Topps lưu trữ bộ cuối cùng năm 1953 năm 2022

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHIỆP TP HCM
KHOA QUẢN TRỊ KINH DOANH

TIỂU LUẬN
Môn: NGHIÊN CỨU TRONG KINH DOANH
Đề tài:QUÁ TRÌNH NGHÊN CỨU HOẠT ĐỘNG CỦA BA SẢN
PHẨM :KẸO SINGUM, XÀ PHÒNG LIFEBUOY VÀ NƯỚC MẮM
CHINSU
GVHD: Hà Thị Thanh Minh
Nhóm :10

Tp HCM,ngày 29/05/2014

DANH SÁCH NHÓM 10

HỌ VÀ TÊN

MSSV

CÔNG VIỆC

1.Nguyễn Thị Xuân

12100971

Sản phẩm kẹo sigum

2.Trịnh Thị Kiều Yên

12102691

Sản phẩm nước mắm

3.Nguyễn Lâm Trường

12150111

Sản phẩm kẹo sigum

4.Võ Thị Thùy Vân

12101141

Sản phẩm lifebuoy

5.Nguyễn Thị Xuyến

12105321

Sản phẩm nước mắm

6.Nguyễn Thị Thanh Vân

12151701

Sản phẩm kẹo sigum

7.Nguyễn Tuấn Việt

12151901

Sản phẩm lifebuoy

LỜI CẢM ƠN
Chúng em xin chân thành cảm ơn cô giáo Hà Thị Thanh Minh-khoa Quản
Trị Kinh Doanh trường Đại học Công Nghiệp TP. đã tận tình giảng dạy và giúp
đỡ chúng em trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu ,tạo mọi điều kiện thuận
lợi giúp đỡ tôi trong quá trình thực hiện đề tài.
Chúng em xin trân trọng cảm ơn giáo viên và học sinh trường Đại Học Công
Nghiệp TP.HCM đã dành thời gian quý báu của mình để tìm kiếm và cung cấp tư
liệu, tư vấn, giúp đỡ chúng hoàn thành tiểu luận này.
Tuy đã có nhiều cố gắng, nhưng chắc chắn tiểu luận của chúng em còn có rất
nhiều thiếu sót. Rất mong nhận được sự góp ý của thầy giáo, cô giáo và các bạn
sinh viên.
Xin chân thành cám ơn!

NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN

Mục lục

QUÁ TRÌNH NGHIÊN CỨU HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA 3 CÂY
STUDY (SẢN PHẨM) Ở VIỆT NAM
KẸO SINGUM, XÀ BÔNG TẮM LIFEBUOY VÀ NƯỚC MẮM CHINSU.
LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đất nước ngày một phát triển, trong thời gian qua Việt Nam đã đạt được

nhiều thành tựu quan trọng phát triển kinh tế, ngày một hội nhập sâu vào nền
kinh tế thế giới và khẳng định được vị thế của mình trong khu vực cũng như
trên trường quốc tế. Xu hướng toàn cầu hoá ngày càng được thể hiện rõ rệt,
trong môi trường mới, nhiều cơ hội ngày càng mở rộng cho các chúng ta. Nhưng
đi liền với những cơ hội đó là những thách, môi trường đầy biến động và phức
tạp hơn. Đặc biệt từ khi Việt Nam gia nhập tổ chức WTO và hiệp định về ưu đãi
thuế quan (CEPT) có hiệu lực hoàn toàn, thuế nhập khẩu giảm mạnh, thì tình
hình cạnh tranh trên thị trường nước ta lại càng quyết liệt hơn, sự cạnh tranh
không chỉ diễn ra giữa các công ty trong nước mà cả với các công ty sản xuất
hàng tiêu dùng của các nước Đông Nam Á, đây là một trở ngại rất lớn.
Tất cả những cơ hội và thách thức đó đặt ra cho các doanh nghiệp
Việt Nam trong đó có các doanh nghiệp sản xuất bánh kẹo,xà phòng tắm,nước
mắm phải xác định hướng đi cho mình thật đúng đắn để tồn tại và phát
triển. Vậy làm thế nào để có ưu thế cạnh tranh hơn đối thủ cạnh tranh và cạnh
tranh được với các đối thủ khi họ có lợi thế cạnh tranh dài hạn mà mình không
có? Không chỉ với các doanh nghiệp Việt Nam mà cả đối với các công ty lớn trên
thế giới trong suốt qúa trình tìm giải pháp phát triển, có một câu hỏi luôn đặt ra
là: làm sao doanh nghiệp có thể giải quyết được mâu thuẫn giữa một bên là khả
năng có hạn của mình và đòi hỏi vô hạn của thị trường không chỉ bây giờ mà cả
cho tương lai. Giải quyết được mâu thuẫn ấy là mục tiêu của hoạch định chiến
lược kinh doanh. Trong chiến lược chung của toàn doanh nghiệp, chiến lược sản
phẩm có vị trí, vai trò vô cùng quan trọng, nó là cơ sở để xây dựng và thực hiện
các chiến lược và kế hoạch khác như: chiến lược đầu tư phát triển, chiến lược
giá, chiến lược phân phối và các hoạt động xúc tiến hỗn hợp…

2. Mục đích nghiên cứu
Đề tài nhằm mục đích làm rõ chiến lược kinh doanh là gì, tầm quan trọng
của chiến lược kinh doanh trong doanh nghiệp, những yếu tố tác động tới việc
xây dựng các phương án chiến lược trong doanh nghiệp và phương pháp xây
dựng các phương án đó. Trên cơ sở lý luận đó, vận dụng vào tình hình thực tế

của ba công ty để phân tích các yếu tố thuộc môi trường bên ngoài và môi
trường bên trong công ty. Từ đó rút ra những điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội,
thách thức và xây dựng ma trận SWOT để đưa ra các phương án chiến lược kinh
doanh của 3 sản phẩm trong thời gian tới. Đồng thời đề xuất một số giải pháp
để thực hiện thành công chiến lược kinh doanh đã đề ra, giúp công ty có thể
cạnh tranh và phát triển tốt trên thị trường.

3. Đối tượng nghiên cứu
Các phương án chiến lược kinh doanh sản phẩm bánh kẹo của công ty CP
kẹo cao su,xà phòng tắm lifebuoy và nước mắm chinsu.
4. Phạm vi nghiên cứu
Các vấn đề liên quan tới hoạt động sản xuất, kinh doanh của 3 công ty giai
đoạn hiện tại và định hướng phát triển của công ty trong thời gian tới.

5. Phương pháp nghiên cứu
a. Thu thập số liệu
- Thông qua các phòng ban chức năng của công ty và phòng kế hoạch tổng
hợp của ba công ty.
- Quan sát tình hình sản xuất của ba công ty
- Tham khảo ý kiến của cán bộ phòng kế hoạch tổng hợp của ba công ty.
b. Phân tích tài liệu
Sử dụng phương pháp thống kê, phương pháp so sánh, đánh giá kết quả
hoạt động kinh doanh, so sánh đối chiếu và xử lý số liệu, phân tích SWOT.
6. Kết cấu của đề tài
Chương I: Lý luận chung về chiến lược kinh doanh trong doanh nghiệp
Chương II: Giới thiệu chung về ba công ty
Chương III: Xây dựng các phương án chiến lược kinh doanh cho ba sản
phẩm của ba công ty

Chương IV: Một số giải pháp nhằm thực hiện các phương án chiến lược
cho sản phẩm .
Em xin chân thành cảm ơn Cô giáo Hà Thị Thanh Minh đã nhiệt tình hướng
dẫn, đóng góp những ý kiến quý báu giúp em hoàn thành bài tiểu luận này.

