Maẫu thuẫn là khái niệm dùng để chỉ gì năm 2024

5. Bản chất-hiện tượng. Bản chất là tổng hợp tất cả những mặt, những mối liên hệ tất nhiên tương đối ổn định bên trong quy định sự vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng đó. Hiện tượng là sự biểu hiện của những mặt, những mối liên hệ tất nhiên tương đối ổn định ở bên ngoài, mặt dễ biến đổi hơn và là hình thức biểu hiện bản chất của sự vật, hiện tượng.

Cũng cần phân biệt cái bản chất với cái chung; cái tạo nên bản chất của một lớp sự vật, hiện tượng cũng đồng thời là cái chung của chúng; tuy nhiên, không phải cái chung nào cũng là cái bản chất. Cái bản chất cũng là cái có tính quy luật; là phạm trù cùng bậc với phạm trù quy luật “Quy luật và bản chất là những khái niệm cùng một loại (cùng một bậc), hay nói đúng hơn, là cùng một trình độ, những khái niệm này biểu hiện con người nhận thức ngày càng sâu sắc các hiện tượng, thế giới”.

Mối liên hệ biện chứng giữa bản chất với hiện tượng và ý nghĩa phương pháp luận của nó 1) Bản chất và hiện tượng đều tồn tại khách quan bởi bất kỳ sự vật, hiện tượng nào cũng được tạo nên từ các yếu tố khách quan nằm trong mối liên hệ với nhau, trong đó có những mối liên hệ tạo thành bản chất. Vì vậy, chỉ có thể tìm bản chất ở bên trong sự vật, hiện tượng chứ không thể tìm ở bên ngoài sự vật, hiện tượng và khi đưa ra kết luận về bản chất của sự vật, hiện tượng tránh chủ quan, duy ý chí. 2) Bản chất và hiện tượng thống nhất với nhau; thể hiện ở chỗ bản chất bao giờ cũng bộc lộ ra qua hiện tượng, còn hiện tượng bao giờ cũng là sự biểu hiện của bản chất; bất kỳ bản chất nào cũng bộc lộ ra qua hiện tượng tương ứng, còn hiện tượng nào cũng là sự bộc lộ bản chất ở mức độ nào đó hoặc nhiều hay ít. Vì vậy, khi đi tìm bản chất, phải thông qua việc nghiên cứu các hiện tượng. 3) Tuy nhiên sự thống nhất giữa bản chất với hiện tượng có tính mâu thuẫn, chúng không bao giờ phù hợp nhau hoàn toàn; thể hiện ở chỗ a) bản chất phản ánh cái chung tất yếu, cái chung quyết định sự tồn tại và phát triển của sự vật, hiện tượng; hiện tượng phản ánh cái cá biệt b) bản chất là mặt bên trong, ẩn giấu của sự vật, hiện tượng; hiện tượng là mặt bên ngoài của sự vật, hiện tượng ấy c) bản chất tương đối ổn định, biến đổi chậm; hiện tượng không ổn định, biến đổi nhanh hơn bản chất. Vì vậy, để nhận thức được đầy đủ và đúng đắn về sự vật, hiện tượng không nên dừng lại ở hiện tượng mà phải đi sâu tìm hiểu bản chất, dựa vào bản chất. 4) Hiện tượng biểu hiện bản chất bao giờ cũng dưới dạng cải biến, nhiều khi bị xuyên tạc. Vì vậy, nhận thức bản chất của sự vật, hiện tượng phải đi từ các góc độ khác nhau của nhiều hiện tượng khác nhau, đặc biệt là những hiện tượng điển hình tồn tại trong những hoàn cảnh điển hình.

6. Khả năng-hiện thực. Khả năng là cái đang “tồn tại hiện thực” mà trong sự vận động nhất định sẽ có, sẽ xẩy ra khi có các điều kiện thích hợp tương ứng. Hiện thực là cái đang có, đang tồn tại thực sự bao gồm tất cả những sự vật, hiện tượng vật chất đang tồn tại khách quan trong thực tế và những hiện tượng chủ quan đang tồn tại trong ý thức. Phạm trù vật chất khác với phạm trù hiện thực, vật chất bao gồm tất cả những gì tồn tại ở bên ngoài và độc lập với ý thức con người; còn hiện thực bao gồm bao gồm tất cả những gì đang tồn tại khách quan (vật chất) lẫn những gì đang tồn tại chủ quan (ý thức); theo nghĩa này, hiện thực khách quan và hiện thực chủ quan được dùng để phân biệt các hiện tượng vật chất với các hiện tượng tinh thần.

