Thứ bảy - 07/12/2019 06:21 ỨNG DỤNG TÂM LÝ HỌC TRONG PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY
Tâm lý học (Psychology) là khoa học nghiên cứu các hiện tượng và quy luật tâm lý của con người. Tâm lý học là một khoa học cơ bản
vừa già và vừa trẻ. Do phạm vi rộng của các lĩnh vực nghiên cứu và ứng dụng rất rộng, do đó sự phân chia khoa học cũng rất nhiều và có sự liên quan
mật thiết đến công tác giáo dục bao gồm: tâm lý học phổ thông, tâm lý học nhi đồng, tâm lý học giáo dục, tâm lý học nhân cách, tâm lý học phát triển v.v… I.V. Stalin từng gọi
là “kỹ sư tâm hồn của con người”, tên gọi này rất thích hợp. Bồi dưỡng cho sinh viên, học sinh trở thành nhân tài của đất nước, đây là
một hạng mục vĩ đại trong công trình giáo dục. Lý luận tâm lý học là việc thực hành tất yếu trong công trình giáo dục, tâm lý học và tri thức khoa học giải thích
bản chất của tâm lý học và quy luật hoạt động của nó. Nắm vững kiến thức về tâm lý học có thể giúp giáo viên dùng phương pháp khoa học bồi dưỡng nhân tài, nâng cao
kỹ năng giảng dạy. Nhà Tâm lý học giáo dục Mỹ E.L. Thorndike nói: “Tâm lý học là khoa học về trí năng, tính nết
và hành vi của động vật, trong đó có cả con người. Giáo dục con người liên quan đến những đổi thay
*. Giảng viên khoa Trung Văn HVPGVN tại TP.HCM. nhất định trong trí năng, tính nết,hành vi của họ
và những vấn đề của công cụ giáo dục đó đại thể nằm trong bốn chủ đề sau: Mục tiêu, vật liệu, phương tiện và phương
pháp giáo dục”.1 Giáo dục học đường là phần quan trọng nhất trong quá trình dạy học, nó không chỉ phản ánh sự chuẩn bị của giáo
viên trước khi đến lớp, đây là bài kiểm tra kỹ năng giảng dạy của giáo viên,là điều căn bản của một giáo viên giỏi cần phải có để hoàn thành tốt tiết giảng
dạy của mình. Không chỉ truyền đạt tất cả kiến thức cho học sinh trong bài học, mà còn có tác dụng rất lớn trong việc bồi dưỡng hứng thú cho học sinh đối với môn học.
Trong nhiều năm, các nhà nghiên cứu tâm lý học đã tìm cách làm cho học sinh đạt được hiệu quả học tập tốt nhất trong một môi trường học tập không áp lực, đã tìm được rất nhiều
phương pháp. Nhưng theo thực tế hiện nay, nhiều giáo viên lên lớp giảng dạy rất nhiều phương diện, nhưng học sinh hấp thu bao nhiêu, nhớ được bao nhiêu thì chẳng
ai biết được. Giáo viên áp dụng tâm lý học trong giảng dạy có thể cải thiện
hứng thú học tập và hiệu quả học tập cho học sinh. Sau đây tôi xin
trình bày một số hiểu biết về sự kết hợp tâm lý học và phương pháp
giảng dạy. THIẾTLẬPMỐIQUANHỆ TỐTGIỮA
GIÁO VIÊNVÀ HỌC SINH Mối quan hệ tốt giữa giáo viên và học sinh là cơ sở quan trọng trong quá trình
giảng dạy. Thái độ giảng dạy đúng là nội dung cốt lõi của quá trình dạy học, vì nếu giáo viên có năng lực tốt đến đâu đến đâu nhưng học
sinh không thích, không tín nhiệm, thì sẽ không đạt đến kết quả giảng dạy tốt. Làm thế nào để thiết lập một mối quan hệ tốt giữa giáo viên và học sinh? Đứng trước bục giảng,
giáo viên đóng hai vai trò, một là thầy cô giáo, hai là bạn của học sinh. Làm thế nào để phối hợp tốt mối quan hệ giữa hai vai trò này là điều rất quan trọng. Kế
đến, giáo viên phải có sự tôn trọng, thái độ tích cực và quan tâm bình đẳng với mỗi học sinh, xây dựng mối quan hệ tốt giữa giáo viên và học sinh.
