn Dũng (sinh năm 1960, ở xã Đông Sang, huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La) đang tạo được nguồn thu nhập cao, ổn định và từng bước vươn lên trở thành hộ giàu.
Cựu chiến binh Nguyễn Văn Dũng thu hoạch bưởi.
Ông tham gia làm nhiệm vụ quốc tế tại Campuchia từ năm 1978. Đến năm 1981, ông xuất ngũ trở về địa phương, cuộc sống gia đình lúc đó gặp rất nhiều khó khăn. Cuối năm 1981, ông rời mảnh đất quê hương ở xã Tự Nhiên, huyện Thường Tín (Hà Tây cũ) lên xã Đông Sang, huyện Mộc Châu, làm kinh tế mới. Năm 1987, ông Nguyễn Văn Dũng xây dựng gia đình, cuộc sống với nhiều khó khăn, vất vả. Vợ chồng ông phải đi ở nhờ, xoay xở nhiều nghề để phục vụ cuộc sống sinh hoạt hàng ngày. Nhưng với phẩm chất của người lính cụ Hồ, được tu dưỡng, rèn luyện trong môi trường quân đội, ông Nguyễn Văn Dũng đã nêu cao tinh thần hăng say lao động, quyết tâm vượt lên đói nghèo. Sau nhiều năm cần mẫn làm lụng, tiết kiệm, gia đình ông đã tích cóp được một số tiền để mua đất, làm nương rẫy, từ đó kinh tế gia đình ngày càng phát triển. Đến năm 2014, gia đình ông đã dồn điền, đổi thửa được gần 3 ha đất canh tác và bắt đầu trồng cây ăn quả. Với phương châm "lấy ngắn nuôi dài", đa cây, lấy cây này nuôi cây kia, ban đầu ông mua 160 cây bưởi Diễn đã cho thu quả về trồng. Những kinh nghiệm tích lũy được trong các chuyến tham quan học tập các mô hình trồng trọt hiệu quả ở nhiều nơi, cộng với thổ nhưỡng, khí hậu ở xã Đông Sang là vùng đất phù hợp với các loại cây ăn quả, ông đã tiếp tục đầu tư trồng bưởi da xanh, nhãn, bơ, quýt chum, cam Vinh. Năm 2017, gia đình ông đã trồng 4 ha cây ăn quả. Ông Nguyễn Văn Dũng luôn trăn trở, phải làm thế nào để có thể mang lại hiệu quả kinh tế cao nhất và bền vững. Làm nông nghiệp cần phải có tính khoa học, am hiểu thổ nhưỡng cũng như đặc điểm của từng loại cây trồng. Bởi vậy, ngay từ đầu, ông đã quy hoạch xây dựng mô hình rất bài bản và đầu tư mua các loại máy làm đất, máy phun thuốc trừ sâu, lắp đặt hệ thống tưới tự động. Mỗi loại cây được trồng riêng một khu, ở giữa có lối đi rộng để tiện chăm sóc, bón phân, thu hoạch quả. Đặc biệt, ông không trồng cam và bưởi gần nhau, vì hai loại cây này ra hoa cùng thời điểm. Nếu trồng gần nhau các loại côn trùng sẽ thụ phấn từ hoa bưởi sang hoa cam và ngược lại. Như vậy, hai loại quả này sẽ bị lai tạp, dẫn đến mẫu mã sản phẩm không đẹp và chất lượng không cao. Để có vườn cây ăn quả phát triển tốt, bên cạnh việc dày công chăm sóc, ông đã chọn mua cây giống từ Học viện Nông nghiệp Việt Nam, vì cây giống ở đây có nguồn gốc rõ ràng, năng xuất, chất lượng cao. Với tinh thần dám nghĩ, dám làm, vừa làm vừa học tập, rút kinh nghiệm để áp dụng vào thực tế mô hình của mình, gia đình ông đã trực tiếp làm, những lúc cao điểm cần bón phân, làm cỏ, phòng trừ sâu bệnh, thu hoạch, mới thuê thêm từ 6 đến 10 nhân công. Nhờ chăm sóc tốt, đúng quy trình kỹ thuật nên vườn cây ăn quả của gia đình ông không những đạt sản lượng cao, mà chất lượng sản phẩm rất thơm ngon, được thị trường đón nhận. Từ năm 2018 đến nay, vườn cây ăn quả của gia đình ông cho thu nhập hơn 600 triệu đồng/năm, trong đó 10 tấn nhãn đạt doanh thu 220 triệu đồng; 10 tấn bưởi Diễn đạt doanh thu 120 triệu đồng; 5,5 tấn bưởi da xanh đạt doanh thu 130 triệu đồng; 3 tấn quýt Chum đạt doanh thu 105 triệu đồng; 5 tấn cam Vinh đạt doanh thu 30 triệu đồng. Riêng 5.000 m2 trồng cam không hạt, dự kiến đến năm 2022 cho thu hoạch, ông sẽ có thêm nguồn thu.
