Tại sao phương pháp chọn lọc hàng loạt hiệu quả không cao

Câu 2 trang 70 SGK Công nghệ 10

Đề bài

Trình bày phương pháp chọn lọc hàng loạt. Ứng dụng và ưu, nhược điểm của phương pháp này.

Lời giải chi tiết

- Chọn lọc hàng loạt là phương pháp chọn lọc trong đó các nhà chọn giống chỉ tiến hành chọn các cá thể theo các tính trạng kiểu hình mà không kiểm tra theo gen.

Ví dụ: Trong 1 đàn gà lơgo chọn ra những con có sản lượng trứng cao từ 200 quả đến 250 quả/môt chu kì 300 ngày sẽ được giữ lại làm giống, những con đẻ số lượng trứng ít hơn bị loại thải.

- Ưu điểm: Phương pháp này đơn giản, không đỏi hỏi phải có trình đô khoa học kĩ thuật và máy móc hiên đại, mà hiêu quả chọn lọc lại tương đối tốt.

- Nhược điểm: Do khi chọn lọc chỉ căn cứ vào kiểu hình, không kiểm tra được kiểu gen vạt nuôi nên chỉ có hiêu quả với các tính trạng có hê số di truyền cao như màu lông, chân, đầu mạt, hình dáng con vạt. Các tính trạng có hê số di truyền thấp như năng suất sữa, trứng... không ổn định qua các thế hê nếu điều kiên ngoại cảnh thay đổi.

Loigiaihay.com

  • Tại sao phương pháp chọn lọc hàng loạt hiệu quả không cao

    Câu 3 trang 70 SGK Công nghệ 10

    Trình bày phương pháp chọn lọc cá thể và nêu ưu, nhược điểm của phương pháp này.

  • Tại sao phương pháp chọn lọc hàng loạt hiệu quả không cao

    Câu 1 trang 70 SGK Công nghệ 10

    Trình bày những chỉ tiêu cơ bản để đánh giá, chọn lọc vật nuôi làm giống?

  • Tại sao phương pháp chọn lọc hàng loạt hiệu quả không cao

    Trả lời câu hỏi Bài 23 trang 68 SGK Công nghệ 10

    Em hãy quan sát sơ đồ và cho biết: Để vật nuôi và cá sinh trưởng, phát dục tốt cần tác động vào những yếu tố nào?

  • Tại sao phương pháp chọn lọc hàng loạt hiệu quả không cao

    Câu 3 trang 121 SGK Công nghệ 10

    Trong bảo quản cần chú ý những đặc điểm nào của nông, lâm, thủy sản?

I. Các chỉ tiêu cơ bản để đán giá chọn lọc vật nuôi

1. Ngoại hình thể chất

a) Ngoại hình là hình dáng bên ngoài của con vật mang đặc điểm đặc trưng riêng của giống, qua đó thể hiện nhận định tình trạng sức khoẻ, cấu trúc hoạt động của các bộ phận bên trong cơ thể và dự đoán khả năng sản xuất của vật nuôi.

b) Thể chất là chất lượng bên trong cơ thể vật nuôi. Được hình thành bởi tính di truyền và điều kiện phát triển cá thể vật nuôi. Thể chất có liên quan đến sức sản xuất và khả năng thích nghi với điều kiện môi trường sống của con vật nuôi.

2. Khả năng sinh trưởng, phát dục

Khả năng sinh trưởng vật nuôi thường được đánh giá dựa vào: Tốc độ tăng khối lượng cơ thể (tính bằng g/ngày hay kg/tháng) và mức tiêu tốn thức ăn (số kg thức ăn để tăng 1kg khối lượng cơ thể)

Khả năng phát dục của vật nuôi được đánh giá bằng thời gian tính dục và thuần thục tính dục ở mỗi loài

Khả năng sinh trưởng, phát dục là căn cứ quan trọng đánh giá chọn lọc. Con vật được chọn làm giống phải có khả năng sinh trưởng, phát dục tốt, lớn nhanh, mức tiêu tốn thức ăn thấp, cơ thể phát triển hoàn thiện, thành thục dục tính rõ, phù hợp độ tuổi từng giống.