NỘI DUNG TỪNG SẢN PHẨM

A.KẸO CAO SU(SINGUM)
I. TỔNG QUAN VỀ THỊ TRƯỜNG KẸO CAO SU
1.1

Lịch sử ra đời kẹo cao su.
Đầu tiên, xin trích dẫn một vài câu chuyện vui về lịch sử phát triển của kẹo
cao su, đầu tiên là thành công của William Wrigley – người đã lập ra công ty
Wriley lớn mạnh hàng đầu trong lĩnh vực kinh doanh kẹo cao su, và cũng là một
người tài ba trong việc tiếp thị kẹo cao su.Mùa xuân năm 1891 William Wrigley
Jr dời Philadelphia tới Chicago. Khi đó ông mới 29 tuổi, trong túi chỉ có vẻn vẹn
32$ và một mong muốn bắt đầu với công việc kinh doanh bằng chính thực lực
của mình. Bên cạnh lòng nhiệt tình và sức trẻ, Wrigley còn là một người bán
hàng tài năng. Là con trai của một nhà sản xuất xà bông, Wrigley đã mở rộng
được mối quan hệ kinh doanh của cửa hàng Xà bông Scouring vượt qua ngoài
khuôn khổ một khu phố của Philadelphia. Khi còn là một cậu thiếu niên, Wrigley
đã chính thức làm nhân viên bán hàng tại cửa hàng của cha đồng thời đánh xe
trở hàng đi hết thị trấn này đến thị trấn khác để tìm những đại lý bán lẻ.Vào
tháng 4 năm 1891 ông đã bắt đầu công việc kinh doanh tại Chicago với tư cách
ông chủ của cửa hàng Xà bông Wrigley. Để khích lệ những người thương nhân,
ông đã đưa ra những quà tặng, một trong những quà tặng đó là bột nở. Sau đó

bột nở lại trở nên phổ biến hơn xà bông do đó ông chuyển từ kinh doanh xà
bông sang kin doanh bột nở. Vào năm 1892, ông đưa ra ý tưởng tặng hai gói kẹo
cao su cho khách hàng khi mua mỗi gói bột nở. Ý tưởng này đã mang lại thành
công lớn, một lần nữa quà tặng – kẹo cao su – dường như lại có triển vọng hơn
cả sản phẩm chính và nó lại được đầu tư để tung ra thị trường thay thế cho sản
phẩm chính.Vào thời gian đó ở Mỹ có ít nhất trên 12 công ty kẹo cao su nhưng
nền công nghiệp này dường như không phát triển lắm. Tuy nhiên Wrigley cho
rằng đây là một sản phẩm rất có tiềm năng và đáng để đầu tư do đó ông đã
quyết định quảng bá cho sản phẩm này. Hai chi nhánh đầu tiên đã được mở ra
tại Lotta và Vassar.Tới năm 1893 kẹo cao su Juicy Fruit đã được tung ra thị
trường sau đó là kẹo Spearmint của Wrigley. Có được chỗ đứng trên thị trường
kẹo cao su không phải chuyện đơn giản bởi những công ty trước đây trong
ngành kẹo cao su đã rất quen thuộc với khách hàng. Vào năm 1899 sáu công ty
kẹo lớn nhất đã liên kết với nhau tạo thành tập đoàn kẹo cao su lớn (liên hiệp
các công ty kẹo cao su) và sự kết nối này đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến hoạt
động kinh doanh của Wrigley – một công ty non trẻ đã gặp phải rất nhiều khó
khăn khi đứng ngoài tập thể đó. Luôn là người đi sau nhưng cuối cùng công ty
ông đã chống lại sức mạnh của tập đoàn.Wrigley tiếp tục dùng những phần
thưởng để khích lệ các thương nhân nhập hàng của mình. Ông biết rằng khách
hàng sẽ sử dụng kẹo cao su Wrigley nếu họ nhận được “một chút gì đó thay vì

không có gì”. Wrigley đã mở rộng danh mục quà tặng từ những chiếc đèn đến
dao cạo và những chiếc cân. Những quà tặng đi kèm này trở nên thành công tới
mức ông phải phát ra một catalog mẫu quà tặng cho khách hàng lựa
chọn.Wrigley cũng có nhiều kinh nghiệm trong việc dùng các chiến dịch quảng
cáo để thu hút khách mua hàng. Ông là một trong những người tiên phong
trong việc sử dụng các quảng cáo để tăng doanh thu và quảng cáo cho thương
hiệu. Ông nhận ra rằng lượng khách hàng chấp nhận sản phẩm của ông sẽ tăng
nhanh nếu ông nói với họ về lợi ích của sản phẩm trên báo, tạp chí quảng cáo,

biển hiệu hay những dạng truyền thông khác. Sau đó ngày càng nhiều khách sẽ
tới các cửa hiệu để tìm hiểu và mua kẹo của ông. Như vậy tự nhiên các cửa hàng
sẽ phải nhập kẹo Wrigley để đảm bảo số lượng khách hàng của mình.Ý tưởng
này đã được thực hiện khi Wrigley quyết đinhk tập trung vào việc tung ra thị
trường kẹo cao su hương vị bạc hà – sản phẩm được ông xếp vào loại cao cấp –
ngày nay đã trở nên nổi tiếng dưới nhãn hiệu Wrigley’s Spearley. Ban đầu sản
phẩm này bán rất chậm do đó Wrigley đã tiến hành quảng cáo có quy mô trên
3thành phố thuộc miền Đông là Buffalo, Rochester và Syracuse. Cuối cùng
Wrigley đã có được kết quả khả quan.Thông qua việc xuất khẩu hàng hóa sang
nhiều nước, Uwrigley đã trở nên nổi tiếng khắp thế giới. Một cách nhanh chóng,
công ty đã trở thành một cơ sở kinh doanh có tầm vóc quốc tế. Công xưởng đầu
tiên được mở ra ở nước ngoài là tại Canada vào năm 1910, năm 1915 – công
xưởng thứ hai tại Australia, năm 1927 tại Anh, 1939 tại New Zealand. Những
môi trường kinh doanh khách nhau trên thị trường quốc tế đòi hỏi nhiều mẫu
mã, chủng loại cũng như hương vị mới. Trong số đó có lẽ sản phẩm thành công
nhất ở nước ngoài là kẹo cao su dạng viên tròn – loại kẹo được bán rất phổ biến
dưới nhãn hiệu “P.K”.Trong suốt chiến tranh thế giới 2 Phillip Wrigley – con trai
và sau này là chủ tịch công ty – đã dẫn dắt công ty với những bước đi mới lạ
nhằm bảo vệ danh tiếng của nhãn hiệu. Vì chiến tranh, việc cung cấp những
nguyên liệu bị chững lại, trong khi đó thì nhu cầu kẹo cao su lại tăng cao. Một
lượng lớn kẹo cao su được cung cấp cho quân đội Hoa Kỳ, từ đó kẹo cao su đã
giúp xóa tan lo âu, nâng cao cảnh giác và cải thiện tinh thần của các chiên sỹ.
Công ty sản xuất kẹo chất lượng cao với lượng khá lớn tuy nhiên vẫn không
đủ để cung cấp cho khách hàng. Do đó tốt hơn là nên thay đổi loại kẹo chất
lượng cao mà khách hàng vẫn yêu cầu. Chính vì vậy công ty đã tiến hành ngừng
cung cấp kẹo nhãn hiệu Wrigley loại Spearmint, Doublemint và Juicy Fruit cho
dân chúng. Tới năm 1944, toàn bộ kẹo sản xuất ra được xuất trực tiếp ra nước
ngoài cho Quân đội Hoa Kỳ.Đối với dân chúng, công ty tiến hành tung ra một
“nhãn hiệu thời chiên”. Một cách rất chân thực, công ty thông báo với khách
hàng rằng sản phẩm này là hoàn toàn nguyên chất, có lợi cho sức khỏe, tuy