Cựu chiến binh Nguyễn Văn Dũng ghép mắt bưởi da xanh.
Ông Nguyễn Văn Dũng cũng cho biết: Tháng 10/2020, diện tích trồng 150 cây bơ ghép chín muộn đã bắt đầu bói quả. Chỉ một cây đã cho thu 50 quả, đạt 60 kg, với giá bán 60 nghìn đồng/kg, ông thu về 3,6 triệu đồng. Vì vậy, niên vụ năm 2021, toàn bộ diện tích bơ đồng loạt cho quả, sản lượng ước đạt 9 tấn, doanh thu có thể đạt vài trăm triệu đồng. Hơn nữa, cây bơ là loại cây dễ trồng, dễ chăm sóc hơn cây có múi, nên thời gian tới ông sẽ tiếp tục mở rộng diện tích loại cây này. Ngoài ra, ông sẽ cắt bỏ 5.000 m2 đất trồng cam Vinh kém hiệu quả sang trồng bưởi da xanh và trồng xen canh cây dâu tây cùng với cam không hạt. Chủ tịch Hội Cựu chiến binh xã Đông Sang Lường Văn Trường cho hay, ông Dũng không chỉ phát triển kinh tế gia đình đạt thu nhập cao, mà còn tuyên truyền, vận động để nhân rộng mô hình, giúp các gia đình hội viên cựu chiến binh trong xã và huyện Mộc Châu cùng thực hiện, qua đó tạo việc làm cho nhiều lao động, góp phần ổn định và nâng cao đời sống. Ông Hồ Văn Hồng, Chủ tịch Hội Cựu chiến binh huyện Mộc Châu cho biết: Phát huy phẩm chất của người lính cụ Hồ, cựu chiến binh Nguyễn Văn Dũng luôn nêu cao tinh thần hăng say lao động, quyết tâm vươn lên làm giàu chính đáng. Mô hình của ông Nguyễn Văn Dũng đang mang lại hiệu quả kinh tế cao, không chỉ làm giàu cho bản thân, mà ông còn tận tình hướng dẫn các hội viên cựu chiến binh và nhân dân về kỹ thuật chăm sóc cây ăn quả, hỗ trợ hàng nghìn mắt cây giống không lấy phí. Cùng với đó, ông Nguyễn Văn Dũng nhiệt tình tham gia các hoạt động do Hội Cựu chiến binh huyện, xã phát động, góp phần tích cực vào công cuộc xóa đói giảm nghèo ở địa phương. Qua 6 năm trồng cây ăn quả, cựu chiến binh Nguyễn Văn Dũng đã trở thành là tấm gương sáng về tinh thần vượt khó, quyết tâm thoát nghèo, làm giàu chính đáng. Ông nhiều lần được huyện Mộc Châu và xã Đông Sang biểu dương, khen thưởng là cựu chiến binh làm kinh tế giỏi, nêu gương cho thế hệ trẻ học tập, noi theo.
Chia sẻ:
Từ khóa:
Đồng Nai phát huy thế mạnh trồng cây ăn trái(ĐCSVN) - Ðược thiên nhiên ưu đãi về đất đai, khí hậu, nguồn nước..., nhiều địa phương ở Đồng Nai rất thích hợp trồng cây ăn trái nhiệt đới với các chủng loại phong phú có giá trị kinh tế cao.