1. Edward Lee Thorndile (1910), Đóng góp
của Tâm lý cho giáo dục(Phạm Toàn Dịch), Công bố lần đầu trong The Journal of Educational Psychology, Tập I, Trang 5-12 XÂY
DỰNGMỤCTIÊUGIẢNGDẠY Làm thế nào để thiết lập một mục tiêu giảng dạy hiệu quả là
tiền đề của việc giảng dạy. Cải cách phương pháp giảng dạy được thiết lập trên 3 mục tiêu: Phương pháp tích cực và hiệu quả để học sinh nắm vững kiến thức môn học, nâng cao phẩm
chất cá nhân, phát triển toàn diện nhân cách của học sinh.Đây là quá trình lâu dài, điều quan trọng là giáo viên làm thế nào mỗi tiết học đều đạt đến kết quả tích cực, làm thế nào
khiến cho học sinh học, biết và hiểu, mới là mấu chốt quan trọng cho một tiết học có hiệu quả. Trong việc thiết lập mục tiêu
giảng dạy, không thể thiếu các yêu cầu sau đây: 1. Mục tiêu giảng dạy tích cực; 2. Mục tiêu giảng dạy có hiệu quả; 3. Mục tiêu
giảng dạy chất lượng, nắm bắt tiêu điểm bài giảng, thực hành phương pháp vận dụng v.v...; 4. Mục tiêu giảng dạy là mục tiêu thích hợp giữa giáo viên
và học sinh, học sinh không mập mờ không hiểu bài, giáo viên không trùng lặp nhạt nhẽo; 5. Mục tiêu giảng dạy lấy học sinh làm chủ; 6. Các mục tiêu giảng dạy ngắn hạn và dài
hạn phải được thống nhất; 7. Mục tiêu giảng dạy có thể đo lường được chất lượng phương pháp dạy học. TRIỂNKHAI
MỤCTIÊUGIÁO DỤC Động lực là một yếu tố nội tại thúc đẩy con người hành động và đạt được một mục đích nhất định.
Nếu kích thích động lực học tập của học sinh ta phải đồng thời kích thích cả nhân tố bên trong và bên ngoài. Nhân tố bên trong, mỗi học sinh đều có nhu cầu được tôn trọng, mà mức độ tự trọng,
cấp độ cầu tiến và sự thành công có quan hệ mật thiết đến từng cá nhân của học sinh, học sinh có lòng tự trọng cao thì đối với việc học tập sẽ có trách nhiệm hơn.
Cho nên, nâng cao lòng tự trọng của học sinh sẽ giúp ích trong việc phát huy động cơ học tập. Học sinh có động cơ học tập, mới có thể tự mình làm chủ trong việc học tập, mới có
thể chủ động tích cực trong học tập. Trong tâm thức học sinh sẽ tự đông chuyển hóa từ “cần tôi học” thành “tôi cần học”,
“khổ học” thành “vui học”. Có như vậy hiệu quả học tập sẽ tự nâng cao, cho nên đối với việc giáo dục không chỉ dừng
lại ở trên lớp, có thể đem lại cho học sinh những kiến thức của thế giới bên ngoài học đường và các kiến thức liên quan. Chẳng hạn như các môn học cơ bản quan trọng
trong cuộc sống, có vai trò to lớn trong khoa học, công nghệ và đời sốngv.v. để học sinh nhận ra rằng môn học đó đóng một vai
trò quan trọng, mới có thể tạo ra động lực kích thích mạnh mẽ cho học sinh học tập và tự mình học tập.
