Nói lái (còn gọi là nói trại) là một cách nói kiểu chơi chữ trong nhiều ngôn ngữ. Đối với từng vùng miền khác nhau thì do cách nói của tiếng địa phương nên tiếng nói lái sẽ có thay đổi một chút. Show
Nói lái được coi là ít nghiêm trang, có tính cách bông đùa, mỉa mai hoặc châm biếm, một số dùng để diễn tả sự thô tục một cách kín đáo.[1] Cách thức[sửa | sửa mã nguồn]Có nhiều cách nói lái: Cách 1: Đổi âm sau, giữ chữ đầu và thanh. Ví dụ: mèo cái → mài kéo, cối đá → cá đối, hai tư → hư tai, đơn giản → đang giỡn (đối với miền Nam), trời cho → trò chơi, đại học → độc hại (đối với miền Nam), vô hàng → giang hồ (đối với miền Nam), mau co → mo cau, hiện đại → hại điện, đánh trâu → đấu tranh Cách 2: Đổi toàn bộ, trước ra sau, nhưng giữ thanh. Ví dụ: đầu tiên → tiền đâu, từ đâu → đầu tư, đấu tranh → tránh đâu... Cách 3: Đổi dấu thanh điệu (kiểu lái Bắc). Ví dụ: Thụy Điển → thủy điện, bí mật → bị mất, mộng năng → nặng mông, giải phóng → phỏng giái. Cách 4: Đổi phụ âm đầu. Ví dụ: cao đẳng → đau cẳng (đối với miền Nam), giải pháp → phải giáp . Cách 5: Đổi âm sau và thanh sau, giữ phụ âm đầu. Ví dụ: bí mật → bật mí, một cái → mái cột, mèo cái → mái kèo, trâu đực → trực đâu, trâu cái → trái cau (đối với miền Nam), mắc cười → mười cắc, tánh mạng → táng mạnh, hổ chết → hết chỗ. Lưu ý: Không phải từ nào cũng có thể nói lái được. Những từ láy toàn bộ, hai từ lặp lại hoàn toàn, từ có chung dấu thanh và âm đầu, dấu thanh và vần, âm đầu và vần đều không nói lái được.Ví dụ: luôn luôn, mãi mãi, đi đâu (có chung phụ âm đầu và dấu thanh). Đại đa số là lái đôi (hai tiếng), nhưng cũng có lái ba. Ví dụ: Muốn cầu gia đạo thì phải cạo da đầu, "Mộng dưới hoa" (ca khúc) thành… họa dưới mông[2], chà đồ nhôm → chôm đồ nhà[2], ban lãnh đạo → bao lãnh đạn, chả lo gì → chỉ lo già, chả sợ chi → chỉ sợ cha, có chỗ đứng → cứng chỗ đó, Hương qua đèo → heo qua đường. Các câu nói lái phổ thông, giai thoại về nói lái[sửa | sửa mã nguồn]Nói lái trong dân gian[sửa | sửa mã nguồn]Ca dao[sửa | sửa mã nguồn]Con cá đối bỏ trong cối đá, Con mèo cái nằm trên mái kèo, Trách cha mẹ em nghèo, anh nỡ phụ duyên em Câu đố[sửa | sửa mã nguồn]Những câu đố sử dụng nói lái không khó giải vì thường lời giải đã có sẵn - Khoan mũi, khoan lái, khoan khứ, khoan lai Bò la, bò liệt đố ai biết gì? - (đáp: khoai lang). - Con gì ở cạnh bờ sông, Cái mui thì nát cái cong thì còn - (đáp: con còng - cong còn nói lái thành con còng) - Cái gì bằng ngón chưn cái mà chai cứng - (đáp: ngón chưn cái) - Miệng bà ký lớn, bà ký banh Tay ông cai dài, ông cai khoanh - (đáp: canh bí, canh khoai) - Ông cố ngoài Huế ông cố ai. (đáp: cái ô) - Ông đánh cái chen, bà bảo đừng. (đáp: cái chưn đèn - chen đừng).