Phương pháp đọc và học tập suốt đời của Bác Hồ

Bác Hồ đã dạy: “Học để làm việc, làm người, làm cán bộ; Học để phụng sự đoàn thể”. Học phải có ý chí quyết tâm để phục vụ nhân dân, chứ không phải học để thăng quan, tiến chức. Đối với Bác, học tập chính là một nhu cầu mà ngay từ thời trẻ đến mãi sau này, khi đã tuổi cao, sức yếu, Người vẫn thường xuyên học tập không chút lơ là.

Ngày 5 tháng 6 năm 1911, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành, lấy tên là Văn Ba làm phụ bếp cho một tàu buôn của Pháp, rời bến Nhà Rồng ra nước ngoài bắt đầu một hành trình lâu dài, gian khổ tìm đường cứu nước. Nguyễn Tất Thành ra đi với hành trang trên vai là chủ nghĩa yêu nước, mang theo một chí hướng lớn với một niềm tin sắt đá: Hẹn ngày trở về giải phóng Tổ quốc và đem lại tự do cho đồng bào. Người đã đến nhiều đất nước khác nhau, đã gặp nhiều màu da, tiếng nói khác nhau, đó là cuộc sống tăm tối cực khổ của nhân dân các nước thuộc đia. Chính từ đây, những nhận thức về giai cấp, tình cảm giai cấp và tinh thần quốc tế vô sản đầu tiên đã hình thành ở Người: "Dù màu da có khác nhau, trên đời này chỉ có hai giống người: giống người bóc lột và giống người bị bóc lột. Mà cũng chỉ có một mối tình hữu ái là thật mà thôi: tình hữu ái vô sản". Lòng yêu nước của Người được thể hiện qua quá trình tìm tòi, nghiên cứu và hoạt động cách mạng. Yêu nước, Người đã tự nguyện chấp nhận cuộc sống làm thuê với đồng tiền công ít ỏi, rẻ mạt để kiếm sống, để hoạt động chính trị. Trong suốt hành trình tìm đường cứu nước, tài sản duy nhất và quý báu nhất của Người lúc đó là hai bàn tay, đôi mắt và con tim, khối óc cùng với khát vọng giải phóng dân tộc. Chính khát vọng đó đã hun đúc cho người thanh niên mảnh khảnh một sức mạnh phi thường, bền bỉ tự học, tự đào tạo để có đủ khả năng cứu nước, cứu dân. Đến đâu, Người cũng học, tìm mọi cách để học. Người tìm hiểu phong tục tập quán ở những nơi mình đi qua để nâng cao tri thức; học nghề để kiếm sống, kiếm sống để hoạt động cách mạng. Bác đã học và làm rất nhiều nghề khác nhau, bắt đầu từ việc làm thợ đốt lò trên tàu viễn dương, làm đầu bếp ở Mỹ, quét tuyết ở Anh, bốc thuốc ở Thái Lan, viết báo, viết truyện, viết kịch, làm thợ chụp ảnh, thợ sửa đồng hồ… Làm rất nhiều việc, nhưng nhờ tự học mà Bác làm việc gì cũng giỏi. Danh họa Picaso đã nhận xét về những bức tranh do Bác vẽ trên báo “Người cùng khổ”: “Chỉ mấy nét vẽ này thôi, ta đã thấy một tư tưởng lớn, một tâm hồn lớn tiềm ẩn bên trong. Nếu tác giả tiếp tục con đường hội họa thì ắt sẽ trở thành một đại danh họa!”. Ngoài ra, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại cho chúng ta một sự nghiệp văn chương phong phú và vô giá, tiêu biểu là tập thơ “Nhật ký trong tù”. Như chúng ta đã biết, học chữ Hán cực kỳ khó, để nắm vững nó và làm thơ thì lại khó hơn gấp bội. Chắc chắn, nếu Bác không có quá trình nỗ lực tự học thì sẽ không làm được điều đó.