nhiên không đủ điều kiện để tiêu chuẩn mang nhãn hiệu Wrigley.Sau đó một thời
gian những nguyên liệu chất lượng cao trở nên khan hiếm đến mức sản xuất
không thể đạt được mức lượng kẹo sản xuất trước chiến tranh không đủ để cung
cấp thậm chí cho quân đội Mỹ. Do vậy công ty đã dừng hoàn toàn việc mở rộng
chi nhánh, và đặc biệt “nhãn hiệu thời chiến” được cung cấp cho quân đội. Cũng
thời gian đó một chiến dịch quảng cáo độc nhất vô nhị đã được tiến hành và nó
đã giúp tên tuổi cũng như chất lượng của kẹo cao su Wrigley trở nên thân quen
với khách hàng, thậm chí ngay cả khi họ không thể mua được nó. Quảng cáo khá
kịch tính với hình tượng một gói bọc kẹo cao su Spearmint trống rỗng nhãn hiệu
Wrigley với câu “Hãy nhớ giấy bọc này”.Sau khi chiến tranh kết thúc việc mua
bán những nguyên liệu để dùng cho việc sản xuất kẹo chất lượng cao lại trở về
như bình thường, vì vậy tới năm 1946 Wrigley’s Spearmint đã trở lại thị trường,
sau đó là Juicy Fruit và năm 1947 là Doublemint. Mặc dù đã vắng mặt hai năm
tại Mỹ nhưng Wrigley vẫn chiếm lại thị trường một cách nhanh chóng và sau đó
hoạt động kinh doanh trở nên phát triể vượt mức trước chiến tranh. Việc tiếp
theo của công ty Wrigley là tập trung mở rộng ra kinh doanh toàn cầu.Thêm vào
những cơ sở trước đây ở Chicago, Australia, Canada, Anh và New Zealand công
ty mở them những văn phòng mua bán ở Châu Âu và Châu Á. Để đáp ứng lượng
tăng cầu sản phẩm Wrigley, nhiều nhà máy đã được mở thêm tại: Malina thuộc
Philippines (1965), Biesheim, Pháp (1967); Salzburg, Australia (1968); Nairobi,
Kenya (1971) và Taipen,Taiwan (1978). Sau đó, để đáp ứng yêu cầu thay đổi
trong kinh doanh, công ty đã tiến hành hợp nhất những công nghệ máy móc mới
hiện đại hơn thay thế cho những cái trước đây. Năm 1954 tiến hành thay đổi ở
New Zealand, năm 1958 ở Australia, năm 1963 ở Canada, năm 1971 ở Anh và ở
Đài Loan vào năm 1985. Và vào mùa xuân năm 1991 để chinh phục một thị
trường mới, công ty đã mở một nhà máy ở Quảng Châu, Trung Quốc, ở Mỹ thì
xây dựng thêm nhà máy ở Santa Cruz, Canifonia năm 1954 và Gainesville,
Georgia.

Để thay đổi sở thích của khách hàng, Wrigley đã giới thiệu kẹo cao su Freedent,
kẹo hương quế Big Red và kẹo cao su dùng thay đổi bong bong lớn Hubba Bubba
vào giữa những năm 1970. Để đáp ứng nhu cầu về sản phẩm có vị ngọt ngon
hơn, vào năm 1984 Wrigley đã cho ra đời kẹo cao su ngọt nhiều hơn dưới tên
Extra. Ngày nay những kẹo cao su nhãn hiệu Wrigley đã trở thành sản phẩm yêu
thích của hơn 100 quốc gia trên thế giới và Wrigley được coi là công ty hàng
đầu.

II.GIỚI THIỆU

Thói nghiện kẹo cao su của người Mỹ Năm 1906, Frank Henry Fleer cho ra
đời loại kẹo cao su có thể tạo ra bong bóng, gọi là Blibber-Blubber. Nhưng nó
chẳng gây được tiếng vang nào. Bóng nổ ngay sau khi ra khỏi miệng và cao su
văng dính khắp mặt. Cho đến một ngày tháng 8-1928, một công nhân của Fleer
tên Walter Diemer đã tìm ra lời giải. Sau một năm phụ trách pha chế, Diemer đã
tìm được công thức hợp chất giúp tạo ra bong bóng to và sau khi bóng nổ thì lớp

cao su dễ dàng bung ra, không dính tèm lem vào mặt. Tuy nhiên, hôm sau, mẻ
kẹo kế tiếp bị hư do Diemer không cẩn thận ghi chép trọng lượng và số lượng
các chất tạo thành hợp chất. Sau bốn tháng thí nghiệm, ông thành công.
Chewing-gum này được đặt tên Dubble Bubble. Thói nghiện kẹo cao su của
người Mỹ cuối thập niên 1930 là kết quả từ sự thiếu thốn trong Thế chiến thứ
hai. Đường cũng như tinh chất bạc hà được chia theo khẩu phần và nguồn nhựa
tự nhiên dùng làm chewing-gum nhập từ miền Viễn Đông gần như cạn kiệt. Lúc
này, lượng hàng tích trữ được tung ra với giá cắt cổ, đôi khi đến 1 USD/viên.
Một số người đã nghĩ ra cách bỏ chewing-gum nhai rồi vào ly nước với hy vọng
nó vẫn còn dẻo cho lần dùng sau. Sau Thế chiến thứ hai, công việc kinh doanh
trở nên sôi nổi, với cuộc cạnh tranh sống mái giữa Công ty Topps và J. Warren