[3] - Lăng quằng lịt quỵt... lăng quằng trứng là cái gì ?-> (lưng quần trắng) - Lăng quằng lịt quỵt... lăng quằng rừn là cái gì?-> (lưng quần rằn) - Ở đâu có phố Trần Dư? Đáp rằng là phố trừ dân, chỉ dành cho quan phụ mẫu, nơi nào chẳng có. - Nước ta là cường quốc thi ca, nên khắp nơi từ Bắc vào Nam thảy đều có đường Thi Phú (thu phí)[2] Chơi chữ cho líu lưỡi[sửa | sửa mã nguồn]Đếm thật nhanh những câu sau sẽ làm líu lưỡi và nói lái xảy ra -Một con cá đối nằm trên cối đá, Hai con cá đối nằm trên cối đá, Ba con... -Một thầy giáo tháo giày, Hai thầy giáo tháo giày, Ba thầy giáo... Câu đối, hò vè[sửa | sửa mã nguồn]Người ta còn có thể lái liên tiếp những cặp hai tiếng kèm theo phép đảo ngữ tạo thành những kiểu diễn đạt ba vế rất ấn tượng. Một nhóm hài đã dựng nên một tiểu phẩm mang tên "Bật mí bí mật bị mất". Cầm ly rượu, một cô gái nghẹn ngào nói: Em uống ly này thiệt là cháy lòng, bởi em đang chống lầy, vì rất muốn lấy chồng. Thiên hạ thường dặn nhau: Đấu tranh là tránh đâu, coi chừng bị trâu đánh. Vừa đá banh, vừa ăn bánh đa, coi chừng bị ba đánh, chuyện chợ Cần Giuộc có bán chuột Cần Giờ, hay dặn dò qua cầu Ông Đen nhớ hỏi kèn ông đâu? Rồi cảnh giác: Nhiều đứa nhìn bao dung, mà quay lưng là bung dao với mình liền! Hoặc tâm sự nỗi lòng Em chưa có gì (còn độc thân) vì chưa gí cò… Lối nói lái này tạo thành nhiều câu đối rất độc chiêu: Con cá rô cố ra khỏi rá cô / Chú chó mực chực mó vào chõ mứt; Văn sĩ Nhật Tiến bảo học tiếng Nhật là tiện nhất/ Luật sư Đức Tiến không biết tiếng Đức nên tức điếng…[2] Ví dụ 1Vua Tự Đức cũng có câu đối chỉnh mà đến nay chưa chắc ai giải được. Vế đối ra: Kia mấy cây míavà vế đối lại của vua Tự Đức là: Có vài cái vòVí dụ 2: Con cá đối nằm trong cối đá. Mèo đuôi cụt nằm mút đuôi kèo. Anh mà đối được dẫu nghèo em cũng ưng. Con mỏ kiến đậu trên miếng cỏ. Chim vàng lông đậu cạnh vồng lang. Anh đà đối được e nàng chẳng ưng. Ví dụ 3Chàng trai xưa kia có râu, cạo râu xong, cô gái nhận không ra. Chàng bèn làm thơ nói lái: Xưa tê câu ró ngó xinh. Bây giờ câu rạo vô tình ngó lơ. Ở đây câu ró, câu rạo không dính líu xa gần với chuyện đi câu. Ví dụ 4 Trong cuốn Thú chơi chữ(Nhà xuất bản Trẻ, 1990), hai nhà ngôn ngữ học Hồ Lê và Lê Trung Hoa cung cấp một số câu đối lái. Trong đó có một số thách đối có cặp từ ngữ nói lái lắt léo nên chưa có ai đối lại: Bò lang chạy vào làng Bo (có người đối: Mồi câu ném xuống cầu Môi – không chỉnh lắm). Đầu Xuân Thế Lữ sắm hai thứ lễ: một quả lê tây, một quả lê ta. (Nhà thơ Nguyễn Thứ Lễ có hai bút danh là Thế Lữ và Lê Ta).