Phương pháp đọc và học tập suốt đời của Bác Hồ

 Cuộc đời của Bác là một quá trình vừa học tập vừa hoạt động cách mạng. Học tập để hoạt động cách mạng, đạt được mục đích, lý tưởng của mình; qua hoạt động cách mạng, không ngừng học tập, hoàn thiện tri thức và nhân cách của bản thân. Quá trình ấy đã tạo nên Hồ Chí Minh, một thầy giáo mẫu mực, một nhà giáo dục vĩ đại. Người đã để lại tấm gương cao đẹp về tinh thần tự học và học tập suốt đời mà chúng ta phải noi theo. Trong bản lý lịch đại biểu dự Đại hội Quốc tế Cộng sản lần thứ VII tại Mát-xcơ-va vào tháng 8 năm 1935, Bác đã khai rõ trong lý lịch: “Họ và tên: Lin. Trình độ học vấn: Tự học”. “Biết các thứ tiếng: Pháp, Anh, Trung Quốc, Ý, Đức, Nga”. Trên thực tế, dựa vào những lần Bác đi thăm nước ngoài, cũng như những lần đón tiếp các phái đoàn ngoại giao tới thăm Việt Nam, chúng ta còn được biết vốn ngoại ngữ của Chủ tịch Hồ Chí Minh không dừng lại ở đó, Người còn có thể sử dụng thông thạo khá nhiều ngoại ngữ khác nữa như: Tiếng Thái Lan, tiếng Tây Ban Nha, tiếng Ả Rập, tiếng của rất nhiều dân tộc thiểu số Việt Nam… vốn ngoại ngữ đó của Bác không phải do tự nhiên mà có, mà chính là cả một quá trình khổ công rèn luyện, học tập của Người.

Việc tự học của Bác Hồ có mục đích cuối cùng là làm cách mạng, giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước. Người đã đưa cách mạng Việt Nam đến thắng lợi bằng sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào hoàn cảnh cụ thể ở Việt Nam. Vận dụng sáng tạo chính là quá trình tự thích nghi, tự tìm tòi thâm nhập thực tiễn, đúc rúc kinh nghiệm, phát huy nội lực. Sâu xa hơn, đó là quá trình tự học, tự giáo dục để làm cho nhân cách và năng lực của mình phù hợp với mục tiêu, lý tưởng, phù hợp với yêu cầu công việc. Việc tự học của Bác diễn ra suốt cả cuộc đời cách mạng của mình, cho tới khi tuổi cao, sức yếu, Bác vẫn giữ được tinh thần tự học như xưa. Đại tướng Hoàng Văn Thái lại, năm 1969, mỗi lần đến làm việc, ông thường thấy trên chiếc bàn nhỏ cạnh giường của Bác để nhiều sách báo. Ông lo lắng đến sức khỏe của Bác, nên đề nghị: “Thưa Bác, Bác mệt, Bác nên đọc ít, để nhiều thời gian nghỉ ngơi thư thả cho lại sức”. Bác trả lời, giọng như tâm sự mà dứt khoát từng lời: “Chú bảo Bác không đọc sách báo ư? Dù già yếu cũng phải học, phải đọc sách báo nâng cao hiểu biết và nhất là vấn đề nắm vững tình hình chứ!”.  

Phương pháp đọc và học tập suốt đời của Bác Hồ

Có thể nói, Chủ tịch Hồ Chí Minh là một tấm gương mẫu mực về tinh thần tự học, lấy tự học làm cốt, làm phương thức chủ yếu để nâng cao trình độ mọi mặt của bản thân. Song tự học ở Chủ tịch Hồ Chí Minh không phải là một sự ngẫu hứng, tùy ý vô nguyên tắc… mà tự học ở Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trở thành một khoa học, một nghệ thuật, một triết lý nhân văn sâu sắc với một kế hoạch cụ thể, chặt chẽ, khoa học; với một ý chí và quyết tâm bền bỉ, dẻo dai, tinh thần sáng tạo, tranh thủ mọi lúc, mọi nơi để học. Đặc biệt, Người tự học với một động cơ trong sáng với ý nguyện cao cả là tìm ra con đường cứu nước, cứu dân, làm cho đất nước độc lập, nhân dân được tự do, ấm no, hạnh phúc. Tấm gương tự học của Chủ tịch Hồ Chí Minh, soi xét trong thực tiễn đã qua, hiện nay và cả mai sau, vẫn còn nguyên giá trị, có ý nghĩa giáo dục hết sức sâu sắc; đó mãi là một tấm gương sáng ngời, một di sản vô giá đối với sự nghiệp đào tạo, bồi dưỡng, giáo dục của Đảng và nhân dân ta. Mỗi cán bộ, đảng viên và quần chúng cần ghi sâu những lời dạy của Bác, noi theo Người về nghị lực học tập, rèn luyện để có đủ đức, đủ tài phục vụ nhân dân. Tấm gương tự học và những tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về vấn đề tự giáo dục mãi mãi tỏa sáng, soi rọi cho mỗi chúng ta phấn đấu, rèn luyện, tự vươn lên trong tu dưỡng bản thân để hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao./.