Theo Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Đồng Nai, hiện tổng diện tích cây ăn trái trên địa bàn tỉnh đã đạt gần 52 nghìn ha, tăng trên 800 ha so với năm 2018. Các cây trồng có diện tích tăng mạnh là chuối, thanh long, cam, bưởi… Không chỉ tăng về diện tích, sản lượng các cây ăn trái trên địa bàn tỉnh Đồng Nai cũng tăng cao, cụ thể sản lượng xoài đạt trên 48,5 nghìn tấn, tăng 2,5%; chuối đạt gần 50,5 nghìn tấn, tăng 4,5%; sầu riêng đạt 7 nghìn tấn, tăng gần 1,4%; chôm chôm đạt trên 98,8 nghìn tấn, tăng 2,2%; bưởi đạt trên 15 nghìn tấn, tăng gần 4%... Cũng theo Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Đồng Nai, với diện tích cây ăn trái trên, hàng năm tỉnh đã cung cấp ra thị trường trên 400 nghìn tấn sản phẩm. Từ chương trình đầu tư phát triển cây trồng chủ lực, đến nay, Ðồng Nai đã hình thành được các vùng chuyên canh với diện tích lớn như sầu riêng trên 1.700 ha, bưởi trên 700 ha, xoài trên 7.700 ha... Vùng chuyên canh bưởi Tân Triều- Vĩnh Cửu- Đồng Nai (Ảnh: K.V) Việc quy hoạch tập trung cây trồng đã mang lại nhiều lợi ích cho người sản xuất, đó là việc trao đổi kinh nghiệm, kỹ thuật trồng và chăm sóc cây. Việc áp dụng khoa học, kỹ thuật vào các vùng chuyên canh cũng tiện lợi hơn trước khi còn canh tác nhỏ lẻ. Do đó, năng suất cây trồng tăng từ 30% đến 80%, chất lượng nông sản được cải thiện rõ rệt, vì thế lợi nhuận của nông dân từ các loại cây trồng này từ 100 đến 200 triệu đồng/ha, thậm chí ở Hợp tác xã xoài Suối Lớn, huyện Xuân Lộc đã cho thu nhập 300 triệu đồng/ha/năm. Nhằm đưa sản phẩm nông nghiệp của Đồng Nai ra thị trường thế giới, trong đó có sản phẩm trái cây, nguồn sản phẩm dồi dào của địa phương này, UBND tỉnh Đồng Nai cũng đã phê duyệt đề án “Nâng cao năng lực cạnh tranh sản phẩm nông nghiệp tỉnh Đồng Nai trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế” theo Quyết định số 3066/QĐ-UBND ngày 27/9/2019. Các mục tiêu cụ thể được đặt ra trong đề án, trong đó mục tiêu đến năm 2030, ngành công nghiệp - dịch vụ chế biến nông sản trở thành ngành mũi nhọn của Đồng Nai, chiếm tỉ trọng 25-35% tỉ trọng GRDP của tỉnh, thu hút khoảng 20-30% lực lượng lao động của tỉnh. Đồng Nai trở thành trung tâm hàng đầu của cả nước về đổi mới sáng tạo và cung ứng công nghệ về công nghiệp - dịch vụ chế biến nông sản. Đề án sẽ được thực hiện trong giai đoạn 2019-2030. Trong đó xác định 7 nhóm mặt hàng có lợi thế, thế mạnh của tỉnh để tập trung các giải pháp hỗ trợ nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh sản phẩm trong đó có trái cây, cà phê, điều, tiêu… Đề án cũng đã xác định các nhóm giải pháp gắn với từng giai đoạn cụ thể, kinh phí thực hiện để thúc đẩy phát triển, nâng cao năng lực cạnh tranh cho sản phẩm nông nghiệp trên cơ sở đánh giá tác động của hội nhập quốc tế, thực trạng sản xuất nông nghiệp trên địa bàn tỉnh. Để thực hiện đề án, UBND tỉnh sẽ thành lập ban chỉ đạo triển khai các hướng đột phá thực hiện đề án, thành lập các nhóm công tác gồm lãnh đạo các sở, ngành liên quan và thành lập trung tâm tổng thể về xúc tiến đầu tư, thương mại hỗ trợ doanh nghiệp nông nghiệp giai đoạn 2021-2025…/.. K.V
|