3. Sức sản xuất

Sức sản xuất là mức độ sản xuất ra sản phẩm của như : khả năng làm việc, khả năng sinh con, cho thịt, cho trứng, sữa,…

Giống vật nuôi khác nhau có sức sản xuất khác nhau, tuy nhiên còn phụ thuộc vào chế độ chăm sóc, nuôi dưỡng và đặc điểm cá thể.

Chọn lọc hàng loạt

Cập nhật lúc: 11:51 19-01-2018 Mục tin: Sinh học lớp 9


CHỌN LỌC HÀNG LOẠT docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (124.31 KB, 6 trang )

CHỌN LỌC HÀNG LOẠT

1.Cách tiến hành
Trong 1 quần thể vật nuôi hay cây trồng, dựa vào kiểu hình người ta chọn
ra một nhóm cá thể phù hợp nhất với mục tiêu chọn lọc để làm giống.
Ở cây trồng, hạt của những cây đã chọn được thu hoạch chung, trộn lẫn
với nhau để trồng trong vụ sau. Ở vật nuôi, những cá thể có ngoại hình đẹp,
lớn nhanh, đẻ tốt được chọn ra để nhân giống. Việc so sánh năng suất trung
bình của vụ sau so với giống ban đầu cho phép đánh giá hiệu quả chọn lọc.
Tuỳ theo vật liệu khởi đầu, yêu cầu và hiệu quả chọn lọc, có thể tiến hành
chọn lọc hàng loạt 1 lần hay phải lặp lại nhiều lần.
Từ lâu nông dân ta đã chọn lọc hàng loạt đối với cây lúa theo 3 tiêu chuẩn:
khóm tốt, bông tốt, hạt tốt. Giống cải củ số 9 được Viện Cây lương thực
thực phẩm chọn lọc hàng loạt từ giống cải củ Hồng Kông nhập vào nước ta
năm 1980, có thời gian sinh trưởng 40 – 45 ngày, khối lượng củ trung bình
230g, năng suất 35 – 40 tạ/ha.
Trong chăn nuôi phương pháp chọn lọc hàng loạt đã góp phần tạo ra
những giống có năng suất cao về sữa, trứng, thịt, len.

2.Phạm vi ứng dụng
Đối với những cây tự thụ phấn, có khi chỉ chọn lọc 1 lần đã mang lại hiệu
quả. Đối với những cây giao phấn vì quần thể có kiểu gen không đồng nhất,
các thế hệ sau có sự phân tính, nên thường phải chọn lọc hàng loạt nhiều lần.
Chọn lọc hàng loạt là phương pháp hữu hiệu để duy trì chất lượng và năng
suất của giống khi đưa vào sản xuất đại trà qua nhiều vụ, để phục tráng
những giống đã khu vực hoá va` để cung cấp giống cho sản xuất.

3. Ưu, nhược điểm
Phương pháp chọn lọc hàng loạt đơn giản, dễ làm, ít tốn kém nên có thể áp
dụng rộng rãi. Phần lớn các giống tốt ở các địa phương là do nhân dân sáng
tạo ra trong thực tiễn sản xuất nông nghiệp bằng phương pháp đó.


Nhược điểm của phương pháp này là chỉ căn cứ trên kiểu hình, không
kiểm tra được kiểu gen của cá thể nên việc củng cố, tích luỹ các biến dị tốt
chậm đưa đến kết quả. Ta biết rằng mỗi tính trạng trên cơ thể đều phụ thuộc
2 yếu tố: gen và môi trường. Tuy nhiên, tỷ trọng của mỗi yếu tố này là khác
nhau tuỳ từng tính trạng, biểu thị ở hệ số di truyền. Hệ số di truyền cao nói
lên rằng tính trạng phụ thuộc chủ yếu vào gen, ảnh hưởng của môi trường là
ít. Ngược lại, hệ số di truyền thấp, chứng tỏ tính trạng chịu ảnh hưởng nhiều
của môi trường. Ví dụ hệ số di truyền sản lượng trứng gà Lơgo là 9 – 22%,
khối lượng trứng gà là 36 – 93%, sản lượng sữa bò 1 kỳ vắt sữa là 25 – 38%,
hàm lượng mỡ trong sữa bò là 33 – 57%. Phương pháp chọn lọc hàng loạt
thường chỉ dễ có hiệu quả đối với tính trạng có hệ số di truyền khá cao.
Trong khi chọn lọc một loạt cây tốt có thể lẫn lộn các kiểu hình tốt do kiểu
gen tốt với những thường biến do các yếu tố vi địa hình, vi khí hậu. Để khắc
phục điều này, người ta cố gắng tiến hành chọn lọc hàng loạt trên các chân
ruộng đồng đều về địa hình, độ phì của đất.

