Sự khác nhau giữa thư viện điện tử và thư viện số

Thư indembassyhavana.orgện o với Lưu trữ Thế hệ ngày nay có một nguồn tri thức và đó là internet. Nhưng trong những ngày không có internet, nguồn tri thức duy nhất từ ​​ách

Sự khác nhau giữa thư viện điện tử và thư viện số

NộI Dung:

Thư indembassyhavana.orgện so với Lưu trữ

Thế hệ ngày nay có một nguồn tri thức và đó là internet. Nhưng trong những ngày không có internet, nguồn tri thức duy nhất từ ​​sách và bản thảo là các thư indembassyhavana.orgện công cộng được thiết lập để mọi người đến, dành thời gian trong phòng đọc của thư indembassyhavana.orgện để đọc tất cả tài liệu và cũng có thể mượn sách để đọc. ở nhà. Không nhiều người biết đến một nguồn tri thức khác là tài liệu lưu trữ. Những thứ này tương tự như thư indembassyhavana.orgện theo nghĩa là chúng cũng chứa tài liệu thông tin có ý nghĩa đối với công chúng. Trong bài indembassyhavana.orgết này, chúng tôi sẽ cố gắng phân biệt giữa hai nơi dựa trên các đặc điểm của chúng.

Đang xem: So sánh sự giống và khác nhau giữa thư viện truyền thống và thư viện điện tử?

Thư indembassyhavana.orgện

Trong thời kỳ mà indembassyhavana.orgệc in ấn và xuất bản sách chưa phát triển như ngày nay, các thư indembassyhavana.orgện đã giúp người dân bình thường theo đuổi tri thức bằng cách lưu giữ hàng nghìn cuốn sách quan trọng về nhiều chủ đề và tác phẩm văn học của các nhà văn lớn xưa và nay. Một thư indembassyhavana.orgện, mặc dù ngày nay đã mất đi một chút ánh sáng vì internet, vẫn luôn hữu ích khi mọi người đến đó để lấy tài liệu họ đang tìm kiếm và thỏa mãn cơn khát kiến ​​thức của họ. Học sinh đã mượn sách từ những thư indembassyhavana.orgện này và thậm chí còn được photocopy những phần quan trọng cho kỳ thi của họ.

Thư indembassyhavana.orgện chủ yếu lưu trữ các tác phẩm đã xuất bản và nếu một cuốn sách bị đánh cắp hoặc bị hỏng, nó có thể dễ dàng thay thế nó bằng cách mua một cuốn sách khác từ chợ. Đây không phải là bản thảo gốc mà là tài liệu đến từ nguồn đã xuất bản hoặc thứ cấp.

Lưu trữ

Kho lưu trữ là một từ dùng để chỉ các bản thảo gốc được indembassyhavana.orgết bởi các nhà văn lớn trong quá khứ và cũng là nơi lưu trữ các tác phẩm này để công chúng đến xem để hiểu biết. Những cuốn sách này có tầm quan trọng lớn vì giá trị văn hóa và lịch sử của chúng. Người ta không thể hy vọng tìm thấy những cuốn sách và tạp chí thường thấy trong các thư indembassyhavana.orgện công cộng và tư nhân. Vì tài liệu được lưu trữ trong kho lưu trữ có tầm quan trọng lớn nên nó cần được bảo quản bằng các kỹ thuật bảo quản hiện đại.

Tài liệu lưu trữ rất quan trọng đối với những người làm nghiên cứu trong các lĩnh vực khác nhau vì họ có được tài liệu được xác thực mà thường không tìm thấy ở nơi khác.

Xem thêm: Ship Cơm Văn Phòng Thanh Hóa, Cơm Văn Phòng Chất Lượng Nhất Thanh Hóa

Tóm lại:

• Trong khi thư indembassyhavana.orgện là nơi lưu trữ tài liệu đã xuất bản, thì kho lưu trữ tài liệu chưa được xuất bản.

• Có thể dễ dàng thay thế một cuốn sách bị đánh cắp hoặc bị hư hỏng trong thư indembassyhavana.orgện trong khi điều đó gần như không thể trong trường hợp lưu trữ.

• Các kỹ thuật bảo quản hiện đại là cần thiết để bảo quản các bản thảo quý hiếm trong kho lưu trữ.