[4] Ví dụ 5 Có câu như câu đối, dùng từ Hán Việt: Giai nhân tái đắc, giai nhân tử Anh hùng khai đống, anh hùng tiêu. Ví dụ 6: Thời kỳ đời sống khó khăn, hình ảnh người thầy giáo phải tháo giày, giáo chức phải dứt cháo là cảm hứng cho nhiều câu đối: _Kỹ sư đôi lúc làm cư sĩ Thầy giáo lắm phen cũng tháo giày. Thầy giáo tháo giày đi dép lốp Nhà trường nhường trà uống nước trong _Thầy giáo tháo giày, tháo giáo án dán áo Nhà trường nhường trà, nhường cả hoa, nhòa cả hương Làm giáo chức, phải giứt cháo Thảo chương, rồi để được... thưởng chao'. Nhường luôn hết cả nhà xe, nhè luôn hết cả xương Nhường luôn miếng đất, nhất luôn cả miếng đường Nhường tới tận rau, nhàu luôn tới tận xương Nhường tới cái túi, nhúi...tới cái tường Lấy lương hưu, để lưu hương Ví dụ 7: Một câu hò ở Nam bộ, giải rõ ra thì thô tục, nhưng mới nghe qua khó nhận thấy: Thằn lằn đeo cột thằn lằn trốn Cá nằm trong đăng, cá mắc kẹt đăng Anh với em nhân ngãi đồng bằng Dù xa duyên nợ nhưng cột lằn đừng xa. Có những bài không rõ tác giả: Yêu em từ độ méo trời Khi nào méo đất mới rời em ra. Bài này đọc lên nghe rất tục: Ban ngày lặt cỏ tối công phu Đậu ủ lâu ngày hóa đậu lu Ngày ta địa chủ, đêm tu đạo Đạo chi lạ rứa: "Đạo ù ù".[3] Ví dụ 8: Trai Hóc Môn, vừa hôn vừa móc Gái Gò Công vừa gồng vừa co Ví dụ 9: Ở Bắc Ninh, Hà Nội thuở trước có câu đối nói lái cũng rất hay. Một bên xướng: "Chị chờ em ở chợ Chì" (chợ Chì là địa danh thuộc huyện Quế Võ - Bắc Ninh). Bên kia đối lại là: "Tao kéo mày về keo táo" (Keo Táo thuộc huyện Gia Lâm - Hà Nội). Hai câu đối, lái rất chuẩn về từ lẫn nghĩa. Ví dụ 10: Cũng ở nhiều địa phương phía Bắc còn lưu giữ trong dân gian câu đố sau đây: "Bên đây cưa ngọn bên kia cũng cưa ngọn, đố là cái gì?". Bên kia trả lời: "Cưa ngọn nói lái là con ngựa. Hai bên đều cưa ngọn, vậy là có hai con ngựa!". Trả lời như vậy thật là chí lý. Bên đố lại đố tiếp như sau: "Bên đây cưa ngọn, bên kia cưa ngọn mà không phải hai con ngựa là cái gì?". Bên đáp trả lời: "Là cái nạng!". Câu trả lời như thế quả thật lý thú bất ngờ. Bởi vì, một cành mà cưa hai bên thì còn lại hình chữ "V", thân cây chắp lại phía dưới, thành chữ y dài (Y). Chữ y dài thì hình cái nạng. Trả lời như thế thì rõ ràng không ai bắt bẻ được. Ví dụ 11: Trong số các nhà thơ hiện đại Việt Nam, Văn Lợi (nguyên Giám đốc Sở Văn hóa - Thể thao và Du lịch Quảng Bình) là người có tài ứng khẩu, nói lái và làm câu đối có vận dụng yếu tố nói lái rất giỏi. Khi lên chức ông ngoại ở năm thứ 3, có khách đến chơi, nhà thơ Văn Lợi đều nói: "Dạo này mình vừa oai vừa ngọng". "Oai" là vì lên