Bowman với sản phẩm Blony (được quảng cáo: “Thanh kẹo cao su bự nhất giá
chỉ 1 xu”). Nhờ ký hợp đồng với hầu hết ngôi sao bóng chày để in tên họ lên
“danh thiếp chewing-gum”, Topps trở thành công ty số một vào năm 1955 và
một năm sau nó mua luôn Bowman. Frank Henry Fleer trở thành công ty đầu
tiên dùng dải giấy nhỏ in truyện tranh (cuốn quanh thanh kẹo), đề cao chú bé
gan dạ Pud và cậu bạn thân Rocky Roller. Năm 1953, hình ảnh Pud bị lu mờ, khi
Topps phát hành truyện tranh đầu tiên để xây dựng hình tượng chàng nhóc
Bazooka Joe. Chữ “bazooka” không lấy từ nguồn gốc một loại vũ khí mà ngẫu
nhiên xuất phát từ tên loại nhạc cụ cho âm thanh vui nhộn làm từ ống và phễu,
được sáng chế bởi diễn viên hài Bob Burns năm 1930. 1.3 Tiêu thụ kẹo cao su ở
một số nước ở Châu ÂuTheo thăm dò của hãng Wrigley, hiện hãng chiếm tới
90% thị trường kẹo cao su tại Séc, thì người dân Séc đứng thứ ba trong số các
nước Đông Âu về nhai kẹo cao su. Năm ngoái trung bình mỗi người Séc nhai hết
128 chiếc. Trong những nước thuộc khối Đông Âu cũ thì Séc chỉ đứng sau
Slovenia và Croatia.Tính về số kẹo cao su được tiêu thụ thì đứng đầu là Bắc Mỹ
và Tây Âu, nơi tiêu thụ trung bình lên tới gần 200 chiếc mỗi năm trên đầu
người.Trung bình mỗi năm người dân Slovenia nhai hết 167 chiếc kẹo cao su,
người Croatia 160 chiếc. Slovakia đứng thứ 6 trong những nước Đông Âu với

110 chiếc. Đứng cuối bảng là Litva, người dân ở đây chỉ nhai trung bình 66 chiếc
kẹo cao su mỗi năm.Trong các nước Tây Âu thì đứng đầu là Thụy Sĩ, với 186
chiếc kẹo cao su trên đầu người mỗi năm. Đứng thứ nhì là người dân Ai-len với
173 chiếc. Đứng cuối bảng trong số các nước Tây Âu là người Đức với tiêu thụ
112 chiếc mỗi năm.1.4 Thị trường kẹo cao su Việt NamViệt Nam là một trong
những thị trường phát triển sau của kẹo cao su, sau khi đã du nhập hết ở bắc
Mỹ, Châu Âu … rồi sang Châu Á. Tuy phát triển sau nhưng thị trường kẹo cao su
Việt Nam cũng như Trung Quốc và các nước ở trong khu vực, luôn tỏ ra rất có
tiềm năng. Hàng loạt các sản phẩm mới của các hãng được tung ra ở đây nhằm
tranh giành thị phần. Tuy nhiên, là một thị trường phát triển sau và thường bị

chi phối bởi các kênh phân phối địa phương cho nên các chiến dịch Quảng bá
sản phẩm, hậu mãi khách hàng chưa thể làm tốt được như Châu Âu và Bắc Mỹ.
Ở đây chưa được đầu tư mạnh về các cơ sở, nhà máy sản xuất địa phương cũng
như chi nhánh quản lý của các hãng. Chỉ có một số ít các thương hiệu hoặc dòng
sản phẩm đã giành được thị phần lớn nhất ở Việt Nam, không ít các sản phẩm
mới tung ra được một thời gian đã thất bại, nhanh chóng bị người tiêu dùng
quên lãng.
Lý do cơ bản là vì cầu ở thị trường Việt Nam nói riêng và khu vực nói chung
tuy đang phát triển mạnh nhưng không thể bằng được các thị trường đã phát
triển trước đó. Ở đây, trong quân đội không có thói quen và cũng không được có
thói quen nhai kẹo cao su tóp tép như quân đội Mỹ hay các nước Châu Âu …
Trong khi ở Bắc Mỹ và Châu Âu, nguồn tiêu thụ kẹo cao su rất lớn là bán cho
quân đội.Ngoài ra người dân Việt Nam tiếp xúc và sử dụng kẹo cao su hầu hết là
ở độ tuổi thanh thiếu niên trở xuống. Một phần rất ít những người lớn tuổi có
thói quen và sử dụng các tính năng bảo vệ sức khỏe răng miệng của kẹo cao su
như Extra. Thanh thiếu niên Việt Nam cũng như khu vực, khác phương Tây ở
nền văn hóa. Nền văn hóa phương Đông vốn rất hay kỵ hoặc chậm chạp du nhập
các văn hóa phương Tây vào.Kinh tế xã hội Việt Nam đang trên đà phát triển,
nhưng so về nhịp độ thì còn thua xa các nước phát triển. Ở các nước phát triển,
người ta đi lại nhiều, công việc bận rộn và căng thẳng thì kẹo cao su cũng là một
trong những lựa chọn không tồi để giúp giảm bớt căng thẳng, xả stress hay giải
trí trong lúc nghỉ ngơi. Được biết ở các nước phát triển, kẹo cao su được tiêu thụ

khá nhiều tại những trạm xe bus, tàu điện ngầm hay những nơi công cộng đông
người qua lại, phải chờ đợi lâu …So với thế giới thì thị trường kẹo cao su ở Việt
Nam đang ở dạng tiềm năng và cần có sự đầu tư, tác động nhiều phía vào người
tiêu dùng để nó được phát triển mạnh mẽSau một năm phụ trách pha chế,
Diemer đã tìm được công thức hợp chất giúp tạo ra bong bóng to và sau khi
bóng nổ thì lớp cao su dễ dàng bung ra, không dính tèm lem vào mặt. Tuy nhiên,

hôm sau, mẻ kẹo kế tiếp bị hư do Diemer không cẩn thận ghi chép trọng lượng
và số lượng các chất tạo thành hợp chất. Sau bốn tháng thí nghiệm, ông thành
công. Chewing-gum này được đặt tên Dubble Bubble.
Thói nghiện kẹo cao su của người Mỹ:cuối thập niên 1930 là kết quả từ sự
thiếu thốn trong Thế chiến thứ hai. Đường cũng như tinh chất bạc hà được chia
theo khẩu phần và nguồn nhựa tự nhiên dùng làm chewing-gum nhập từ miền
Viễn Đông gần như cạn kiệt. Lúc này, lượng hàng tích trữ được tung ra với giá
cắt cổ, đôi khi đến 1 USD/viên. Một số người đã nghĩ ra cách bỏ chewing-gum
nhai rồi vào ly nước với hy vọng nó vẫn còn dẻo cho lần dùng sau.
Sau Thế chiến thứ hai, công việc kinh doanh trở nên sôi nổi, với cuộc cạnh
tranh sống mái giữa Công ty Topps và J. Warren Bowman với sản phẩm Blony
(được quảng cáo: “Thanh kẹo cao su bự nhất giá chỉ 1 xu”).
Nhờ ký hợp đồng với hầu hết ngôi sao bóng chày để in tên họ lên “danh thiếp
chewing-gum”, Topps trở thành công ty số một vào năm 1955 và một năm sau
nó mua luôn Bowman. Frank Henry Fleer trở thành công ty đầu tiên dùng dải
giấy nhỏ in truyện tranh (cuốn quanh thanh kẹo), đề cao chú bé gan dạ Pud và
cậu bạn thân Rocky Roller. Năm 1953, hình ảnh Pud bị lu mờ, khi Topps phát
hành truyện tranh đầu tiên để xây dựng hình tượng chàng nhóc Bazooka Joe.
Chữ “bazooka” không lấy từ nguồn gốc một loại vũ khí mà ngẫu nhiên xuất phát
từ tên loại nhạc cụ cho âm thanh vui nhộn làm từ ống và phễu, được sáng chế
bởi diễn viên hài Bob Burns năm 1930.
1.1 .thói nghiện kẹo cao su của người mỹ
Năm 1906, Frank Henry Fleer cho ra đời loại kẹo cao su có thể tạo ra bong
bóng, gọi là Blibber-Blubber. Nhưng nó chẳng gây được tiếng vang nào. Bóng nổ
ngay sau khi ra khỏi miệng và cao su văng dính khắp mặt. Cho đến một ngày
tháng 8-1928, một công nhân của Fleer tên Walter Diemer đã tìm ra lời giải. Sau
một năm phụ trách pha chế, Diemer đã tìm được công thức hợp chất giúp tạo ra
bong bóng to và sau khi bóng nổ thì lớp cao su dễ dàng bung ra, không dính tèm
lem vào mặt. Tuy nhiên, hôm sau, mẻ kẹo kế tiếp bị hư do Diemer không cẩn