Xem thêm: Viết Đoạn Văn Nghị Luận Về Bản Sắc Văn Hóa Dân Tộc Ngắn Gọn, Nghị Luận Xã Hội Về Bản Sắc Văn Hóa Việt

• Kho lưu trữ là nguồn kiến ​​thức chính trong khi thư indembassyhavana.orgện là nguồn kiến ​​thức thứ cấp.

See more articles in category: FAQ

28Thuật ngữ số hoá (digitization) được sử dụng để chỉ quá trình chuyển đổithông tin trong các đối tượng thực sang dạng điện tử. Trong xã hội đối tượngthực phổ biến chứa thông tin bao gồm các dạng tài liệu, văn bản, tranh vẽ, bảnđồ, băng hình, băng ghi âm. ..Kết quả của việc số hoá, các đối tượng nguồntin thực được chuyển sang các dạng tệp dữ liệu (văn bản, ảnh, bản đồ, âmthanh, đa phương tiện).Như vậy, số hoá được coi là một phương thức tạo lập tài nguyên thông tinTài nguyên thông tin số là tập hợp có tổ chức những bộ sưu tập thông tinkiến thức của các đối tượng số (digitized objects) hoặc đã được số hoá, đượclưu trữ theo các công nghệ đặc biệt mà có thể truy cập, chia sẻ, khai thác theocác giao thức và thủ tục tiêu chuẩn xác định trong môi trường điện tử.+ Khái niệm tài liệu điện tửMột trong những phương án triển vọng của việc ứng dụng công nghệ hiệnđại cho việc tiếp cận tới các nguồn lực thông tin là thư viện số (hay còn gọi làthư viện điện tử). Tuy nhiên, đây là vấn đề phức tạp do có nhiều quan điểmkhác nhau. Vì vậy trước khi đưa ra một số nét về hệ thống TVĐT của hệthống TVCC, cần thống nhất khái niệm về TVĐT.Thật ra, các khái niệm như “thư viện điện tử” (Electronic library), “thư việnảo” (Virtual library), “thư viện số” (Digital library) đã được sử dụng tươngđối rộng rãi trong giới thư viện và thông tin không chỉ của thế giới mà cả ởnước ta. Tuy nhiên, cho đến nay vẫn còn có những cách hiểu khác nhau vềchúng. Có người cho rằng TVĐT là thư viện ở trình độ phát triển thấp hơnTVS. Một số khác lại cho rằng TVĐT và TVS là những tên gọi khác nhau củacùng một sự vật. Trong trường hợp cụ thể mà chúng ta đang bàn ở đây, tôiquan niệm rằng, TVĐT và TVS là đồng nhất. 29Tài liệu điện tử là tài liệu mà thông tin của nó được thể hiện dưới dạng điệntử sốHay nói một cách khác tài liệu điện tử là một hình thức trình bày tài liệudưới dạng tập hợp các thực hiện liên quan với nhau trong môi trường điện tửvà các thực hiện liên quan với nhau tương ứng với chúng trong môi trường số.Vì thế nó tương đương với khái niệm “tài liệu số”. Nghĩa là khi nói đến tàiliệu điện tử cũng có nghĩa là nói tới tài liệu số và ngược lại.+ Khái niệm thƣ viện sốTheo định nghĩa của Liên đoàn thư viện kỹ thuật số Hoa KỳThư viện số là những tổ chức cung cấp các nguồn tài nguyên thông tin –bao gồm cả các chuyên gia, chọn lọc, tổ chức, cung cấp đường truy cập nguồntri thức, diễn giải, phân phối, bảo quản tính toàn vẹn và đảm bảo sự tồn tại lâudài của các kho tài liệu kỹ thuật số để chúng luôn sẵn sàng đáp ứng một cáchhiệu quả nhu cầu sử dụng của cộng đồng.Sự xuất hiện của khái niệm Thư viện số có liên quan trực tiếp với sự bùngnổ Internet và Web mang lại. Khái niệm này đang được các chuyên gia côngnghệ thông tin sử dụng để chỉ toàn bộ hệ thống dạng này, bất kể có dựa trênthư viện truyền thống hay không. Môi trường kỹ thuật Internet hiện nay, thậmchí cho phép một số người coi toàn thể nguồn thông tin của mạng một lúc nàođó như một thư viện số ảo toàn cầu mà độc giả là toàn thể