chức mới, còn "ngọng" là vì hay nhái giọng của cháu ngoại khi cháu lên 3, oai ngọng lại là ông ngoại. Lúc còn ở Huế, thuở tỉnh Bình Trị Thiên chưa chia tách, trong một lần đi thực tế về nông trường nọ, gồm anh, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Tô Nhận Vỹ, Xuân Hoàng, Hoàng Vũ Thuật… cùng nhạc sĩ Trịnh Công Sơn. Vốn người gầy yếu, lại phải đi đường dài nên khi đến nơi, chưa kịp nhận phòng nghỉ thì Trịnh Công Sơn đã lăn kềnh ra ghế ở phòng khách. Nhà thơ Xuân Hoàng thấy thế, bèn ra vế đối: "Đi phong trào, chưa trao phòng đã trồng phao để trào phong". Đang lúc bạn bè gật gù, ngẫm nghĩ tìm câu đốithì Văn Lợi đã xuất đối đối ngay: "Đến nông trường để trồng nương (tức trồng các cây trên nương rẫy), mới trông nường (tức nàng - tiếng miền Trung) đã trương nòng".[5] Ví dụ 12:Xưa có một nghị viên họ Lại làm nghề lái lợn, giàu có, hống hách vì xây được khu lăng mộ đẹp cho tổ tiên. Nhiều người dân bị hắn chèn ép nhiều nên ghét hắn lắm. Một đêm, không rõ ai đã đề đôi câu đối sau ở lăng mộ của nhà nghị viên: Rực rỡ mé đường Tây, kẻ lại người qua, ca tụng sinh phần quan lớn Lại Vang lừng trong thân Bắc, trên kinh dưới rái, một lòng tôn trọng cụ trong dân Nói lái trong văn học, thơ ca[sửa | sửa mã nguồn]
1/Truyện kể, một lần Quỳnh dâng lên chúa Trịnh một lọ thức ăn, bên ngoài có ghi hai chữ "đại phong". Chúa không hiểu là món gì, hỏi Quỳnh, Quỳnh trả lời: - Bẩm "đại phong" là gió to, gió to thì đổ chùa, đổ chùa thì tượng lo,tượng lo là lọ tương đấy ạ. 2/Một buổi trưa, Trạng Quỳnh vào hầu chúa. Thấy chúa đang ngủ, sẵn bút mực, Quỳnh viết vào tường hai chữ "ngọa sơn" rồi về. Sau khi thức giấc, chúa không hiểu Quỳnh muốn nói gì, bèn bảo Quỳnh giải thích, Quỳnh thưa: - Ngọa nghĩa là nằm, nằm tất nhiên phải ngáy; sơn nghĩa là núi, núi tất phải có đèo. Hợp hai chữ lại, là ngáy đèo (Nếu nói lái lại thành đ… ngày). 3/Một buổi trưa khác, một bà chúa thấy Quỳnh đang lấy chân vọc đám bèo trong một cái ao sen ven đường. Bà ngạc nhiên hỏi: - Trạng làm gì đấy? Quỳnh ngẩng lên thưa: - Trời nóng quá, không ngủ được, tôi phải ra đây đá bèo chơi! Bà chúa đỏ mặt bỏ đi. 4/Tương truyền gần quê của Trạng Quỳnh có một pho tượng đá trần truồng đứng giữa đồng, miệng tủm tỉm cười, tay trỏ xuống hạ bộ, chân mang đôi giày, gọi là tượng bà Banh. Quỳnh viết ngay một bài thơ vào ngực bức tượng, như sau: Đề tượng bà Banh Khen ai đẽo đá tạc nên mầy! Khéo đứng ru mà đứng mãi đây Trên cổ đếm đeo dăm chuỗi hạt Dưới chân đứng chéo một đôi giày Ấy đã phất cờ trêu ghẹo tiểu Hay là bốc gạo thử thanh thầy? Có ngứa gần đây nhiều góc dứa Phô phang chi ở đám quân nầy.