CHỌN LỌC CÁ THỂ

1. Cách tiến hành
Trong quần thể khởi đầu người ta cũng chọn lấy một số ít cá thể tốt nhất
nhưng điều sai khác căn bản so với chọn lọc hàng loạt là ở chọn lọc cá thể
con cháu của những cá thể này được nhân lên một cách riêng rẽ theo từng
dòng, do đó kiểu gen của mỗi cá thể ban đầu sẽ được kiểm tra qua nhiều thế
hệ. Sự so sánh giữa các dòng và so sánh với giống khởi đầu sẽ cho phép
chọn được những dòng tốt nhất, loại bỏ những dòng không đáp ứng mục tiêu
chọn giống. Phương pháp chọn lọc cá thể có thể được tiến hành 1 lần hay
nhiều lần.
Ví dụ, giống đậu tương 138 được chọn lọc từ tổ hợp lai Cọc chùm x V
73


bằng phương pháp chọn lọc cá thể tại Viện cây lương thực thực phẩm, đưa
vào khảo nghiệm năm 1981, có thân cao, phân nhánh ít, quả to, ít đổ, chống
sâu bệnh khá, thời gian sinh trưởng 95 – 100 ngày, năng suất 12 – 16 tạ/ha.

2. Phạm vi ứng dụng
Khi mục tiêu chọn lọc là loại tính trạng có hệ số di truyền thấp thì phải áp
dụng phương pháp chọn lọc cá thể. Chọn lọc cá thể một lần được áp dụng
cho các cây nhân giống vô tính và các cây tự thụ phấn. Dòng tự thụ phấn có
kiểu gen khá đồng nhất và ổn định nên có khi chỉ chọn lọc cá thể 1 lần la` đã
có kết quả.
Đối với cây giao phấn, nếu muốn áp dụng chọn lọc cá thể thì phải tiến
hành nhiều lần. Trong quần thể giao phấn rất khó xác địng cây bố, và con
cháu của 1 cây ban đầu thường không đồng nhất về kiểu gen và kiểu hình,
do đó chọn lọc cá thể 1 lần không đủ để đánh giá.
Đối với vật nuôi, người ta kiểm tra đực giống qua đời sau. Con đực không
thể cho sữa, trứng, nhưng ảnh hưởng đến 1 số lượng lớn con cháu, trong đó
có cả đực và cái, thuận lợi cho việc đánh giá. Một bò đực giống ở trạm thụ
tinh nhân tạo có thể cho 25 ngàn con bê trong 1 năm. Ngày nay phương
pháp kiểm tra qua đời con được bổ sung bằng những phân tích hoá sinh, tế
bào trên con đực giống.
Trong chăn nuôi gia cầm, người ta còn áp dụng phương pháp kiểm tra qua
đời sau đối với con mái.

3. Ưu, nhược điểm
Chọn lọc cá thể kết hợp được việc đánh giá dựa trên kiểu hình với việc
kiểm tra kiểu gen, do đó nhanh chóng đạt hiệu quả, nhất là khi mục tiêu
chọn lọc là những tính trạng chỉ có lợi cho người mà ít có lợi cho bản thân
sinh vật như hàm lượng dầu trong hạt hướng dương, tỷ lệ bơ trong sữa bò.
Tuy nhiên chọn lọc cá thể đòi hỏi công phu, theo dõi chặt chẽ, khó áp dụng
rộng rãi.