Ban Truyền thông trường Tiểu học Nguyễn Bá Ngọc

1. Về cách đọc

Bác Hồ rất say mê đọc sách, báo. Một người bạn thời niên thiếu với Bác tâm sự: Ở gần Thành, mình học hỏi được nhiều thứ, nhất là cách đọc sách. "Thuở nhỏ, học trò Nam Đàn hay rủ nhau xuống Vinh mua sách, sách nào mua không được thì cậu Cung đứng tại cửa hàng đọc kỳ hết mới về, đọc chưa hết thì hôm sau trở lại đọc nữa"(1). Trong những năm hoạt động ở nước ngoài, trong các báo cáo, thư gửi Quốc tế Cộng sản và những người bạn cùng hoạt động, Bác đều nhắc gửi sách, báo và tạp chí bằng các thứ tiếng để đọc, nghiên cứu phục vụ cho công tác cách mạng.

Việc đọc sách, báo đã trở thành nhu cầu, một món ăn tinh thần không thể thiếu trong đời sống hằng ngày của Bác. Các đồng chí từng làm việc và gần gũi Bác đều có nhận xét: Bác Hồ ham đọc sách, báo trong nước và quốc tế, khi xong công việc Bác thường đọc, công việc xong chưa đến giờ ngủ, Bác lại đọc, những mục cần đọc, Bác không bỏ qua. Hằng ngày, Bác đọc một lượt các tờ báo xuất bản trong nước rồi tới báo nước ngoài, gạch dưới các tin quan trọng, rồi giải quyết các công việc. Những tờ nhật báo, tuần báo ở Trung ương Bác đều đọc hết và gạch bút chì xanh đỏ vào những chỗ chú ý. Bác còn có thói quen, mỗi khi đi công tác xa về thường tự đọc hoặc đề nghị những người giúp việc đọc lại những báo và tạp chí mà trong thời gian đi vắng Bác chưa đọc.

Chính vì thế, tầm hiểu biết của Bác rất rộng và rất nhạy cảm với tình hình thời sự, lý luận chính trị. Hồi ở Việt Bắc, tuy tuổi Bác đã cao, nhưng Bác vẫn tranh thủ đọc sách, báo, tạp chí. Đồng chí Việt Dũng nhớ lại: "Ở gần ông Cụ được vài ngày, tôi nhận thấy ông Cụ sao làm việc nhiều thế. Suốt ngày Cụ đọc sách và viết tài liệu, viết báo, dạy chính trị, v.v.. Cụ thường dạy chúng tôi không nên ngồi chơi rỗi, phải lấy sách báo ra đọc". Đại tướng Võ Nguyên Giáp cũng có nhận xét: "Văn phòng của Bác ít người làm sao cái gì Bác cũng biết. Phải chăng là qua sách báo, Bác tổng hợp và nắm được được hết". Hồi sức khỏe yếu, Bác dặn đồng chí Cù Huy Chước cứ tối tối đọc cho Bác nghe cuốn Cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông.  

Kinh nghiệm của Bác, muốn nói và viết tốt phải đọc nhiều để hiểu biết rộng, phải ghi nhớ và biết cách phân loại. Bác dặn: Muốn có nhiều tài liệu phải xem cho rộng, xem được càng nhiều chừng nào thì lấy được nhiều tài liệu chừng ấy, phải đọc cả sách báo nước ngoài, đọc càng nhiều càng tốt để lấy tư liệu cho mình học tập và nghiên cứu. Bác chỉ ra phương pháp đọc: "Đọc tài liệu thì phải đào sâu suy nghĩ, không tin một cách mù quáng từng câu một trong sách... Đối với bất cứ vấn đề gì đều phải đặt ra câu hỏi "vì sao?", đều phải suy nghĩ kỹ càng xem nó có hợp với thực tế không, có thật là đúng lý không, tuyệt đối không nên nhắm mắt tuân theo sách vở một cách xuôi chiều. Phải suy nghĩ cho chín chắn"(2). Bác thường nhắc nhở mọi người, nhất là cán bộ, đảng viên phải phải đọc những tài liệu về chủ nghĩa Mác - Lênin, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta và những tài liệu thiết thực phục vụ cho công tác chuyên môn, nghiệp vụ của mình, v.v..