thận ghi chép trọng lượng và số lượng các chất tạo thành hợp chất. Sau bốn
tháng thí nghiệm, ông thành công. Chewing-gum này được đặt tên Dubble
Bubble. Thói nghiện kẹo cao su của người Mỹ cuối thập niên 1930 là kết quả từ
sự thiếu thốn trong Thế chiến thứ hai. Đường cũng như tinh chất bạc hà được
chia theo khẩu phần và nguồn nhựa tự nhiên dùng làm chewing-gum nhập từ
miền Viễn Đông gần như cạn kiệt. Lúc này, lượng hàng tích trữ được tung ra với
giá cắt cổ, đôi khi đến 1 USD/viên. Một số người đã nghĩ ra cách bỏ chewinggum nhai rồi vào ly nước với hy vọng nó vẫn còn dẻo cho lần dùng sau. Sau Thế
chiến thứ hai, công việc kinh doanh trở nên sôi nổi, với cuộc cạnh tranh sống
mái giữa Công ty Topps và J. Warren Bowman với sản phẩm Blony (được quảng
cáo: “Thanh kẹo cao su bự nhất giá chỉ 1 xu”). Nhờ ký hợp đồng với hầu hết ngôi
sao bóng chày để in tên họ lên “danh thiếp chewing-gum”, Topps trở thành công
ty số một vào năm 1955 và một năm sau nó mua luôn Bowman. Frank Henry
Fleer trở thành công ty đầu tiên dùng dải giấy nhỏ in truyện tranh (cuốn quanh
thanh kẹo), đề cao chú bé gan dạ Pud và cậu bạn thân Rocky Roller. Năm 1953,
hình ảnh Pud bị lu mờ, khi Topps phát hành truyện tranh đầu tiên để xây dựng
hình tượng chàng nhóc Bazooka Joe. Chữ “bazooka” không lấy từ nguồn gốc một
loại vũ khí mà ngẫu nhiên xuất phát
từ tên loại nhạc cụ cho âm thanh vui nhộn làm từ ống và phễu, được sáng chế
bởi diễn viên hài Bob Burns năm 1930.
1.2

Tiêu thụ kẹo cao su ở một số nước ở Châu Âu
Theo thăm dò của hãng Wrigley, hiện hãng chiếm tới 90% thị trường kẹo cao su
tại Séc, thì người dân Séc đứng thứ ba trong số các nước Đông Âu về nhai kẹo
cao su. Năm ngoái trung bình mỗi người Séc nhai hết 128 chiếc. Trong những
nước thuộc khối Đông Âu cũ thì Séc chỉ đứng sau Slovenia và Croatia.
Tính về số kẹo cao su được tiêu thụ thì đứng đầu là Bắc Mỹ và Tây Âu, nơi
tiêu thụ trung bình lên tới gần 200 chiếc mỗi năm trên đầu người.Trung bình
mỗi năm người dân Slovenia nhai hết 167 chiếc kẹo cao su, người Croatia 160

chiếc. Slovakia đứng thứ 6 trong những nước Đông Âu với 110 chiếc. Đứng cuối
bảng là Litva, người dân ở đây chỉ nhai trung bình 66 chiếc kẹo cao su mỗi năm.
Trong các nước Tây Âu thì đứng đầu là Thụy Sĩ, với 186 chiếc kẹo cao su trên
đầu người mỗi năm. Đứng thứ nhì là người dân Ai-len với 173 chiếc. Đứng cuối
bảng trong số các nước Tây Âu là người Đức với tiêu thụ 112 chiếc mỗi năm.
1.3 Thị trường kẹo cao su Việt Nam

Việt Nam là một trong những thị trường phát triển sau của kẹo cao su, sau khi
đã du nhập hết ở bắc Mỹ, Châu Âu … rồi sang Châu Á. Tuy phát triển sau nhưng
thị trường kẹo cao su Việt Nam cũng như Trung Quốc và các nước ở trong khu
vực, luôn tỏ ra rất có tiềm năng. Hàng loạt các sản phẩm mới của các hãng được
tung ra ở đây nhằm tranh giành thị phần. Tuy nhiên, là một thị trường phát
triển sau và thường bị chi phối bởi các kênh phân phối địa phương cho nên các
chiến dịch Quảng bá sản phẩm, hậu mãi khách hàng chưa thể làm tốt được như
Châu Âu và Bắc Mỹ. Ở đây chưa được đầu tư mạnh về các cơ sở, nhà máy sản
xuất địa phương cũng như chi nhánh quản lý của các hãng. Chỉ có một số ít các
thương hiệu hoặc dòng sản phẩm đã giành được thị phần lớn nhất ở Việt Nam,
không ít các sản phẩm mới tung ra được một thời gian đã thất bại, nhanh chóng
bị người tiêu dùng quên lãng.
Lý do cơ bản là vì cầu ở thị trường Việt Nam nói riêng và khu vực nói chung
tuy đang phát triển mạnh nhưng không thể bằng được các thị trường đã phát
triển trước đó. Ở đây, trong quân đội không có thói quen và cũng không được có
thói quen nhai kẹo cao su tóp tép như quân đội Mỹ hay các nước Châu Âu …
Trong khi ở Bắc Mỹ và Châu Âu, nguồn tiêu thụ kẹo cao su rất lớn là bán cho
quân đội.
Ngoài ra người dân Việt Nam tiếp xúc và sử dụng kẹo cao su hầu hết là ở độ
tuổi thanh thiếu niên trở xuống. Một phần rất ít những người lớn tuổi có thói
quen và sử dụng các tính năng bảo vệ sức khỏe răng miệng của kẹo cao su như
Extra. Thanh thiếu niên Việt Nam cũng như khu vực, khác phương Tây ở nền

văn hóa. Nền văn hóa phương Đông vốn rất hay kỵ hoặc chậm chạp du nhập các
văn hóa phương Tây vào.
Kinh tế xã hội Việt Nam đang trên đà phát triển, nhưng so về nhịp độ thì còn
thua xa các nước phát triển. Ở các nước phát triển, người ta đi lại nhiều, công
việc bận rộn và căng thẳng thì kẹo cao su cũng là một trong những lựa chọn
không tồi để giúp giảm bớt căng thẳng, xả stress hay giải trí trong lúc nghỉ ngơi.
Được biết ở các nước phát triển, kẹo cao su được tiêu thụ khá nhiều tại những
trạm xe bus, tàu điện ngầm hay những nơi công cộng đông người qua lại, phải
chờ đợi lâu …So với thế giới thì thị trường kẹo cao su ở Việt Nam đang ở dạng
tiềm năng và cần có sự đầu tư, tác động nhiều phía vào người tiêu dùng để nó
được phát triển mạnh mẽ
Cách thức để các sản phẩm kẹo cao su ở Việt Nam tiếp cận với người tiêu dùng
chủ yếu là qua Quảng Cáo trên truyền hình. Ngoài ra cũng có những chiến lược