Tùy thuộc vào sự hình thành khả năng, có khả năng tất nhiên (được gây nên bởi các tương tác tất nhiên như khi gieo đồng xu, xuất hiện một trong hai mặt) và khả năng ngẫu nhiên (được gây nên bởi các tương tác ngẫu nhiên, mặt xu sấp hay ngửa trong ví dụ trên). Khả năng tất nhiên còn được chia thành khả năng gần (đã gần đủ hoặc đủ điều kiện để chuyển thành hiện thực) và khả năng xa. Ngoài ra còn có các loại khả năng chủ yếu, thứ yếu; khả năng tốt, xấu; khả năng cùng tồn tại, không cùng tồn tại; khả năng thuận, khả năng nghịch v.v.

Mối liên hệ biện chứng giữa khả năng với hiện thực và ý nghĩa phương pháp luận của nó 1) Khả năng và hiện thực tồn tại trong mối quan hệ chặt chẽ với nhau, không tách rời nhau, luôn chuyển hóa cho nhau. Vì vậy, cần dựa vào hiện thực, nhưng cũng phải tính đến khả năng 2) ở cùng một sự vật, hiện tượng, có thể tồn tại một số khả năng. Vì vậy, cần lựa chọn và thực hiện khả năng 3) ngoài những khả năng vốn có, khi có thêm những điều kiện mới sẽ xuất hiện thêm những khả năng mới. Vì vậy, cần chú ý tới khả năng tất nhiên, khả năng gần 4) bản thân mỗi khả năng tăng lên hoặc giảm đi tùy thuộc vào sự biến đổi của sự vật, hiện tượng trong những điều kiện cụ thể. 5) trong lĩnh vực xã hội, khả năng không tự biến thành hiện thực. Vì vậy, cần tạo điều kiện cần thiết để nhân tố chủ quan tham gia vào quá trình đó.

Khi nghiên cứu các cặp phạm trù cần liên hệ chúng với nhau và với các quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật, bởi thế giới muôn hình, muôn vẻ, cho nên, dù quan trọng đến mấy, chỉ riêng các cặp phạm trù hoặc các quy luật cơ bản sẽ không phản ánh được các mối liên hệ bản chất của thế giới một cách đầy đủ bởi "Quy luật nắm lấy cái gì là yên tĩnh- mà chính vì vậy mà mỗi quy luật, mọi quy luật đều chật hẹp, không đầy đủ, gần đúng"

IV. CÁC QUY LUẬT CƠ BẢN CỦA PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT (Tiếp)

2. Quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập (quy luật mâu thuẫn)

  1. Vị trí, vai trò của quy luật. Quy luật mâu thuẫn là một trong ba quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật; nó chỉ ra nguồn gốc, động lực bên trong của sự vận động, phát triển. Sự vận động, phát triển của thế giới vật chất và của nhận thức được thực hiện bằng con đường chia đôi cái thống nhất thành các yếu tố, các mặt, xu hướng đối lập; thành mối liên hệ qua lại, đấu tranh, phủ định, chuyển hoá lẫn nhau để giải quyết những mâu thuẫn giữa chúng- về một mặt; về mặt kia, tạo ra động lực bên trong cho sự thay đổi, phát triển, chuyển hoá vào chất mới của cái thống nhất đó. Nói cách khác, yêu cầu khi nghiên cứu quy luật mâu thuẫn là nhận thức được rằng, đây là trung tâm, bản chất, là hạt nhân của phép biện chứng duy vật; bởi nó đề cập tới vấn đề cơ bản và quan trọng nhất của phép biện chứng duy vật- vấn đề nguồn gốc của sự vận động, phát triển; phản ánh quá trình đấu tranh giải quyết mâu thuẫn và khẳng định đấu tranh là phương thức giải quyết mâu thuẫn. Nắm vững được nội dung quy luật mâu thuẫn tạo cơ sở cho việc nhận thức các phạm trù và quy luật khác của phép biện chứng duy vật; đồng thời giúp hình thành phương pháp tư duy khoa học, biết khám phá bản chất của sự vật, hiện tượng và giải quyết mâu thuẫn nảy sinh. "Có thể định nghĩa vắn tắt phép biện chứng là học thuyết về sự thống nhất của các mặt đối lập. Như thế là nắm được hạt nhân của phép biện chứng, nhưng điều đó đòi hỏi phải có những giải thích và một sự phát triển thêm".
  1. Khái niệm mâu thuẫn, các tính chất chung, các loại mâu thuẫn và vai trò của mâu thuẫn đối với sự vận động và phát triển