PHƯƠNGPHÁPGIẢNGDẠYTHÍCH HỢP Trong quá trình
giảng dạy, học sinh giỏi không phải là đối tượng lo lắng của giáo viên, ngược lại học sinh có thành tích kém mới là đối tượng lo lắng, là điểm
quan tâm chủ yếu của giáo viên, mỗi lớp học đều có một số học sinh có học lực kém bị ép bởi các bạn có học lực cao, bị giáo viên bỏ quên. Thông qua khảo sát và trao đổi cùng
một số học sinh, phát hiện phần đông có học lực kém đều có tính tự ti hoặc cực đoan, những học sinh này cho rằng người khác vì mình có thành tích kém mà xem thường, do đó,
trong lòng càng buồn khổ, chán nản không thể thoát khỏi trạng thái tâm lý này dẫn đến tình trạng tìm nơi giải trừ áp lực thông qua việc hút thuốc, uống rượu, lên mạng, giao
lưu bạn bè v.v... Sống trong tâm trạng ấy, dần dần dẫn đến đời sống lệch lạc, sa vào bạo lực, bài bạc, trộm cướp, nghiện ngập v.v. sản sanh ra
những hành vi xấu. Do đó, những hành vi bất thiện của học sinh gây ra, nguyên nhân chính thuộc về trách nhiệm của gia đình và giáo viên. Trên thực tế, những học sinh này
cũng giống như hầu hết các học sinh khác, đều có tâm cầu tiến, mong có thành tích ưu tú, muốn được bạn bè tôn trọng, thầy cô giáo quan tâm khen thưởng. Nhưng do
mất đi kiến thức căn bản, thành tích thấp kém, càng học lên cao áp lực càng nặng, hạng mục học tập càng nhiều, bài học càng lúc càng khó, dẫn đến việc theo không
kịp các bạn cùng lớp. Từ đó, chọn phương pháp trốn tránh, dẫn đến sự sợ hãi các môn học, mất đi tự tin và tích cực trong học tập, trong nghiên cứu tâm lý học đã chỉ rõ,
cảm xúc là yếu tố quan trọng trong việc quyết định người học có thể đạt được kết quả lý tưởng hay không. Nâng cao sự tự tin của học sinh là điều kiện quan trọng để cải thiện hứng thú học
tập. Làm thế nào để nâng cao sự tự tin của học sinh? Chúng ta có thể bắt đầu từ các khía cạnh sau đây: 1. Tích cực chú ý đến ưu điểm của học sinh, như có một
số học sinh có trí nhớ tốt, một số có khả năng thực hành tốt v.v.; 2. Giúp học sinh hoàn thành các khóa học ngắn hạn. Sắp xếp những bài tập tương đối dễ cho học sinh
(thành tích kém) hoàn thành. 3. Giúp học sinh (thành tích kém) tìm các đối tượng tương đương để so sánh, làm cho các em có sự cạnh tranh cùng nhau trong học tập, vì
những học sinh cá biệt (thành tích kém) và những học sinh khác không thể cùng một vạch xuất phát, nếu chúng ta cùng vận dụng một phương pháp giáo dục, đó là vi phạm
nguyên tắc giáo dục “dạy theo năng khiếu của học sinh”, nên giáo viên cần phải vận dụng thời gian rảnh
trên lớp hướng dẫn riêng cho học sinh cá biệt Giúp cho các em cảm nhận đang được giáo viên quan tâm chứ không phải bị bỏ rơi. So với các bạn cùng trang lứa các em
càng mong muốn được người khác tôn trọng và khẳng định. Do đó, giáo viên càng nên quan tâm đến các ưu điểm của các em hơn là các khuyết điểm.
Dù là những ưu điểm nhỏ giáo viên cũng nên có sự quan tâm và biểu dương tích cực. Trong quá
trình khuyến khích các em nỗ lực học tập, làm cho các em thấy mình không phải không có năng lực. Có như
vậy các em mới có không gian tự tin mà tiến bước. TRỞNGẠITRONGGIẢNG
DẠY Trong quá trình giảng dạy, giáo viên dạy và học sinh đều gặp phải những
mức độ khó khăn khác nhau. Là một giáo viên, có thể vì sự cống hiến cho xã hội, hy vọng mình sẽ cải thiện chất lượng học của học sinh, trong khi đó nhà trường và phụ huynh lại muốn cải
thiện điểm số của học sinh mà sản sinh ra mâu thuẫn. Là một giáo viên tốt cần phải cân bằng được hai vấn đề này. Làm thế nào để cân bằng là một
vấn đề giáo viên phải đối mặt. Theo tôi, nếu chất lượng giáo dục tăng lên, thành tích tự nhiên sẽ tăng theo, bản thân hai vấn đề này không xung đột cùng
nhau. Kế đến là là sự đối kháng của học sinh trong quá trình giảng dạy. Vì sao học sinh có tâm đối kháng, giáo viên không chỉ phải tìm ra nguyên nhân từ bản thân của học sinh, đồng thời