Để tiết kiệm thời gian và để không mất công đọc lại, Bác có kinh nghiệm ghi nhớ bằng cách ghi chép rất cẩn thận. Ví như, năm 1942, ngay bị đày đọa trong nhà ngục ở Quảng Tây (Trung Quốc), Bác vẫn ghi chép những điều đọc được, nghe được ở Mục đọc sách và Mục đọc báo ở cuối tập thơ Nhật ký trong tù. Trong Nhật ký hành trình bốn tháng sang Pháp năm 1946, công tác ngoại giao "không có lúc nào rảnh", với vai người trần thuật, Bác ghi từng ngày các sự kiện rất tỉ mỉ. Ví như, ngày 5.8.1946 ghi: "Mỗi ngày, Cụ xem chừng 25 tờ báo, báo sáng, báo chiều, báo hàng tuần và báo ngoại quốc. Báo có tin tức gì hay, Cụ lấy bút chì đỏ làm dấu vào, rồi bảo anh em xem"(3).

Khi còn ở Việt Bắc cũng như sau này về Hà Nội, Bác vẫn giữ thói quen khi đọc sách, báo chỗ nào thấy cần thì ghi chép, đánh dấu để sử dụng khi cần thiết. Ví như: Thấy gương người tốt, việc tốt, ghi bên cạnh dấu (o), chỗ nào cần lưu ý, đánh dấu (/), vấn đề nào chưa rõ, còn nghi ngờ đánh dấu (?), bài đã xem xong, vạch (//). Bác còn sử dụng chữ Hán, Pháp, Anh, Nga làm ký hiệu bên lề trang sách, báo, trang tài liệu đã đọc. Đối với những bài, đoạn quan trọng, Bác còn ghi vào sổ, hoặc cắt dán làm tư liệu lưu giữ. Về cách ghi chép để nhớ, Bác dặn: Những cái gì đã nghe, đã thấy, đã hỏi được, đã đọc được phải ghi chép lấy để dùng, để viết.

Theo Bác, tài liệu đã đọc được phải ghi chép, phân loại, đối chiếu, so sánh, chọn lọc để ghi nhớ, làm tư liệu để nói và viết. Kinh nghiệm của Bác cho biết, tìm tài liệu trong khi đọc cũng giống như công tác khác, phải mất nhiều thời gian và công sức và phải chịu khó. Bởi vì, có khi xem mấy tờ báo, tạp chí mà chỉ được vài tư liệu, có khi xem tài liệu này có vấn đề này, xem tài liệu khác có vấn đề khác, nhưng phải tổng hợp lại, chọn lọc góp hai, ba tài liệu đó để làm thành tư liệu của mình. Bác tổng kết: So đi sánh lại, phân tích, tổng hợp, chọn lọc là cách làm việc khoa học. Có lần, Bác tâm sự về cách đọc và ghi nhớ của mình: Hồi còn hoạt động ở Pháp, "một đồng chí đưa cho tôi đọc Luận cương về các vấn đề dân tộc và thuộc địa của Lênin vừa đăng trên báo Nhân đạo. Bài đó khó hiểu, vì có những từ ngữ mà tôi không biết rõ. Nhưng tôi đọc đi đọc lại và dần dần tôi hiểu ý nghĩa của nó một cách sâu sắc"(4).                                                                                              

2. Về cách nói

Bác Hồ không hay nói dài mà thường nói ngắn gọn, nhưng mọi người đều hiểu, đều nghe, đều tin, chỉ một lời vắn tắt, hàm súc đã đi vào trái tim, khối óc quần chúng, biến thành hành động cách mạng. Cách nói của Bác là đi vào thực tiễn, từ thực tiễn đúc kết thành kinh nghiệm, rồi nâng lên thành lý luận. Ví như, trả lời chủ nghĩa xã hội là gì? Người nói rất ngắn gọn: "Xã hội ngày càng tiến, vật chất ngày càng tăng, tinh thần ngày càng tốt, đó là chủ nghĩa xã hội". Người hay dùng cách so sánh bằng hình ảnh để diễn đạt lý luận. Ví như: "Lý luận như cái kim chỉ nam", "không có lý luận thì lúng túng như nhắm mắt mà đi", "Có kinh nghiệm mà không có lý luận cũng như một mắt sáng, một mắt mờ"...