1/Sư bị làng đuổi Cái kiếp tu hành nặng đá đeo Vị gì một chút tẻo tèo teo Thuyền từ cũng muốn về Tây Trúc Trái gió thành ra phải lộn lèo! 2/Chùa Quán Sứ Quán Sứ sao mà cảnh vắng teo Hỏi thăm sư cụ đáo nơi neo? Chày kình tiểu để suông không đấm Tràng hạt vãi lần đếm lại đeo Sáng banh không kẻ khua tang mít Trưa trật nào người móc kẽ rêu Cha kiếp đường tu sao lắt léo Cảnh buồn thêm ngán nợ tình đeo. 3/Hang Cắc Cớ Giọt nước hữu tình rơi lõm bõm Con đường vô ngạn tối om om. Khen ai đẽo đá tài xuyên tạc Khéo hớ hênh ra lắm kẻ dòm 4/Đang cơn nắng cực chửa mưa hè,/Rủ chị em ra tát nước khe(Tát Nước).Tương truyền câu đối sau đây của Hồ Xuân Hương, cảm tác khi nàng đi qua cửa Đò ở đèo Ngang: Khéo khen ai đẽo đá chênh vênh, tra hom ngược để đơm người đế bá; Gớm con tạo lừa cơ tem hẻm, rút nút xuôi cho lọt khách cổ kim. 5/Có lần Hồ Xuân Hương và Chiêu Hổ, kẻ thách người đối thành câu sau đây: Tán vàng, lọng tía, che đầu nhau đỡ khi nắng cực; Thuyền rồng, mui vẽ, vén buồn lên rồi sẽ lộn lèo.
Nhắc bạn những thương tình nhạn bắc Trông đời chỉ thấy cảnh trời đông Đêm thâu tiếng dế đâu thêm mãi Công khó chờ nhau biết có không một dị bản khác: Dòng châu lai láng, đĩa dầu chong Công khó đợi chờ, biết có không ? Nhắc bạn thêm thương người nhạn bắc Trông đời ngao ngán giữa trời đông Hoặc một bài thơ khác: Đời chua, bậu cứ thử đùa chơi Chơi ngổ xong rồi, kiếm chỗ ngơi Bến đậu thênh thang, mời bậu đến Ngồi đây say tít, ngất ngây đời. 'Một bài thơ của Thảo Am viết sau khi nghe tin giặc Pháp chiếm lại đồn Mang Cá, 1946 Lũ quỷ nay lại về luỹ cũ Thầy tu mô Phật cũng thù Tây.[4]
Lọt cồn trận gió đi hoang Tồn liên ở lại xin làn dồn ra (Mưa nguồn) Cá ở ngoài khe có ít nhiều Cồn lau cỏ lách có hoang liêu Em về có hỏi răng ri rứa Nhắm mắt đưa chân có bận liều. (Bờ trần gian) Bài "Trong bàn chân đi" đầy dẫy những chỗ nói lái nhưng thật khó mà hiểu được: Có mấy ngón Năm ngón Mười ngón Món người Non ngắm Nắm ngon Hoặc là năm ngón nón ngăm Màu đi trên nước cá tăm chuyên cần Nón ngăm dặm bóng xoay vần Đọng nơi góp tụ và chần chờ đưa.