khác nhưng hầu hết chưa thực sự có những chiến lược rầm rộ, và mạnh mẽ như
ở nước ngoài, hoặc như các sản phẩm ở lĩnh vực khác trong nước (mạng viễn
thông, nước giải khát). Đã có những sản phẩm đã đi sâu vào khác hàng từ lâu và
gặt hái được thành công, cũng có những loại nhanh chóng bị quên lãng, mặc dù
chất lượng rất tốt.
Thói nghiện kẹo cao su của người MỹNăm 1906, Frank Henry Fleer cho ra đời
loại kẹo cao su có thể tạo ra bong bóng, gọi là Blibber-Blubber. Nhưng nó chẳng
gây được tiếng vang nào. Bóng nổ ngay sau khi ra khỏi miệng và cao su văng
dính khắp mặt. Cho đến một ngày tháng 8-1928, một công nhân của Fleer tên
Walter Diemer đã tìm ra lời giải. Sau một năm phụ trách pha chế, Diemer đã tìm
được công thức hợp chất giúp tạo ra bong bóng to và sau khi bóng nổ thì lớp
cao su dễ dàng bung ra, không dính tèm lem vào mặt. Tuy nhiên, hôm sau, mẻ
kẹo kế tiếp bị hư do Diemer không cẩn thận ghi chép trọng lượng và số lượng
các chất tạo thành hợp chất. Sau bốn tháng thí nghiệm, ông thành công.
Chewing-gum này được đặt tên Dubble Bubble. Thói nghiện kẹo cao su của

người Mỹ cuối thập niên 1930 là kết quả từ sự thiếu thốn trong Thế chiến thứ
hai. Đường cũng như tinh chất bạc hà được chia theo khẩu phần và nguồn nhựa
tự nhiên dùng làm chewing-gum nhập từ miền Viễn Đông gần như cạn kiệt. Lúc
này, lượng hàng tích trữ được tung ra với giá cắt cổ, đôi khi đến 1 USD/viên.
Một số người đã nghĩ ra cách bỏ chewing-gum nhai rồi vào ly nước với hy vọng
nó vẫn còn dẻo cho lần dùng sau. Sau Thế chiến thứ hai, công việc kinh doanh
trở nên sôi nổi, với cuộc cạnh tranh sống mái giữa Công ty Topps và J. Warren
Bowman với sản phẩm Blony (được quảng cáo: “Thanh kẹo cao su bự nhất giá
chỉ 1 xu”). Nhờ ký hợp đồng với hầu hết ngôi sao bóng chày để in tên họ lên
“danh thiếp chewing-gum”, Topps trở thành công ty số một vào năm 1955 và
một năm sau nó mua luôn Bowman. Frank Henry Fleer trở thành công ty đầu
tiên dùng dải giấy nhỏ in truyện tranh (cuốn quanh thanh kẹo), đề cao chú bé
gan dạ Pud và cậu bạn thân Rocky Roller. Năm 1953, hình ảnh Pud bị lu mờ, khi
Topps phát hành truyện tranh đầu tiên để xây dựng hình tượng chàng nhóc
Bazooka Joe. Chữ “bazooka” không lấy từ nguồn gốc một loại vũ khí mà ngẫu
nhiên xuất phát từ tên loại nhạc cụ cho âm thanh vui nhộn làm từ ống và phễu,
được sáng chế bởi diễn viên hài Bob Burns năm 1930. 1.3 Tiêu thụ kẹo cao su ở
một số nước ở Châu ÂuTheo thăm dò của hãng Wrigley, hiện hãng chiếm tới
90% thị trường kẹo cao su tại Séc, thì người dân Séc đứng thứ ba trong số các
nước Đông Âu về nhai kẹo cao su. Năm ngoái trung bình mỗi người Séc nhai hết
128 chiếc. Trong những nước thuộc khối Đông Âu cũ thì Séc chỉ đứng sau
Slovenia và Croatia.Tính về số kẹo cao su được tiêu thụ thì đứng đầu là Bắc Mỹ
và Tây Âu, nơi tiêu thụ trung bình lên tới gần 200 chiếc mỗi năm trên đầu

người.Trung bình mỗi năm người dân Slovenia nhai hết 167 chiếc kẹo cao su,
người Croatia 160 chiếc. Slovakia đứng thứ 6 trong những nước Đông Âu với
110 chiếc. Đứng cuối bảng là Litva, người dân ở đây chỉ nhai trung bình 66 chiếc
kẹo cao su mỗi năm.Trong các nước Tây Âu thì đứng đầu là Thụy Sĩ, với 186
chiếc kẹo cao su trên đầu người mỗi năm. Đứng thứ nhì là người dân Ai-len với

173 chiếc. Đứng cuối bảng trong số các nước Tây Âu là người Đức với tiêu thụ
112 chiếc mỗi năm.1.4 Thị trường kẹo cao su Việt NamViệt Nam là một trong
những thị trường phát triển sau của kẹo cao su, sau khi đã du nhập hết ở bắc
Mỹ, Châu Âu … rồi sang Châu Á. Tuy phát triển sau nhưng thị trường kẹo cao su
Việt Nam cũng như Trung Quốc và các nước ở trong khu vực, luôn tỏ ra rất có
tiềm năng. Hàng loạt các sản phẩm mới của các hãng được tung ra ở đây nhằm
tranh giành thị phần. Tuy nhiên, là một thị trường phát triển sau và thường bị
chi phối bởi các kênh phân phối địa phương cho nên các chiến dịch Quảng bá
sản phẩm, hậu mãi khách hàng chưa thể làm tốt được như Châu Âu và Bắc Mỹ.
Ở đây chưa được đầu tư mạnh về các cơ sở, nhà máy sản xuất địa phương cũng
như chi nhánh quản lý của các hãng. Chỉ có một số ít các thương hiệu hoặc dòng
sản phẩm đã giành được thị phần lớn nhất ở Việt Nam, không ít các sản phẩm
mới tung ra được một thời gian đã thất bại, nhanh chóng bị người tiêu dùng
quên lãng.
Lý do cơ bản là vì cầu ở thị trường Việt Nam nói riêng và khu vực nói chung
tuy đang phát triển mạnh nhưng không thể bằng được các thị trường đã phát
triển trước đó. Ở đây, trong quân đội không có thói quen và cũng không được có
thói quen nhai kẹo cao su tóp tép như quân đội Mỹ hay các nước Châu Âu …
Trong khi ở Bắc Mỹ và Châu Âu, nguồn tiêu thụ kẹo cao su rất lớn là bán cho
quân đội.Ngoài ra người dân Việt Nam tiếp xúc và sử dụng kẹo cao su hầu hết là
ở độ tuổi thanh thiếu niên trở xuống. Một phần rất ít những người lớn tuổi có
thói quen và sử dụng các tính năng bảo vệ sức khỏe răng miệng của kẹo cao su
như Extra. Thanh thiếu niên Việt Nam cũng như khu vực, khác phương Tây ở
nền văn hóa. Nền văn hóa phương Đông vốn rất hay kỵ hoặc chậm chạp du nhập
các văn hóa phương Tây vào.Kinh tế xã hội Việt Nam đang trên đà phát triển,
nhưng so về nhịp độ thì còn thua xa các nước phát triển. Ở các nước phát triển,
người ta đi lại nhiều, công việc bận rộn và căng thẳng thì kẹo cao su cũng là một
trong những lựa chọn không tồi để giúp giảm bớt căng thẳng, xả stress hay giải
trí trong lúc nghỉ ngơi. Được biết ở các nước phát triển, kẹo cao su được tiêu thụ
khá nhiều tại những trạm xe bus, tàu điện ngầm hay những nơi công cộng đông

người qua lại, phải chờ đợi lâu …So với thế giới thì thị trường kẹo cao su ở Việt