nên từ bản thân mình mà tìm nguyên nhân. Hiện tượng đối kháng chủ yếu được thể hiện ở các học sinh cá biệt, các em dùng những hành
động, lời nói khác thường nhằm cố gắng hấp dẫn sự chú ý của người khác. Giáo viên cần phải nhận thức rõ những hiện tượng phát triển của tâm lý học sinh, để tìm
ra phương pháp giải quyết đúng đắn. Đầu tiên giáo viên cần phải có những kiến thức căn bản về tâm lý học như: Tâm lý học phổ thông (General
Psychology), thông qua đó có thể hiểu được kiến thức căn bản của tâm lý học và một vài hiện tượng căn bản của tâm lý, nắm bắt được một số vấn đề của tâm lý
học. Phát triển Tâm lý học (developmentalpsychology, giáo viên nên hiểu được quy luật phát triển tâm lý của học sinh, biết được mỗi đặc điểm phát triển
qua từng giai đoạn tuổi tác và sự khác biệt tồn tại trong từng cá thể. Giáo dục Tâm lý học (educationalpsychology), trọng tâm của giáo dục
tâm lý học là nghiên cứu các vấn đề trong việc học tập của học sinh, nghiên cứu học sinh học tập như thế nào, thói quen trong học tập, và cách thức học tập v.v... kiến thức về tâm lý học
giáo dục phong phú sẽ giúp giáo viên giải quyết một số vấn đề về tâm lý mà học sinh gặp phải trong quá trình học tập. Ngoài ra, những kiến thức về Tâm lý học
Xã hội (Socialpsychology), Tâm lý học Tư vấn (ConsultingPsychology), Tâm lý Giáo dục Sức khỏe v.v... cũng
rất quan trọng, giáo viên có thể căn cứ vào tình huống của bản thân, không chỉ có ích trong việc giảng dạy, mà cònduy trì được tâm lý sức khỏe, luyện tập trở thành một
người có tố chất tâm lý tốt. Kế đến giáo viên có thể hiểu được đặc điểm tư duy của học sinh. ĐÁNHGIÁHỢP
LÝ Kịp thời đánh giá bài tập của học sinh một cách chính xác, không phải chỉ đơn giản là tốt hay xấu, mà từ trong sự phản hồi của giáo viên học sinh
xem xét lại chính mình. Tóm lại, giáo viên không ngừng cải tiến phương pháp giảng
dạy theo những phương pháp sau: - Dạy tốt mỗi tiết học, đạt được sự tín nhiệm của học sinh
Thường
thì học sinh sẽ sanh ra cảm giác lo lắng khi tiếp cận những môn học mới, cảm thấy phức tạp, thậm chí mang tâm lý lo sợ. Giáo viên cần
phải kịp thời giúp học sinh khắc phục trạng thái tâm lý này. Hướng dẫn học sinh kết hợp kiến thức của môn học và thực tiễn cuộc sống, từ trong tâm lý thực sự tin rằng cuộc sống chính là
nguồn kiến thức của các môn học. Học sinh đối với môn học phải sản sanh hứng thú, mới có thể chủ động và tích cực, mà hứng thú trong học tập phần lớn đến từ
giáo viên, cho nên giáo viên cần phải vận dụng tốt cơ hội trong tiết học đầu tiên (vì đây là tiết học để lại ấn tượng sâu nhất cho học sinh), dựa vào chất lượng
dạy học của giáo viên, dùng kiến thức của mình với môn học tạo thành sức mạnh lan truyền đến cho học sinh, chinh phục học sinh, kích phát hứng thú học tập của học sinh, điều này tạo một nền tảng tốt đẹp cho
công tác giảng dạy sau này. - Truyền cảm hứng giảng dạy để kích
thích tư duy trừu tượng của học sinh
Trong mỗi tiến trình, cấp bậc, tầng thứ của học sinh đều có sự
thay đổi rất lớn: Nội dung giảng dạy cũng rất trừu tượng, phương pháp càng thêm linh động. Cho nên trong giảng dạy, giáo viên nên dạy cho học
sinh từ nhiều góc độ, nhiều tầng thứ quan sát phân tích vấn đề, hình thành kiến thức tư duy độc lập, mở rộng góc độ tư duy. Cần
hướng dẫn học sinh từ tính ỷ lại chuyển sang chủ động và độc lập trong học tập, kế đến hướng dẫn học sinh từ những kinh nghiệm phán đoán
cảm tính chuyển sang tư duy có tính logic trừu tượng. - Học sinh là người tham gia, không phải người ngoài
cuộc
Trong quá trình giảng dạy giáo viên cần phải xác định được “ địa vị” của mình, học sinh
là chủ thể, các em là người tham gia, không phải người bàng quan. Cho nên trong hoạt động giáo dục giáo viên cần phải hướng dẫn học sinh tham gia vào