Trời lụt ca nhi cũng trụt lời Có nhiều bài bỡn cợt vui vui kiểu như bài đùa các bợm rượu: Một chai mai chột, coi chừng! làng vọng còn hơn cái lọng vàng Mang sơ tấm áo, chớ mơ sang Nhắn bạn lên non đừng bắn nhạn Hang lỗ tìm vào bắt hổ lang
"Mực ngò, mực ngó, mực ngằn Mực, bao nhiêu mực chẳng bằng mực nghi Chao ôi bất luận mực gì Vẫn thua mực ngút li bì sớm hôm".[6]
Mỗi độ xuân sang chả có gì (chỉ có già) Giàu sang, keo kiệt để mà chi? (đĩ mẹ cha)Vui xuân chúc tết cầu gia đạo (cạo da đầu)Cạn chén tiêu sầu tiễn người đi (đĩ người tiên).Bông ế! Ông Đồn chợ sáng chẳng ồn đông Bông giữa rằm giêng gặp bữa giông Cổng đá hàng bày còn cả đống Mông khua đít tét hỏi mua không Cọc mòn hoa cắt đâu còn mọc Hồng trết bùn trây cũng hết trồng Cố lãi vô thời ôm cái lỗ Đồng Kho về sớm kẻo đò không! (Tố Mỹ)
Trong một truyện ngắn, nhà văn Y Ban kể chuyện một bà vợ chạy chữa bệnh liệt dương cho chồng bằng đủ loại thực phẩm, thuốc men đều không hiệu quả, nên mới nghĩ tới một bài thuốc dân gian. " Bài thuốc này gồm 3 vị: Hà thủ ô, cỏ thiên, và trứng vịt lộn ". Người đọc cứ thắc mắc, hà thủ ô với trứng vịt lộn thì ai cũng biết, nhưng cỏ thiên là cỏ gì ? Tác giả bật mí: Ba vị thuốc đó gọi tắt là HÀ THIÊN LỘN, có thể do tâm lý ông chồng không thấy hứng thú khi gần vợ, cho ông đi tìm …, may ra hết bệnh![3] Nói lái thời kháng chiến[sửa | sửa mã nguồn]
- Các cô vừa đi vừa nói "bái dốc, bái dốc" thì sẽ bớt mệt. Nhiều cô ngây thơ không hiểu ẩn ý của anh chàng vừa đi vừa lặp "bái dốc, bái dốc", khiến cả đoàn cười vang, vui vẻ nên… bớt mệt thật.
"Tìm diệt" bãi Cửu Long, bị sóng Cửu Long dìm tiệt; "Dồn dân" bờ Trà Khúc, nhừ đòn Trà Khúc dần Giôn. ("Tìm diệt", "dồn dân" là những cách chống ta của địch. Trà Khúc là tên con sông lớn của tỉnh Quảng Ngãi. Giôn là Johnson, tổng thống Mỹ).
Một hôm có người mách cho Diệm biết ý nghĩa tai hại của từ ngữ này:Cụ Ngô nói lý thành ngộ cu! Thế là Diệm ra lệnh cho bọn tay chân bỏ ngay từ ngữ Cụ Ngô.
Thế đấy! Vì thương chú nó nghèo Cho nên thím nó phải quanh queo Trổ tài gái đảm xoay nghìn khóe Nào quản mang tai tiếng đá đeo.[7]
Nam Bắc toàn dân quy thượng chính Á Âu thế giới kính tu mi. Vế đối thứ nhất nói được tình cảm của toàn dân Việt Nam từ Nam chí Bắc đều quy phục người vĩ nhân chân chính. Vế thứ hai nói lên tình cảm của nhân dân thế giới vô cùng kính phục đấng tu mi nam tử. Nếu chú ý, cũng có thể thấy dụng ý ở hai từ cuối mỗi vế đối: Chính, Mi nói lái thành Chí Minh, tên Cụ Hồ.[8]
Nói lái ngày nay[sửa | sửa mã nguồn]Nói lái tên[sửa | sửa mã nguồn]