Nam đang ở dạng tiềm năng và cần có sự đầu tư, tác động nhiều phía vào người
tiêu dùng để nó được phát triển mạnh mẽ
I. PLACE
1.3. Tiêu thụ kẹo cao su ở một số nước ở Châu Âu
Theo thăm dò của hãng Wrigley, hiện hãng chiếm tới 90% thị trường kẹo
cao su tại Séc, thì người dân Séc đứng thứ ba trong số các nước Đông Âu về nhai
kẹo cao su. Năm ngoái trung bình mỗi người Séc nhai hết 128 chiếc. Trong
những nước thuộc khối Đông Âu cũ thì Séc chỉ đứng sau Slovenia và
Croatia.Tính về số kẹo cao su được tiêu thụ thì đứng đầu là Bắc Mỹ và Tây Âu,
nơi tiêu thụ trung bình lên tới gần 200 chiếc mỗi năm trên đầu người.Trung
bình mỗi năm người dân Slovenia nhai hết 167 chiếc kẹo cao su, người Croatia
160 chiếc. Slovakia đứng thứ 6 trong những nước Đông Âu với 110 chiếc. Đứng
cuối bảng là Litva, người dân ở đây chỉ nhai trung bình 66 chiếc kẹo cao su mỗi
năm.Trong các nước Tây Âu thì đứng đầu là Thụy Sĩ, với 186 chiếc kẹo cao su
trên đầu người mỗi năm. Đứng thứ nhì là người dân Ai-len với 173 chiếc. Đứng
cuối bảng trong số các nước Tây Âu là người Đức với tiêu thụ 112 chiếc mỗi
năm.
1.4.Thị trường kẹo cao su Việt Nam .
Việt Nam là một trong những thị trường phát triển sau của kẹo cao su, sau
khi đã du nhập hết ở bắc Mỹ, Châu Âu … rồi sang Châu Á. Tuy phát triển sau
nhưng thị trường kẹo cao su Việt Nam cũng như Trung Quốc và các nước ở
trong khu vực, luôn tỏ ra rất có tiềm năng. Hàng loạt các sản phẩm mới của các
hãng được tung ra ở đây nhằm tranh giành thị phần. Tuy nhiên, là một thị
trường phát triển sau và thường bị chi phối bởi các kênh phân phối địa phương
cho nên các chiến dịch Quảng bá sản phẩm, hậu mãi khách hàng chưa thể làm
tốt được như Châu Âu và Bắc Mỹ. Ở đây chưa được đầu tư mạnh về các cơ sở,
nhà máy sản xuất địa phương cũng như chi nhánh quản lý của các hãng. Chỉ có

một số ít các thương hiệu hoặc dòng sản phẩm đã giành được thị phần lớn nhất
ở Việt Nam, không ít các sản phẩm mới tung ra được một thời gian đã thất bại,
nhanh chóng bị người tiêu dùng quên lãng.
Lý do cơ bản là vì cầu ở thị trường Việt Nam nói riêng và khu vực nói chung
tuy đang phát triển mạnh nhưng không thể bằng được các thị trường đã phát
triển trước đó. Ở đây, trong quân đội không có thói quen và cũng không được có
thói quen nhai kẹo cao su tóp tép như quân đội Mỹ hay các nước Châu Âu …

Trong khi ở Bắc Mỹ và Châu Âu, nguồn tiêu thụ kẹo cao su rất lớn là bán cho
quân đội.Ngoài ra người dân Việt Nam tiếp xúc và sử dụng kẹo cao su hầu hết là
ở độ tuổi thanh thiếu niên trở xuống. Một phần rất ít những người lớn tuổi có
thói quen và sử dụng các tính năng bảo vệ sức khỏe răng miệng của kẹo cao su
như Extra. Thanh thiếu niên Việt Nam cũng như khu vực, khác phương Tây ở
nền văn hóa. Nền văn hóa phương Đông vốn rất hay kỵ hoặc chậm chạp du nhập
các văn hóa phương Tây vào.Kinh tế xã hội Việt Nam đang trên đà phát triển,
nhưng so về nhịp độ thì còn thua xa các nước phát triển. Ở các nước phát triển,
người ta đi lại nhiều, công việc bận rộn và căng thẳng thì kẹo cao su cũng là một
trong những lựa chọn không tồi để giúp giảm bớt căng thẳng, xả stress hay giải
trí trong lúc nghỉ ngơi. Được biết ở các nước phát triển, kẹo cao su được tiêu thụ
khá nhiều tại những trạm xe bus, tàu điện ngầm hay những nơi công cộng đông
người qua lại, phải chờ đợi lâu …So với thế giới thì thị trường kẹo cao su ở Việt
Nam đang ở dạng tiềm năng và cần có sự đầu tư, tác động nhiều phía vào người
tiêu dùng để nó được phát triển mạnh mẽ.
II. PRODUCT
Kẹo cao su không chỉ làm từ cao su
Con người đã biết thưởng thức kẹo cao su từ rất lâu. Một mẩu kẹo cao su 5.000
năm tuổi đã được Sarah Pickin, một sinh viên khảo cổ học Trường Đại học Derby
tìm thấy ở phía tây Phần Lan. Các nhà khoa học cho biết mẩu kẹo cao su này có
chứa chất khử trùng. Thầy của Pickin, giáo sư Trevor Brown cho biết: “Điều này

đặc biệt có ý nghĩa bởi các dấu vết răng của người cổ đại còn in hằn rõ trên mẩu
kẹo cao su được tìm thấy. Nó chính là nhựa vỏ cây bulô có chứa chất phenol, một
loại chất khử trùng”. Không chỉ để giết thời gian, những người thuộc thời kỳ đồ
đá mới đã biết nhai kẹo cao su có chất khử trùng để chữa bệnh nhiễm trùng
răng lợi.

Người Hy Lạp cổ đại từng có thói quen nhai một chất gọi là mastic (hoặc
mastiche), loại nhựa chiết từ loại cây có quả hình nón như thông hoặc vân sam.
Người Maya thì nhai loại nhựa lấy từ cây hồng xiêm, được chế biến cho dẻo hơn.
Còn các loại kẹo cao su hiện đại có từ những năm 1860, khi chất chicle dùng làm
kẹo cao su ra đời. Chicle ban đầu được nhập khẩu từ Mexico, được lấy từ cây
thường xanh Manilkara chicle, theo cách giống như lấy nhựa từ cây cao su. Kẹo
cao su chicle được ưa chuộng hơn so với kẹo cao su làm từ nhựa thông, bởi nó
mềm, mịn và giữ mùi vị lâu hơn.