trong hoạt động giảng dạy. Cách tốt nhất để học sinh tích cực tham gia học tập là đặt câu hỏi, đưa ra các vấn đề phát khởi năng lực tưởng tượng của học sinh, khiến cho các em phát
huy tất cả kiến thức, kỹ năng của mình. Từ đó, không khí của lớp học sẽ sôi nổi hơn, hứng thú học tập của học sinh sẽ được nâng cao
hơn. - Chú trọng việc trau dồi khả năng đặt câu hỏi của học sinh
Trong quá
trình học tập học sinh luôn nảy sinh các vấn đề khó giải thích, các em muốn đạt được kiến thức về lĩnh vực này để thỏa mãn tính hiếu kỳ, nhưng đồng thời lòng tự trọng của các
em cũng rất lớn, rất sợ mất mặt. Vì vậy, thường thể hiện tâm lý rụt rè, sợ rằng câu hỏi của mình không phù hợp, bị giáo viên phê bình, sợ bạn bè
cười nhạo. Do đó, cần phải khiến cho học sinh lúc lên lớp mạnh dạn đặt vấn đề. Đầu tiên, giáo viên cần phải nghĩ phương pháp giúp đỡ học sinh giải trừ chướng ngại tâm
lý, khuyến khích học sinh mạnh dạn đặt vấn đề. Trong lúc giảng dạy cần phải bồi dưỡng năng lực đặt
câu hỏi cho học sinh, không thể tất cả đều làm theo từng bước trong sách giáo khoa, giáo viên cần phải có tính thực tế trong giảng dạy, phù họp với năng khiếu của học sinh,
không ngừng cải cách phương pháp giảng dạy, tích cực áp dụng các phương tiện khoa học để khuyến khích học sinh đặt câu hỏi, thấy được lợi ích từ việc đặt câu hỏi và đạt được những kiến
thức trong việc đặt câu hỏi. Trong lúc giảng dạy, giáo viên không cần giảng
dạy toàn bộ đầy đủ các phương diện, mà để cho học sinh có không gian phát triển và tư duy, giúp cho học sinh tích cực phát huy sự sáng tạo, tư duy và quan điểm của
mình. KẾTLUẬN Tâm lý học là một môn khoa học thú vị, là đối tượng nghiên cứu tự thân của con người và các hiện tượng
tâm lý khác nhau xảy ra với chúng ta. Một số hiện tượng tâm lý cực kỳ phổ biến đối nhưng các nhà tâm lý học lại rất quan tâm. Họ dành nhiều
công sức cho cho việc đào sâu nghiên cứu và đạt được khá nhiều kết quả. Nếu chúng ta có thể áp dụng những kết quả lý thuyết này vào công
việc giảng dạy, để giáo viên hiểu rõ hơn về tâm lý học sinh, càng có hiệu quả hơn trong công tác giáo dục và giúp đở học sinh, đồng thời
đóng một vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy việc học tập của học sinh. Trước đây, không có kiến thức lý
thuyết về tâm lý học, hoặc thiếu kiến thức về học tập và tri thức về tâm lý học nên không thể giải quyết tốt những vấn đề học sinh cần học và giáo viên cần
dạy. Ngày nay tâm lý học phát triển và dần dần áp dụng vào phương pháp dạy học, ví dụ: Thông qua việc giao lưu, tìm hiểu học sinh, từ đó đạt được mục đích truyền đạt tin tức.
Giáo viên vì học sinh mà phục vụ, vì thế cần phải gần gũi, tìm hiểu học sinh nhiều hơn, nghe ý kiến, kiến nghị và cảm nhận của học sinh, sau đó điều chỉnh phong cách và phương pháp
giảng dạy của mình. Có như thế mới có thể đạt được kết quả giảng dạy tốt. Từ góc độ này, chúng ta có thể tiến hành phương pháp “đổi góc độ suy nghĩ” là
vô cùng cần thiết: Nếu như tôi là học sinh, tôi mong giáo viên sẽ dạy như thế nào? Qua việc học tâm lý học, ngày càng chú ý đến tác động của tâm lý học đối với
hiệu quả giảng dạy, cổ nhân nói “biết địch biết ta trăm trận trăm thắng” chỉ khi biết được học sinh đang nghĩ gì, đang muốn gì, đang hy vọng điều gì thì mới có
thể “đúng bệnh cho thuốc”, mới có thể “thuốc đến bệnh trừ”. Đạo lý thì rất đơn giản, nhưng khi thực hành thì rất khó.
*** Tài liệu tham khảo Edward Lee Thorndile (1910), Đóng góp của Tâm lý cho giáo dục (Phạm Toàn Dịch), Công bố
lần đầu trong The Journal of Educational Psychology, tập I. Nguyễn Ngọc Bích ( 2003), Tâm lý học nhận biết con
người trong quản lý nhân sự, NXB Huế. Đặng Phương Kiệt ( 2001), Cơ sở tâm lý học ứng dụng, NXB Đại học quốc gia Hà
Nội. 杨传凯.中学语文教育的“三基”问题[ J]. 教学与管理, 2007 陈玉军.略论教育心理学在高职教学管理中的应用[ J].现代交际, 2014
李宗洪.教育心理学在学生教育教学工作中的应用[ J].科教文汇(上旬刊), 2015 Những tin mới hơn Những tin cũ hơn |