Lái trong tình yêu[sửa | sửa mã nguồn]Dân gian đã tổng kết bốn sắc màu của tình yêu, theo đúng các giai đoạn của đời người. Thuở mới yêu nhau, sắc màu đẹp nhất chính là màu nho (mò nhau). Khi đã lấy nhau rồi, về ở chung với cha với mẹ, phòng ốc chưa được riêng tư, lại sợ tai vách mạch rừng, cứ vội vội vàng vàng, mà thành ra màu lam (làm mau). Làm ăn khấm khá, có cửa có nhà, lúc này là lúc sung sướng nhất đây, với sắc màu pha lê (cứ phê là la). Nhưng rồi tuổi đời chồng chất, sức khỏe giảm dần, đến lúc chỉ còn lại với đời một màu đọt chuối (chọt là đuối). Ngoài ra còn có: Tiền ai nấy tính, tình ai nấy tiến! Và chẳng cần gìn vàng giữ ngọc như người thời xưa chi cho mất thời gian và công sức: Ăn cơm trước kẻng như ăn kem trước cổng! Cứ lao vào nhau thành ra yêu nhiều nên ốm - ôm nhiều nên yếu. Đến lúc thất bại thảm hại trong tình trường mới buột miệng than rằng: Tình theo giấc mộng tan, tàn theo giấc mộng tinh. Rồi chợt ngộ ra rằng: Đời thay đổi khi ta thôi đẩy! Những cô gái xinh, nhan sắc chim sa cá lặn thì dành cho đại gia chim săn cá lạ. Đành chép miệng mà dặn dò nhau: Đừng mơ hão mà thành hao mỡ! kẻo yêu nhầm mấy cô chuyển giới cú có gai! Trong tiệc nhậu[sửa | sửa mã nguồn]Ngay cả chuyện uống rượu cũng thành chuyện nói lái: Cầm ly mời nhau là phải lên tiếng uống theo kiểu nào: kiểu Long Nhĩ (uống để nhỏng ly, không còn gì hết), kiểu hai ngày cưới (uống chung ly hai người một cái)… Thông thường, chả ai cho phép bạn uống theo lối Mộ Đức (uống có mức độ) mà phải theo mấy anh Đức Phổ (uống như đổ phứt), mấy anh Sơn Trạch (sạch trơn). Uống xong lại phải Tây Bắc (tức là bắt tay). Dân lưu linh thù nhất những kẻ mang tên Lý Đen, Lý Đẻn (lén đi, lẻn đi), Bảy Chọ, Bảy Nhỏ (bỏ chạy, bỏ nhảy). Hết nước đá thì hỏi quán có cá nước đục (cục nước đá) không? Sợ vợ nhưng phải giữ gìn thể diện, nên buộc phải dùng ám hiệu ra đấu cho riêng vài chiến hữu: bỏ đá (bả đó), Diệu Cơ (vợ kêu), tửu phùng tri kỷ thiên bôi thiểu (biểu thôi)[2] Nói lái tuổi học trò[sửa | sửa mã nguồn]Nói lái đi vào đời sống sinh hoạt hằng ngày và càng trở nên phổ biến. Tuổi teen học trò hầu như sử dụng nói lái để tán gẫu, chọc vui nhau. "Nhất quỷ nhì ma thứ ba học trò" quả không sai. Như khi cha đưa con đến trường, cha la lên: "Thôi chết con ơi trễ giờ rồi!" Con vui vẻ nói: "Trễ giờ thì chở về thôi ba!".[9] Trong lớp học thì dù có sợ giáo viên nhưng học trò vẫn có thể nghĩ ra nhiều cách nói lái như: bạn nào đạt điểm cao thì cả nhóm đồng thanh hô:"Mừng cho em nó". Hoặc ai mách lẻo với thầy cô thì sẽ nhận được câu hăm dọa chiều nay sẽ "cho mày một buổi tan trường"[10] Nói lái kiểu Quảng Nam[4][sửa | sửa mã nguồn]Giọng Quảng Nam phát âm rất sai nhưng chính đặc điểm này lại là miếng đất màu mỡ cho Nói lái phát triển. Nói lái kiểu Quảng Nam thường mang đặc điểm "chém to kho mặn" của người dân vùng đất này, nghĩa là người ta khoái nói lái "mặn". Trong các nhóm chữ nói lái, hầu hết đều nhắc đến bộ phận kín đáo trên cơ thể hoặc những điều bị xem là "cấm kỵ" trong ngôn ngữ, chỉ có người bình dân mới dám mạnh dạn nói dưới hình thức nói lái, dù chỉ để thư giãn. Ví dụ 1: ông Dương Quốc Thạnh, biệt hiệu