những người sửdụng mạng trên hành tinh và các công cụ tìm tin và sự hiện diện của Web bảođảm các chức năng thư mục cho thư viện đó.Thư viện số (TVS) là một Thư viện điện tử cao cấp trong đó toàn bộ các tàiliệu của thư viện đã được số hoá và được quản lý bằng một phần mềm chuyênnghiệp có tổ chức giúp người dùng dễ dàng truy cập, tìm kiếm và xem được 30nội dung toàn văn của chúng từ xa thông qua hệ thống mạng thông tin và cácphương tiện truyền thống.Một thư viện số hoàn chỉnh phải thực hiện được tất cả các dịch vụ cơ bảncủa một thư viện truyền thống kết hợp với việc ứng dụng các lợi thế của côngnghệ thông tin trong việc lưu trữ, tìm kiếm và phổ biến nội dung thông tin.Thư viện số là cơ hội đặc biệt cho thư viện truyền thống đổi mới phươngthức phục vụ cho NDT, đảm bảo hiệu quả, chất lượng cho đối tượng phục vụ.Quá trình tin học hoá này được thực hiện hầu như không tách rời với các thưviện truyền thống và các chuẩn đã định về mô tả và các công cụ thư mục,được thực hiện nhờ các mô tả theo chuẩn quốc tế (ISBD, AACR2) đã tiêuchuẩn hoá việc phân vùng các phiếu mục lục chuẩn bị chuyển thành khuônkhổ trao đổi các biểu ghi dạng số. Vấn đề đặt ra là các công cụ tin học phảiđáp ứng được các nhu cầu xử lý đặc biệt có liên quan đến vấn đề đa ngôn ngữvà đa chữ viết của các loại hình tài liệu.1.2.2 Sự phát triển của tài liệu số trên thế giới và ở Việt Nam+ Trên thế giớiTrên thế giới, số hoá tài liệu đã diễn ra khá lâu, từ những năm 90 của thế kỷ20, hiện vẫn đang được thúc đẩy một cách mạnh mẽ hơn, đặc biệt phần mềmthư viện số (Greenstone) được sử dụng rộng rãi ở nhiều nước trên thế giới:Anh, Hoa Kỳ, Trung Quốc, Ấn Độ, Nga…mà đặc biệt là các thư viện trongdự án The New Zealand Digital Library, The University of Waikato và ngaycả một số quốc gia Châu Phi. Từ những loại hình thư viện: lịch sử, giáo dục,văn hoá và nghiên cứu khác nhau; những loại vật chất nguồn: văn bản, hìnhảnh tài liệu, tranh, phim và âm thanh…Có thể liệt kê các loại hình thư viện số (TVS) đã và đang phát triển trên thếgiới: 31Các TVS đầu tiên: ELINOR, Gutenberg…Các TVS thuộc các cơ quan xuất bản: ACM, IEL…Các TVS phát triển tại các TV quốc gia: the British Library, Library ofCongress (THOMAS), Digital Library of Canada…Các TVS tại các trường đại học: Berkeley Digital Library SunSITE,Bodleian Library Digital Library Project, California Digital Library, Digilib…Các TVS có bộ sưu tập đặc biệt: Alexandria, Informedia, Grainger,Engineering Library…Các TVS thuộc các dự án nghiên cứu: GDL, NCSTRL, NDLTD…Các TVS thuộc các thư viện lai: Headline…Việc nghiên cứu và phát triển TVS đã và đang được nhiều quốc gia quantâm và đầu tư tài chính, nhân lực, công nghệ…+ Ở Việt NamSố hoá nguồn tài nguyên thông tin ở Việt Nam đang là xu thế phát triển vàlà thách thức của bất kỳ một thư viện nào. Hiện nay, Việt Nam có khoảng gần100 trường đại học và các TV lớn đã ứng dụng các giải pháp TVS. Điển hìnhlà một số Viện nghiên cứu, trung tâm TT-TV: Trung tâm thông tin khoa họccông nghệ, Trung tâm học liệu-ĐH Đà Nẵng, Trung tâm học liệu-ĐH Huế,TVS trường đại học Bách khoa Hà nội, TVS-Đại học Khoa học Tự nhiên Tp.HCM:Trung tâm thông tin khoa học và công nghệ Quốc gia (TT-TT KHCNQG)bắt đầu thực hiện số hoá toàn văn tài liệu gốc đưa vào CSDL tài liệu KHCNtừ tháng 4/2004 