Bác có nhiều chỉ dẫn quan trọng, rằng: Phải biết cách nói. Nói thì phải đơn giản, rõ ràng, thiết thực, phải có đầu có đuôi, sao cho ai cũng hiểu được, nhớ được. Chớ dùng những danh từ lạ, ít người hiểu. Chớ nói ra ngoài đề. Chớ lắp đi lắp lại. Người yêu cầu: "Phải học cách nói của quần chúng, mới nói lọt tai quần chúng. Vì cách nói của dân chúng rất đầy đủ, rất hoạt bát, rất thiết thực, mà lại rất giản đơn"(5). "Chớ nói như giảng sách. Mỗi tư tưởng, mỗi câu nói, mỗi chữ viết phải tỏ rõ cái tư tưởng và lòng ao ước của quần chúng. Phải luôn luôn dùng những lời lẽ, những thí dụ giản đơn, thiết thực và dễ hiểu". Không những thế, Bác còn dặn: Trước khi nói phải viết một dàn bài rõ ràng, phải suy nghĩ cho chín, phải sắp đặt cẩn thận, rồi căn cứ vào đó mà nói và khi nói phải khiêm tốn, lễ độ sẽ chinh phục được người nghe.

Bác khuyên: Không nên nói dài. Nói phải cho gọn gàng, có nội dung. Nói ít, nhưng nói cho thấm thía, nói cho chắc chắn thì quần chúng thích hơn. Chớ nói khô khan, cứng nhắc, không hoạt bát, không thiết thực. Rằng, phải học cách nói của những người đi truyền giáo, phải chú ý đến cách phô diễn ý tưởng hết sức phổ thông, khắc sâu vào trong dân chúng, phải lấy những thí dụ thường trông thấy trước mắt mà nói, tránh những từ khó hiểu. Theo Bác: "Nói và tuyên truyền phải cụ thể, thiết thực, sao cho dễ hiểu, sao cho người nghe hiểu được, hiểu để làm. Không phải nói để mà nói, không phải tuyên truyền để mà tuyên truyền"(6). Kinh nghiệm về cách nói được Bác đúc kết: Nói cho ai nghe? Nói để làm gì? Nói cái gì? Lấy tài liệu đâu mà nói? Nói thế nào? Tuyên truyền cái gì? Tuyên truyền cho ai? Cách tuyên truyền thế nào? Đó là những vấn đề người nói phải tự hỏi, tự trả lời.

Nhiều lần Bác khuyên: Chớ nên lạm dụng tiếng nước ngoài nhiều quá. Chúng ta không chống mượn tiếng nước ngoài để làm cho tiếng ta thêm đầy đủ, nhưng phải có chừng mực, phải chống cách mượn tiếng nước ngoài không phải lối, mượn đến nỗi bỏ cả tiếng ta, đến nỗi quần chúng không hiểu. Bác phê bình bệnh sính dùng tiếng nước ngoài, hoặc vay mượn tiếng nước ngoài khi không cần thiết hoặc không đúng. Bởi như Bác giải thích: "Tiếng nói là thứ của cải vô cùng lâu đời và vô cùng quý báu của dân tộc. Chúng ta phải giữ gìn nó, làm cho nó phổ biến ngày càng rộng khắp. Của mình mà không dùng, lại đi mượn của nước ngoài, đó chẳng phải là đầu óc quen ỷ lại hay sao?"(7).

Bác còn phê bình bệnh ham nói chữ của cán bộ: "Các chú còn hay mắc cái tật nói chữ nhiều. Người ốm các chú gọi là "bệnh nhân". Làm bệnh nhân thì oai hơn người ốm phải không? Giúp đỡ thì các chú không thích bằng "tương trợ"... Tiếng Việt ta rất phong phú, ta phải làm giàu thêm cho tiếng của ta, nhưng không nên vay mượn lu bù để lòe thiên hạ"(8). Qua những lời phê phán và chỉ bảo đó cho thấy Bác rất quan tâm đến sự trong sáng của tiếng Việt, rất nâng niu, trân trọng tiếng nói của dân tộc.  