Ngày nay, vì lý do kinh tế và chất lượng nên kẹo cao su thường làm từ cao su
tổng hợp, các hợp chất có tính đàn hồi, gum có trọng lượng phân tử cao…
Quy trình làm kẹo cao su

Tán nhỏ chất gum nền: chất gum nền thiên nhiên làm từ nhựa của các loại cây
như chicle (một loại cây thuộc giống hồng xiêm), jelutong, gutta-percha, thông…
Ngoài ra còn có các loại sáp parafin, sáp ong. Nếu sử dụng chất gum nền từ tự
nhiên thì hợp chất này phải qua một số xét nghiệm kiểm tra tạp chất trước khi
sử dụng. Hiện nay, kẹo cao su chỉ sử dụng một lượng tối thiểu hoặc hoàn toàn
không sử dụng cao su thiên nhiên mà thay thế bởi cao su tổng hợp như
butadien-styrene, polyethylene, và polyvinyl acetate. Chất gum nền tổng hợp này
cho phép kẹo cao su giữ được hương vị lâu hơn, kết cấu được cải thiện và độ
bám dính giảm. Chất gum nền ban đầu thường có dạng khối rắn lớn do đó phải
tán

thành
những
mảnh
nhỏ
hơn
trước
khi
sử
dụng.
Nấu chảy chất gum nền: đun nóng chất gum nền tới 900C - 1200C để tan chảy
thành dạng sệt. Máy nấu chất gum nền thường được làm nóng bằng hơi nước.
Phối trộn: sau khi nấu chảy, chất gum nền được lọc qua máy lọc và thêm vào
chất làm ngọt tự nhiên hoặc nhân tạo như đường xay nhuyễn, maltose, chất làm
mềm như như glycerine, chất làm đầy (để tạo nên khối lượng riêng mong
muốn), hương liệu như bạc hà hoặc quế, chất tạo màu, chất bảo quản... Sau đó
hỗn hợp này được trộn trong khoảng 20 - 25 phút ở nhiệt độ 50 - 700C để tránh
hiện tượng kết tụ gum.

Tạo hình: sau khi trộn, hỗn hợp được đưa vào máy ép đùn và máy lăn để tạo
thành các dải kẹo cao su có kích thước mong muốn. Một lớp mỏng đường hoặc

chất thay thế đường được phủ lên dây kẹo cao su trong quá trình này để giữ cho
kẹo cao su không bị dính và tăng hương vị.
Ổn định và bao gói: các dải kẹo cao su được lưu trữ khoảng một ngày nơi
thông gió với nhiệt độ từ 20 - 220C và độ ẩm khoảng 50% để làm mát và đảm
bảo kẹo ổn định về cấu trúc và mùi vị khi đưa ra thị trường. Sau đó, các dải kẹo
này được cắt thành thanh dài hoặc chữ nhật tùy thuộc loại kẹo cao su và đưa
sang máy bao gói. Những sản phẩm không đáp ứng tiêu chuẩn sẽ được đưa đến
máy nghiền để tái chế.

Viên kẹo nhỏ nhưng có rất nhiều nghiên cứu.
Theo dữ liệu sáng chế (SC) tiếp cận được có đến 12.757 SC liên quan đến sản
xuất kẹo cao su trên toàn thế giới. Các SC có xu hướng tăng dần từ năm 1975
đến năm 2009. Số lượng SC được đăng ký nhiều nhất vào năm 2009 với 718 SC,
sau đó giảm mạnh và trong năm 2012 chỉ có 11 SC về kẹo cao su. Hầu hết các SC
đăng ký về kẹo cao su được xếp vào lĩnh vực thực phẩm (62%). Ngoài ra, SC
dùng trong y tế để chăm sóc răng miệng hoặc cai thuốc lá… chiếm 28%. Các lĩnh
vực còn lại chiếm tỉ trọng không cao.

Ngay các nhãn hàng kẹo đã thành danh trên thế giới cũng luôn có những nghiên
cứu và cho ra đời sản phẩm mới. Ví dụ như kẹo cao su Stride, thay đổi hương vị
từ hoa quả sang bạc hà để hấp dẫn người lớn. Kẹo Trident kết hợp nhiều hương
vị trái cây trong một viên kẹo, chẳng hạn như dâu tây và cam quýt, hoặc có thêm
vitamin C trong kẹo. Một số kẹo cao su của các hãng Nhật Bản còn bổ sung
collagen và thêm hương vị lạ hơn như lựu. Công ty BASF của Đức, sản xuất kẹo
có chứa một loại vi khuẩn lactobacillus, bảo vệ răng. Liên minh hợp tác xã
Consorcio Chiclero sản xuất loại kẹo cao su mới không bám dính vào quần áo, dễ
dàng loại bỏ và phân hủy tự nhiên trong môi trường. Về hình dáng, kích thước
và bao bì được sản xuất rất đa dạng. Kẹo Orbit đổi mới hình ảnh thông qua tài
trợ cho dự án điều trị ung thư vú với hình dải băng màu hồng trên bao bì…Các
thương hiệu nổi tiếng còn tập trung phát triển dòng sản phẩm kẹo cao su không
đường nhằm giảm phát triển mảng bám trên răng hay kẹo dành riêng cho
những người đang cố gắng bỏ thuốc lá.

Hiện nay, công ty nắm giữ nhiều SC nhất trong lĩnh vực kẹo cao su là Wrigley
với 1.884 SC, gấp đôi công ty đứng thứ hai là Warner Lambert và gấp hơn 4 lần
công ty đứng thứ ba là Cadbury.

Kẹo cao su: cạnh tranh gay gắt trên thị trường đã bão hòa
Kẹo cao su đã phát triển nhanh chóng trong thập kỷ qua, với doanh số bán
hàng toàn cầu tăng 37% kể từ năm 2001, theo Euromonitor. Tổng doanh thu từ
kẹo cao su đạt 24 tỉ USD trong năm 2010. Tuy nhiên, doanh số này không tăng
nhiều trong thời gian gần đây do thị trường đã có xu hướng bão hòa. Để thay
đổi điều này, các nhà sản xuất kẹo cao su đã đưa ra rất nhiều đổi mới thú vị cho
sản phẩm của mình. Để mở rộng thị trường, nhiều công ty có xu hướng tiến đến
các thị trường mới như Mexico Nhật Bản, Brazil, Trung Quốc, Việt Nam…Các vụ
sáp nhập các công ty cũng được thực hiện để giảm các đối thủ cạnh tranh. Ngoài
ra, các nhà sản xuất còn tăng cường quảng cáo. Được biết, doanh số kẹo cao su
tăng 30% khi lệnh cấm hút thuốc lá được ban hành ở Ireland vào năm 2004.
Hiện tại, công ty Wrigley, Mỹ đang dẫn đầu thị trường kẹo cao su trên toàn cầu
cả về thị phần lẫn số lượng các SC, các loại kẹo như Double Mint, Juicy Fruit,
Extra… của Wrigley rất phổ biến. Tại Việt Nam, các loại kẹo cao su trên thị
trường thường có nguồn gốc từ các công ty nước ngoài như Wrigley, Lotte,
Perfetti Van Melle…