với mục đích số hoá toàn văn tài liệu gốc, tạo thuận lợi tối đacho NDT, bảo quản được linh hoạt, lâu dài, khi cần thiết chuyển giao rấtthuận lợi. Mặt khác để quản trị CSDL, Trung tâm đã sử dụng 2 phần mềm: 32phần mềm Zope - quản trị dữ liệu trên môi trường Web và phần mềm AdobeAcrobat - quản trị toàn văn tài liệu nguyên bản…Trong số các thư viện của Viện Khoa học Xã hội Việt Nam, việc xây dựngTVS ở Viện Hán Nôm là khá tiêu biểu.Viện nghiên cứu Hán Nôm đã tiến hành số hoá tài liệu để bảo quản và khaithác di sản Hán Nôm Việt Nam. Là Viện nghiên cứu chuyên ngành với chứcnăng và nhiệm vụ chủ yếu là sưu tầm, bảo quản và nghiên cứu khai thác disản Hán – Nôm Việt Nam - nguồn tài liệu gốc đặc biệt có giá trị mà bất cứ aimuốn nghiên cứu tìm hiểu về đất nước, con người và xã hội Việt Nam. Năm1998, Viện tiến hành số hoá kho thư tịch Hán Nôm nhưng tuân thủ nguyêntắc: ưu tiên số hoá những tài liệu có giá trị hoặc ở trong tình trạng rách nát màcó nhu cầu khai thác cao (Một CSDL đơn lẻ đã được xây dựng với các hìnhảnh số hoá nguồn tài liệu Hán Nôm có kết nối thông tin tiếng Việt và phầnmềm đọc duyệt tài liệu. Tất cả đều ghi trên một đĩa CD-ROM, tuỳ theo độ dàycủa sách mà trên một đĩa CD-ROM có thể có 1 hoặc nhiều cuốn sách, songdung lượng không vượt quá 500 Mb dữ liệu. Các ảnh số được tạo bởi máyScanner loại chất lượng cao, độ phân giải 300 DPI, độ sâu màu 24bit, dạngJPG, kích cỡ ảnh trung bình 20cmx30 cm, dung lượng trung bình 500 Kb…)Viện Hán Nôm dùng hệ điều hành quản lý mạng Window Server 2000 (hệđiều hành của Microsoft có khả năng quản lý mạng và tính bảo mật cao đặcbiệt với dữ liệu ảnh số, phù hợp với CSDL Hán Nôm giúp NDT có thể tìmkiếm thông tin theo nhiều tiêu chí khác nhau: nhan đề sách, tên tác giả, kýhiệu sách, chủ đề…và tìm đến trang tài liệu gốc của tài liệu thông qua việctìm từ hoặc cụm từ bất kỳ nào từ bản dịch của một hoặc toàn bộ số sách cótrong CSDL. 33Một ví dụ điển hình khác về số hoá tài liệu là TT- TTTV Đại học Quốc giaHà Nội. Trung tâm này đã tiến hành xây dựng dự án CSDL học liệu điện tửvà mạng tài nguyên học tập số hoá cho Trung tâm nhằm lưu trữ các nguồn tàinguyên số hoá, phục vụ các hoạt động nghiên cứu khoa học, đào tạo trựctuyến, đào tạo từ xa cho cán bộ, sinh viên học sinh của Đại học Quốc gia HàNội (ĐHQGHN).* Các mục tiêu của dự ánXây dựng một hạ tầng CSDL học liệu điện tử tại Trung tâm nhằm lưu trữcác nguồn tài nguyên số hoá, phục vụ các hoạt động nghiên cứu khoa học,đào tạo trực tuyến, từ xa cho cán bộ, sinh viên, học sinh của Đại học Quốc giaHà nội.* Hướng phát triển mở rộng và mục tiêu chiến lược của dự ánĐịnh hướng tới mạng kiến thức trực tuyến, là cơ sở cho việc tiến tới thiếtlập mạng thông tin liên kết các tài nguyên học tập số hoá của Liên hiệp thưviện các trường Đại học phía Bắc.* Kết quả đạt được của dự án:- Một hệ quản trị CSDL các học liệu điện tử trực tuyến;- 20 giáo trình điện tử được biên tập theo hình thức học liệu, có thể lưu trữvà tái sử dụng bằng các hình thức: Khai thác trực tuyến như sách điện tử, kếtxuất ra đĩa CD, kết xuất sang các CSDL của nhiều hệ e-Learning khác nhautheo chuẩn SCORM;- Quy trình công nghệ và quy trình biên tập, bổ sung nguồn tài liệu điện tửtrực tuyến.1.2.3. Tầm quan trọng của tài liệu số hoá tại Thƣ viện Quốc gia Việt Nam 34- Bảo