3. Về cách viết

Bác Hồ viết sách, báo từ hồi còn ở Pháp. Sau này, trên bước đường hoạt động cách mạng, Bác đều viết sách, báo và sáng lập ra nhiều tờ báo như: Người cùng khổ, Thanh Niên, Kèn gọi lính, Mặt trận, Nhân Dân, v.v., đã trở thành Nhà báo lớn, người sáng lập nền báo chí cách mạng Việt Nam. Cách viết của Bác thực hiện mục đích cao đẹp là phục vụ thực tiễn học tập, nghiên cứu, công tác, phục vụ nhiệm vụ cách mạng, nênBác thường viết ngắn gọn, súc tích, dễ đọc, dễ hiểu và thực hành được ngay. Ví như ngay từ năm 1927, Bác viết cuốn Đường cách mệnh để huấn luyện cho lớp chiến sĩ cách mạng đầu tiên của nước ta, Bác đã nói rõ: "Sách này muốn nói cho vắn tắt, dễ hiểu, dễ nhớ... Vâng! Đây nói việc gì thì nói rất giản tiện, mau mắn, chắc chắn như 2 lần 2 là 4, không tô vẽ trang hoàng gì cả"(9).

Năm 1947, Bác viết cuốn Đời sống mới và cuốn Sửa đổi lối làm việc một cách vắn tắt, rõ ràng, dễ hiểu để đồng bào, cán bộ, đảng viên đọc, để thực hành đời sống mới và sửa đổi tư tưởng, tác phong, lề lối làm việc và công tác. Các tác phẩm của Bác viết với khối lượng thật đồ sộ với nhiều thể loại: chính luận, xã luận, bút chiến, truyện, ký, thơ cùng nhiều thể loại khác không chỉ bằng tiếng Việt mà cả bằng các thứ tiếng Anh, Pháp, Nga, Trung, v.v.. Bác thường xuyên viết bài cho báo Nhân Dân, cơ quan ngôn luận của Đảng ta, với những bài ngắn, dễ hiểu, có tính giáo dục và thuyết phục cao với nhiều bút danh.

Các tác phẩm của Bác được viết một cách giản dị, rõ ràng, súc tích, dễ hiểu đi thẳng vào vấn đề. Cách viết của Bác Bác thường hay ví von nên dễ đi vào lòng người và đến với đông đảo bạn đọc. Có thể dẫn ra rất nhiều câu viết ví von, so sánh bằng hình tượng: "Thế địch như lửa. Thế ta như nước. Nước nhất định thắng lửa"; "Ruộng rẫy là chiến trường. Cuốc cày là vũ khí. Nhà nông là chiến sĩ"; "Xây dựng chủ nghĩa xã hội cũng như làm ruộng. Trước phải khó nhọc cầy bừa, chân bùn tay lấm, làm cho lúa tốt, thì mới có gạo ăn", v.v..

Về cách viết, Bác dặn mọi người, khi viết lời lẽ phải phổ thông, dễ hiểu, đường hoàng, vui vẻ, làm cho người xem có thú vị mà lại bổ ích. Khi viết và khi làm việc trên văn bản, Bác yêu cầu phải chú ý từng câu, từng chữ, trình bày rõ ràng để không thừa, không thiếu, không dài dòng và phải nhạy cảm chính trị. Thí dụ: Một lần văn phòng ghi trong lịch làm việc hàng tuần: ông K và L.M.K. thảo bài phát thanh và đưa Chính phủ duyệt trước. Bác nhận xét: Viết thế không nhã. Ra cách mình kiểm duyệt. Phải sửa câu ấy lại. Rồi tự tay Bác sửa: ông K và L.M.K. thảo bài phát thanh rồi đưa Văn phòng Chủ tịch. Qua cách sửa thấy rõ sự nhạy bén về chính trị ở Bác.

Bác cho rằng, cần phải viết ngắn gọn, còn viết dài mà rỗng thì không tốt, viết ngắn mà rỗng cũng không hay. Phải chống tất cả thói viết rỗng, viết dài. Bác cũng lưu ý, viết ngắn gọn, nhưng lại không được thiếu, không được qua loa, đại khái, dùng từ phải chính xác, dễ hiểu. Viết dài nhưng mỗi câu, mỗi chữ có một ý nghĩa, có một mục đích thì không phải là rỗng, không phải nhất thiết cái gì cũng phải ngắn mới tốt. Bác dặn: Khi viết cố gắng phải ngắn gọn, song phải có nội dung. Tránh lối viết khô khan, kém hoạt bát, không phổ thông, tránh dùng chữ nước ngoài không đúng nghĩa, hay nói chính trị suông, v.v..