Khái niệm mâu thuẫn. Trong phép biện chứng duy vật, mâu thuẫn là khái niệm dùng để chỉ sự liên hệ, tương tác, tác động lẫn nhau của các mặt đối lập. Yếu tố tạo thành mâu thuẫn là mặt đối lập- những mặt, thuộc tính, khuynh hướng vận động trái ngược nhau; cùng tồn tại trong một sự vật, hiện tượng, trong cùng một thời gian, một mối liên hệ; thường xuyên thống nhất, đấu tranh, chuyển hóa, triển khai lẫn nhau.

Mâu thuẫn có một số tính chất chung là tính khách quan, phổ biến và đa dạng, phong phú; thể hiện ở chỗ, trong tự nhiên, xã hội và tư duy đều có mâu thuẫn tồn tại không phụ thuộc vào ý thức con người,

Một số loại mâu thuẫn. Mâu thuẫn tồn tại khách quan trong mọi lĩnh vực của thế giới và hết sức đa dạng. Tính đa dạng đó phụ thuộc vào đặc điểm của các mặt đối lập; vào điều kiện mà trong đó sự tác động qua lại giữa các mặt đối lập triển khai; vào trình độ tổ chức vật chất của sự vật, hiện tượng mà trong đó mâu thuẫn tồn tại. Mỗi loại mâu thuẫn có những đặc điểm riêng và có vai trò khác nhau đối với sự tồn tại và phát triển của sự vật, hiện tượng. 1) Căn cứ vào quan hệ giữa các mặt đối lập đối với một sự vật, hiện tượng, người ta phân mâu thuẫn thành a) mâu thuẫn bên trong- là sự tác động qua lại giữa các mặt, các khuynh hướng đối lập, là mâu thuẫn nằm ngay trong bản thân sự vật, hiện tượng, đóng vai trò quyết định trực tiếp đối với quá trình vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng. b) Mâu thuẫn bên ngoài- là mâu thuẫn diễn ra trong mối liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng khác nhau có ảnh hưởng đến sự tồn tại và phát triển của sự vật, hiện tượng, nhưng phải thông qua mâu thuẫn bên trong mới phát huy tác dụng. 2) Căn cứ vào sự tồn tại và phát triển của toàn bộ sự vật, hiện tượng, người ta phân mâu thuẫn thành a) mâu thuẫn cơ bản- là mâu thuẫn quy định bản chất của sự vật, hiện tượng, quy định sự phát triển của sự vật, hiện tượng trong tất cả các giai đoạn, từ lúc hình thành cho đến lúc kết thúc và mâu thuẫn này tồn tại trong suốt quá trình tồn tại của sự vật, hiện tượng. b) Mâu thuẫn không cơ bản- là mâu thuẫn đặc trưng cho một phương diện nào đó của sự vật, hiện tượng, chịu sự chi phối của mâu thuẫn cơ bản; là mâu thuẫn chỉ quy định sự vận động, phát triển của một hoặc vài mặt nào đó của sự vật, hiện tượng. 3) Căn cứ vào vai trò của mâu thuẫn đối với sự tồn tại và phát triển của sự vật, hiện tượng trong một giai đoạn nhất định, người ta phân mâu thuẫn thành a) mâu thuẫn chủ yếu- là mâu thuẫn nổi lên hàng đầu ở một giai đoạn phát triển nhất định của sự vật, hiện tượng; có tác dụng quy định những mâu thuẫn khác trong cùng một giai đoạn của quá trình phát triển của sự vật, hiện tượng. Giải quyết mâu thuẫn chủ yếu sẽ tạo điều kiện để giải quyết những mâu thuẫn khác ở cùng giai đoạn. Sự phát triển, chuyển hoá của sự vật, hiện tượng sang hình thức khác phụ thuộc vào việc giải quyết mâu thuẫn chủ yếu. b) Mâu thuẫn thứ yếu- là những mâu thuẫn không đóng vai trò quyết định trong sự vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng. Tuy vậy, ranh giới giữa mâu thuẫn chủ yếu, thứ yếu chỉ là tương đối, tuỳ theo từng hoàn cảnh cụ thể; có những mâu thuẫn trong điều kiện này là chủ yếu, song trong điều kiện khác lại là thứ yếu và ngược lại. 4) Căn cứ vào tính chất của các lợi ích cơ bản là đối lập nhau của các giai cấp, ở một giai đoạn nhất định, người ta phân mâu thuẫn xã hội thành a) mâu thuẫn đối kháng- là mâu thuẫn giữa những giai cấp, những tập đoàn người, giữa những xu hướng xã hội có lợi ích cơ bản đối lập nhau và không thể điều hoà được. Đó là mâu thuẫn giữa các giai cấp bóc lột và bị bóc lột; giữa giai cấp thống trị và giai cấp bị trị. b) Mâu thuẫn không đối kháng- là mâu thuẫn giữa những khuynh hướng, những giai cấp, những tập đoàn người, những xu hướng xã hội có lợi ích cơ bản không đối lập nhau. Các mâu thuẫn đó là cục bộ, tạm thời.