vệ an toàn và lâu dài các tài liệu gốc (vấn đề này đặc biệt có ý nghĩađối với TVQGVN khi số hoá các tài liệu quí hiếm như các chứng từ của lịchsử, là di sản văn hoá);- Giúp khai thác tốt nhất các tài liệu của TVQGVN không chỉ những ngườitrực tiếp đến thư viện mà cả những người ở bên ngoài, nếu có máy tính kếtnối Internet là có thể khai thác tài liệu số hoá của Thư viện- Có mật độ thông tin cao;- Dễ dàng tạo lập các sản phẩm và dịch vụ thông tin mới;- Đẩy mạnh việc chia sẻ nguồn tài nguyên thông tin;- Tiết kiệm không gian cho các kho bảo quản tài liệu.- Tuyên truyền, phổ biến các sách của Việt Nam ra thế giới. 35CHƢƠNG 2THỰC TRẠNG CỦA QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG VÀ SỬ DỤNGTÀI LIỆU SỐ TẠI THƢ VIỆN QUỐC GIA VIỆT NAM2.1 Tạo lập tài liệu sốSố hoá tài liệu được sử dụng để chỉ quá trình chuyển đổi thông tin trongcác đối tượng thực sang dạng điện tử. Số hoá được coi là một phương thức tạolập tài nguyên thông tin điện tử (tài nguyên thông tin điện tử là tập hợp có tổchức những bộ sưu tập thông tin kiến thức được số hoá, được lưu trữ theo cáccông nghệ đặc biệt mà có thể truy cập, chia sẻ, khai thác theo các giao thức vàthủ tục tiêu chuẩn xác định trong môi trường điện tử2.1.1 Lập kế hoạch phát triển tài liệu số tại Thư viện Quốc gia Việt NamTin học hóa thư viện là xu thế phát triển tất yếu và với tốc độ ngày càngnhanh. Việc tự động hóa quy trình công nghệ được tiến hành bắt đầu tạiTVQGVN năm 1986 với một số máy tính đơn lẻ và xử lí tài liệu trên phầnmềm CDS/ ISIS do Unesco cung cấp, TVQG đã chú trọng đến việc tăngcường các CSDL thư mục bằng các đợt hồi cố sách Việt và sách hệ ngôn ngữLatinh. Từ đó việc in phích mục lục và biên soạn thư mục quốc gia (TMQG) 36hàng tháng, hàng năm cũng như việc quản lý dữ liệu đều đã được thực hiệntrên máy tính, vừa chính xác, vừa đẹp, vừa nhanh và lại giảm đáng kể sức laođộng của cán bộ tại một số bộ phận của TVQG và được triển khai đến thưviện tỉnh, thành phố năm 1991.Các nguồn tin điện tử của TVQG rất đa dạng bao gồm các CSDL (CSDLthư mục, CSDL toàn văn), các sách điện tử (E-Book), tạp chí điện tử (EJournal), các phim ảnh được số hoá…được xây dựng dưới nhiều dạng khácnhau. Các tài liệu điện tử có thể bổ sung bằng nhiều phương thức khác nhaunhưng xét theo khía cạnh nguồn bổ sung thì có thể phân chia thành các tài liệutự xây dựng, các tài liệu thu được qua mua, trao đổi, biếu tặng và các tài liệutruy cập từ xa.Mặt khác, việc nghiên cứu xây dựng CSDL (CSDL) là một việc làm cơbản của quá trình tự động hóa thư viện. Các CSDL phản ánh toàn bộ vốn tàiliệu của thư viện. TVQG đã nghiên cứu và quyết định các CSDL được phânchia theo loại hình tài liệu chứ không phải theo nội dung.Trước hết, TVQG đã tiến hành số hoá nguồn tư liệu trên giấy của Thư viện(tức là chuyển tài liệu sang dạng số): bao gồm CSDL thư mục và CSDL toànvăn, CSDL quản lý nhân vật.+ CSDL thƣ mụcĐây là loại CSDL rất quan trọng phản ánh nguồn lực thông tin truyền thốngcủa các thư viện làm cơ sở cho một số hoạt động nghiệp vụ như xử lý tài liệu,tạo lập và bổ sung mục lục, biên soạn thư mục, phục vụ tra cứu tìm tin, traođổi thông tin thư mục.CSDL sách của TVQG: 300.000 biểu ghi (sách tiếng Việt xuất bản từ 1954đến nay, sách hệ chữ Latinh từ 1982-nay, sách tiếng Pháp kho Đông Dương..)