Bác phê bình cách viết dài dòng, rỗng tuếch. Rằng: "Nhiều anh em hay viết dài. Viết dòng này qua dòng khác, trang này qua trang khác, nhưng không có ích cho người xem. Chỉ làm tốn giấy mực, mất công người xem". "Quần chúng mong muốn những tác phẩm có nội dung chân thật và phong phú, có hình thức trong sáng và vui tươi. Khi chưa xem thì muốn xem, xem rồi thì có bổ ích"(10). Theo quan điểm của Bác, một tác phẩm văn chương không cứ dài mới hay. Khi nào tác phẩm ấy chỉ diễn đạt vừa đủ những điều đáng nói, khi nó được trình bày sao cho mọi người ai cũng hiểu được, và khi đọc xong độc giả phải suy ngẫm, thì tác phẩm ấy mới xem như là một tác phẩm hay và biên soạn tốt. Vì vậy, một lối hành văn giản dị, chính xác hơn hẳn lối hành văn rườm rà, hoa mỹ.                 

Kinh nghiệm về cách viết được Bác tóm tắt ở những vấn đề chính sau đây: Phải đặt ra câu hỏi và trả lời được các câu hỏi sau: Viết cho ai? Trả lời: Viết cho đại đa số công, nông, binh. Viết để làm gì? Trả lời: Để giáo dục, giải thích, cổ động, phê bình; để phục vụ quần chúng. Viết cái gì? Trả lời: Tùy nội dung vấn đề yêu cầu để trả lời, nhưng phải có lập trường vững: ta, bạn, thù thì viết mới đúng. Đối với ta và bạn thì nêu cái hay, cái tốt, nhưng phải có chừng mực, chớ phóng đại. Phê bình cái xấu một cách thật thà, chân thành, đúng đắn. Còn đối với địch thì nêu cái hung ác, xấu xa. Lấy tài liệu đâu mà viết? Trả lời: Muốn có tài liệu phải xem, đọc và ghi chép. Phải nghe: nghe cán bộ, nghe các chiến sĩ, nghe đồng bào để có tài liệu viết. Phải hỏi: hỏi những người đi xa về, hỏi nhân dân, hỏi bộ đội, hỏi những việc, hỏi tình hình ở các nơi. Phải thấy: phải đi đến nơi, nhìn tận mắt để thấy. Viết thế nào? Trả lời: Viết phải thiết thực, cụ thể, chớ lộ bí mật. Viết ngắn chừng nào hay chừng ấy, nhưng phải đủ ý. Tránh lối viết dài dòng, "dây cà ra dây muống". Viết rồi phải thế nào? Trả lời: Phải đọc đi đọc lại, sửa đi sửa lại, phải nhờ người đọc và cho nhận xét.

Để ghi nhớ công ơn to lớn của Bác Hồ, góp phần vào công tác nghiên cứu về cuộc đời, sự nghiệp, tư tưởng Hồ Chí Minh và để thực hiện Chỉ thị 03-CT/TW ngày 14.5.2011 của Bộ Chính trị Về tiếp tục đẩy mạnh việc "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh", chúng ta cần cố gắng rèn luyện, học tập cách đọc, cách nói và cách viết của Bác Hồ. Đặc biệt, cần ghi nhớ lời cặn dặn của Bác: Bao giờ cũng tự hỏi: Ta viết cho ai xem? Nói cho ai nghe? Chưa điều tra, chưa nghiên cứu, chưa biết rõ, chớ nói, chớ viết. "Không biết rõ, hiểu rõ, chớ nói, chớ viết. Khi không có gì cần nói, không có gì cần viết, chớ nói, chớ viết càn"(11).      

__________________________________________________

(1) Trần Văn Giàu (1997), Sự hình thành cơ bản về tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb CTQG, H.,, tr.26.

(2) Hồ Chí Minh (2009), Toàn tập, Nxb CTQG, H., T.8, tr.500.

(3) Hồ Chí Minh (2009), Sđd, T.4, tr.399.

(4), (8) Hồ Chí Minh (2009), Sđd, T.12, tr.471, 551.

(5), (11) Hồ Chí Minh (2009), Sđd, T.5, tr.301, 302.

(6) Hồ Chí Minh (2009), Sđd, T.11, tr.128.

(7), (10) Hồ Chí Minh (2009), Sđd, T.10, tr.615, 646.

(9) Hồ Chí Minh (2009), Sđd, T.2, tr.262.