Sơn Hồ, chuyên làm thơ nói lái theo thể Đường luật. Có cậu công nhân gốc Hội An làm việc ở Phú Ninh quan hệ với một cô thợ may ở địa phương mang bầu. Cậu về thú thực với gia đình và xin cưới gấp nhưng ba mẹ không chịu. Ông lại là người quen biết cả hai bên nên nhà gái nhờ ông thuyết phục bên nhà trai. Cuối cùng đám cưới vẫn được diễn ra với cô dâu mang bụng bầu 6 tháng. Không khí nặng nề giữa hai họ được giải tỏa hoàn toàn khi ông, với tư cách chủ hôn, đọc bài thơ này và nhà trai thực sự vui vẻ khi tuyên bố nhận con dâu. Ai bàn chi chuyện đã an bài, Trai khiển đồng tình gái triển khai. Cứ sợ cho nên thành cớ sự, Mai than mốt thở lỡ mang thai. Tính từ ngày tháng vương tình tứ, Khai ổ bây giờ báo khổ ai. Cưỡng chúng ông bà nghe cũng chướng, Thôi đành để chúng được thành đôi! Ví dụ 2: Các cô chủ quán người Quảng Nam tại các quán nhậu, ngoài bản chất nói lái cố hữu, dường như được thêm qua nền "văn hóa nhậu" nên khả năng nói lái đáng nể. Tên các món ăn thức uống đều trở thành phương tiện để đùa bỡn, chọc ghẹo nhau: - Lươn thì phải có món lươn nấu với rau dền, hay gọi tắt là lươn dền. - Dưa leo thì phải là loại leo đá và phải được thái dọc ăn mới ngon. - Mực thì món đặc biệt vẫn là mực xào với ngò, là món mực ngò. -Ăn mít phải chọn mít đặt và có người đút cho thì ăn mới thấy ngon". Ví dụ 3: Để phê phán thói lãng phí tổ chức tiệc cưới của gia đình nọ. Đi dự đám cưới ông Thủ Thiệm mua một tấm lụa, viết lên đó ba chữ Hán thật to: "Miêu Bất Tọa" làm quà. Trong tiệc rượu, nhiều người nhờ Thủ Thiệm giải thích mấy chữ đó. Thủ Thiệm giải thích:"Miêu" là mèo, "Bất" là không, "Tọa" là ngồi. "Miêu Bất Tọa" là mèo không ngồi, mà mèo không ngồi tức là mèo đứng.[11] Ngôn ngữ khác[sửa | sửa mã nguồn]Cách nói này cũng được nhiều dân quốc gia khác sử dụng. Thí dụ trong tiếng Anh: "The Lord is a shoving leopard" (thay vì "The Lord is a loving shepherd") - gọi là Spoonerism. Giáo sư William Archibald Spooner là người nối tiếng có thói quen đãng trí hay nói lộn ngược, ví dụ, "You have hissed my mystery lecture" ("You have missed my history lecture"). Thí dụ trong tiếng Đức: "Auf der Liebesreise // sprach der Leibesriese: // "Reib es, Liese!" // Und sie rieb es leise." - gọi là "Wortdreher" hay "Buchstabendreher", cách làm thơ có vần như thế gọi là Schüttelreim trong tiếng hán việt: thiết trường kỷ dĩ tôn kỳ trưởng (lấy ghế dài mời các trưỡng lão) đối lại là lập bình phong nhi tuyển phòng binh (lập tấm phong để tuyển dụng quân sĩ) câu đối này hay lẫn cã vần bằng trắc lẫn nói lái! Thí dụ trong tiếng Pháp: văn hào Voltaire, tên thật là François Marie Arouet, lấy tên thành phố quê hương là Airvault (thuộc vùng Deux Sèvres) nói lái là Vault – Air để có bút danh Voltaire. Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]
Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn] |