Vai trò của mâu thuẫn đối với sự vận động và phát triển. Theo Ph.Ăngghen, nguyên nhân chính và cũng là nguyên nhân cuối cùng tạo nên nguồn gốc của sự vận động, phát triển của mọi sự vật, hiện tượng là sự tác động lẫn nhau giữa chúng và giữa các mặt đối lập trong chúng. Có hai loại tác động lẫn nhau dẫn đến vận động. Đó là sự tác động lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng và sự tác động lẫn nhau giữa các mặt đối lập trong một sự vật, hiện tượng. Cả hai loại tác động này tạo nên sự vận động; nhưng chỉ loại tác động thứ hai- loại tác động lẫn nhau giữa các cặp mặt đối lập do mâu thuẫn giữa chúng tạo nên mới làm cho sự vật, hiện tượng phát triển.

  1. Quá trình vận động của mâu thuẫn

Trong mỗi mâu thuẫn, các cặp mặt đối lập vừa thống nhất với nhau, vừa đấu tranh lẫn nhau tạo nên tình trạng ổn định tương đối của sự vật, hiện tượng. Thống nhất giữa các cặp mặt đối lập là khái niệm dùng để chỉ sự liên hệ giữa chúng, thể hiện ở 1) các cặp mặt đối lập cần đến nhau, nương tựa vào nhau, làm tiền đề cho nhau tồn tại; không có mặt này thì không có mặt kia 2) các cặp mặt đối lập tác động ngang nhau, cân bằng nhau thể hiện sự đấu tranh giữa cái mới đang hình thành với cái cũ chưa mất hẳn 3) giữa các cặp mặt đối lập tương đồng nhau, đồng nhất (do trong các mặt đối lập còn tồn tại những yếu tố giống nhau) với nhau thể hiện sự chung nhau đối với một số yếu tố, thuộc tính v.v. Đấu tranh lẫn nhau giữa các cặp mặt đối lập là khái niệm dùng để chỉ khuynh hướng bài trừ, phủ định nhau giữa các cặp mặt đối lập dẫn đến sự triển khai mâu thuẫn và sau đó đến sự chuyển hóa (do sự đồng nhất trên, trong những điều kiện nào đó, tạo nên) giữa các cặp mặt đối lập.

Trong sự thống nhất và đấu tranh trên thì 1) sự thống nhất giữa các cặp mặt đối lập có tính tạm thời, tương đối, là có điều kiện, thoáng qua, nghĩa là sự thống nhất đó chỉ tồn tại trong trạng thái đứng im tương đối của sự vật, hiện tượng 2) sự đấu tranh giữa các cặp mặt đối lập có tính tuyệt đối, nghĩa là sự đấu tranh đó phá vỡ sự ổn định tương đối của sự vật, hiện tượng dẫn đến sự chuyển hoá về chất của chúng. Tính tuyệt đối của sự đấu tranh gắn liền với sự tự thân vận động, phát triển diễn ra không ngừng của các sự vật, hiện tượng trong thế giới vật chất.

Tóm lại, quá trình vận động của mâu thuẫn trải qua các giai đoạn 1) khi sự vật, hiện tượng mới xuất hiện, mâu thuẫn thể hiện ở sự khác nhau giữa các cặp mặt đối lập 2) trong quá trình vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng và của chính các cặp mặt đối lập sự khác nhau giữa chúng trở thành xung đột, chuyển hóa thành mâu thuẫn 3) khi điều kiện chín muồi, các cặp mặt đối lập chuyển hóa lẫn nhau (theo các hướng hoặc bài trừ, phủ định lẫn nhau, hoặc mặt này triệt tiêu mặt kia, hoặc cả hai mặt đều bị triệt tiêu). Mâu thuẫn được giải quyết làm cho sự vật, hiện tượng cũ mất đi, sự vật, hiện tượng mới ra đời; sự khác nhau, xung đột, mâu thuẫn lại được tái lập và giải quyết mâu thuẫn dẫn đến sự chuyển hóa; cứ như vậy, sự vật, hiện tượng luôn tồn tại trong tình trạng vận động và phát triển không ngừng. Đó là lý do để khẳng định mâu thuẫn là nguyên nhân, giải quyết mâu thuẫn là động lực vận động, phát triển của các sự vật, hiện tượng trong tự nhiên, xã hội và tư duy.

  1. Ý nghĩa phương pháp luận của quy luật

Từ nội dung quy luật mâu thuẫn, rút ra một số nguyên tắc phương pháp luận trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn. 1) Quy luật mâu thuẫn giúp nhận thức đúng bản chất của sự vật và tìm ra phương hướng, giải pháp đúng cho hoạt động thực tiễn bằng con đường phát hiện mâu thuẫn của sự vật, hiện tượng. Muốn phát hiện ra mâu thuẫn cần tìm ra thể thống nhất của các cặp đối lập trong sự vật, hiện tượng. 2) Quy luật mâu thuẫn giúp việc phân tích mâu thuẫn phải bắt đầu từ việc xem xét quá trình phát sinh, phát triển của từng mâu thuẫn; xem xét vai trò, vị trí và mối quan hệ lẫn nhau giữa các cặp mặt mâu thuẫn và điều kiện chuyển hoá lẫn nhau giữa chúng. 3) Quy luật mâu thuẫn giúp nhận thức được rằng, để thúc đẩy sự vật, hiện tượng phát triển phải tìm cách giải quyết mâu thuẫn, không được điều hoà mâu thuẫn. Mọi mâu thuẫn chỉ được giải quyết khi có đủ điều kiện chín muồi; không nóng vội hay bảo thủ, trì trệ khi giải quyết mâu thuẫn.

3. Quy luật phủ định của phủ định

  1. Vị trí, vai trò của quy luật

Là một trong ba quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật, quy luật phủ định của phủ định chỉ ra khuynh hướng, hình thức và kết quả của sự phát triển của sự vật, hiện tượng thông qua sự thống nhất giữa tính thay đổi với tính kế thừa trong sự phát triển theo đường xoáy ốc từ thấp đến cao, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn. Quy luật phủ định của phủ định chỉ được thực hiện hoàn toàn trong cái nguyên vẹn; cái đã thực hiện xong một cách tương đối của quá trình phát triển, nghĩa là sau khi đã trải qua các mắt xích của các sự chuyển hoá qua lại, chúng ta đã có thể xác định được kết quả (theo hướng của sự phát triển) cuối cùng.

  1. Khái niệm phủ định, phủ định biện chứng

Phủ định. Thế giới vận động và phát triển không ngừng; sự vật, hiện tượng sinh ra, tồn tại, phát triển rồi được thay thế bằng sự vật, hiện tượng khác- sự thay thế đó gọi là phủ định. Nói cách khác, sự ra đời của sự vật, hiện tượng mới từ sự vật, hiện tượng cũ được gọi là phủ định.

Phủ định biện chứng là sự tự phủ định, lực lượng phủ định ở bên trong sự vật, hiện tượng. Mọi sự vật, hiện tượng đều diễn ra thông qua những phủ định, trong đó có những phủ định chấm dứt sự tồn tại, vận động và phát triển; nhưng cũng có những phủ định tạo tiền đề, điều kiện cho quá trình phát triển tiếp theo của sự vật, hiện tượng- đó là phủ định biện chứng. Nói cách khác, phủ định biện chứng là quá trình tự phủ định, tự phát triển, là mắt xích trong sợi xích dẫn tới sự ra đời của sự vật, hiện tượng mới, tiến bộ hơn so với sự vật, hiện tượng cũ.

Các đặc trưng cơ bản của phủ định biện chứng là

  1. tính khách quan, là điều kiện của sự phát triển bởi sự vật, hiện tượng tự phủ định mình do các mâu thuẫn bên trong chúng gây ra, phương thức phủ định không phụ thuộc vào ý thức con người; việc giữ lại những yếu tố tích cực của sự vật, hiện tượng bị phủ định là tạo ra tiền đề cho sự xuất hiện sự vật, hiện tượng mới.
  1. tính kế thừa và là cầu nối giữa sự vật, hiện tượng bị phủ định (cũ) với sự vật, hiện tượng mới (phủ định) bởi sự vật, hiện tượng mới ra đời từ sự vật, hiện tượng cũ, duy trì những yếu tố tích cực của sự vật, hiện tượng bị phủ định dưới dạng lọc bỏ, cải tạo, biến đổi để phù hợp với sự vật, hiện tượng mới. Giá trị của sự kế thừa biện chứng được quy định bởi vai trò của những yếu tố tích cực (phù hợp) được kế thừa.

Đường xoáy ốc. Vì còn những yếu tố mang tính kế thừa nên sự phát triển của sự vật, hiện tượng không phát triển theo đường thẳng mà diễn ra theo đường xoáy ốc. Đường xoáy ốc là hình thức diễn đạt rõ nhất các đặc trưng của quá trình phát triển biện chứng là tính kế thừa, tính lặp lại, nhưng không quay lại và tính tiến lên của sự phát triển. Sự phát triển dường như lặp lại, nhưng trên cơ sở mới cao hơn là đặc điểm quan trọng nhất của quy luật phủ định của phủ định. Mỗi vòng mới của đường xoáy ốc thể hiện trình độ cao hơn của sự phát triển và sự nối tiếp nhau của các vòng của đường xoáy ốc thể hiện tính vô tận của sự phát triển từ thấp đến cao.

  1. tính chu kỳ theo phương thức tiên đề-phản đề-hợp đề. Phủ định lần thứ nhất làm cho sự vật, hiện tượng chuyển thành sự vật, hiện tượng đối lập với nó. Phủ định lần thứ hai dẫn đến sự ra đời của sự vật, hiện tượng mới mang nhiều nội dung tích cực của sự vật, hiện tượng bị phủ định, nhưng cũng mang nhiều nội dung đối lập với sự vật, hiện tượng đó. Như vậy, phủ định của phủ định mới hoàn thành được một chu kỳ phát triển, đồng thời lại là điểm xuất phát của chu kỳ phát triển tiếp theo tạo nên đường xoáy ốc của sự phát triển. Kết quả là, về hình thức, sự vật, hiện tượng mới (ra đời do kết quả của sự phủ định lần thứ hai) sẽ lại trở thành sự vật, hiện tượng xuất phát (chưa bị phủ định lần nào); về nội dung, không phải trở lại sự vật, hiện tượng xuất phát nguyên như cũ, mà chỉ là dường như lặp lại sự vật, hiện tượng cũ nhưng trên cơ sở cao hơn.
  1. Ý nghĩa phương pháp luận của quy luật

Từ nội dung quy luật phủ định của phủ định của phép biện chứng duy vật, rút ra một số nguyên tắc phương pháp luận trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn 1) Nắm được khuynh hướng tiến lên của sự vận động của các sự vật, hiện tượng; sự thống nhất giữa các tính chất tiến bộ và kế thừa của sự phát triển. Sau khi đã trải qua các mắt xích của sự chuyển hoá, chúng ta đã có thể xác định được kết quả cuối cùng của sự phát triển và nhận thức quá trình phát triển của sự vật, hiện tượng không diễn ra một cách thẳng tắp, ngược lại, quá trình đó diễn ra quanh co, phức tạp, "cho rằng lịch sử thế giới phát triển đều đặn, không va vấp, không đôi khi nhảy lùi những bước rất lớn là không biện chứng, không khoa học, không đúng về mặt lý luận". 2) Quy luật phủ định của phủ định giúp nhận thức đầy đủ hơn về sự vật, hiện tượng mới- là cái ra đời phù hợp với quy luật phát triển; nó luôn biểu hiện là giai đoạn cao về chất trong sự phát triển. Trong giới tự nhiên, sự xuất hiện cái mới diễn ra một cách tự phát; nhưng trong lĩnh vực xã hội, cái mới xuất hiện gắn liền với sự nhận thức và hoạt động có ý thức của con người. Tuy cái mới chiến thắng cái cũ, nhưng trong một thời gian nào đó, cái cũ còn mạnh hơn cái mới; vì vậy, quan điểm chung là ủng hộ cái mới, tạo điều kiện cho cái mới phát triển hợp quy luật, biết kế thừa có chọn lọc những yếu tố tích cực và hợp lý của cái cũ làm cho nó phù hợp với xu thế vận động và phát triển của cái mới.