Nguyễn Ái Quốc và con đường đưa chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam *
Năm 1920, Nguyễn Tất Thành - Nguyễn Ái Quốc đã đến với chủ nghĩa Mác – Lênin. Lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin đã soi rọi cho Nguyễn Ái Quốc tìm ra con đường cứu nước.
Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc thì trước hết phải có ''Đảng cách mệnh'' để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi''. Từ nhận thức đó, Nguyễn Ái Quốc ra sức chuẩn bị mọi mặt cho việc thành lập một chính đảng vô sản ở Việt Nam.
|
|
Nguyễn Ái Quốc phát biểu tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 18 Đảng Xã hội Pháp, ủng hộ Luận cương của Lênin về vấn đề dân tộc và thuộc địa. Người tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp và trở thành người cộng sản Việt Nam đầu tiên (12/1920) - Ảnh tư liệu. |
Người từng bước truyền bá có hệ thống chủ nghĩa Mác - Lênin vào trong nước, đưa phong trào công nhân chuyển dần từ trình độ tự phát lên tự giác, đưa phong trào yêu nước chuyển dần sang lập trường cộng sản. Các tác phẩm của Nguyễn Ái Quốc như Bản án chế độ thực dân Pháp (Le procès de la colonisation francaise) năm 1925, Đường Kách mệnh năm 1927, các tờ báo do Người sáng lập như báo Người cùng khổ (Le Paria) năm 1922, báo Thanh niên 21- 6-1925 và nhiều bài báo Người viết về Lênin, về Cách mạng Tháng Mười Nga, về giai cấp công nhân... là những tài liệu truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin vào Việt Nam đầu tiên. Những tài liệu này đã có tác dụng thức tỉnh lòng yêu nước của người dân đất Việt, chỉ rõ con đường cách mạng đúng đắn phải theo. Các tài liệu này đã có sức cuốn hút mạnh mẽ đối với các tầng lớp trí thức tiến bộ và những người tiên tiến trong giai cấp công nhân và nhân dân lao động lúc bấy giờ, bởi nó không chỉ vạch trần bộ mặt áp bức, bóc lột tàn bạo của bọn thực dân Pháp và phong kiến tay sai, kêu gọi nhân dân ta vùng lên đấu tranh xóa bỏ gông cùm nô lệ, mà còn chỉ ra con đường đi đến thắng lợi, chỉ ra xu thế tất yếu của dân tộc và thời đại, đó là con đường độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, ''chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ''.
Tiếp theo việc xuất bản các tác phẩm, báo chí từ năm 1922 đến năm 1925, Nguyễn Ái Quốc cùng với những người cộng sản coi trọng hoạt động tuyên truyền, cổ động, vì vậy một số tờ báo tiếp tục được Tổng bộ Việt Nam Cách mạng Thanh niên xuất bản năm 1926 như Tuần báo Công nông nhằm vào đối tượng công nhân, nông dân; bán nguyệt san Lính Kách mệnh nhằm vận động binh lính Việt Nam trong quân đội Pháp ở Đông Dương; nguyệt san Việt Nam Tiền phong, báo Đồng Thanh, sau đó và Thân ái do Chi bộ Việt Nam Cách mạng Thanh niên ở Xiêm xuất bản. Có thể coi năm 1929 là năm nở rộ của báo chí cách mạng Việt Nam. Án nghị quyết của Hội nghị trù bị toàn quốc đại biểu đại hội ngày 23-1-1929 của Việt Nam Cách mạng Thanh niên ghi rõ: ''Mỗi kỳ phải tổ chức một bộ tuyên truyền. Tài liệu tuyên truyền hoặc tự đồng chí mình làm ra hoặc trưng cầu lợi dụng người ngoài''. Tùy theo điều kiện các kỳ bộ có thể xuất bản báo chí bí mật hoặc công khai. Trong năm 1929, Việt Nam Cách mạng Thanh niên còn xuất bản một số báo và tạp chí như: Bônsêvích, Công Nông Binh, Cờ đỏ, Hướng đạo, Lao động. Chi bộ An Nam Cộng sản Đảng cũng xuất bản tạp chí Bônsêvích, báo Cờ Đỏ, báo Đỏ (do Chi bộ An Nam Cộng sản Đảng ở Thượng Hải), nhưng đông đảo nhất phải kể đến báo chí Đông Dương Cộng sản Đảng và các tổ chức trực thuộc: Tạp chí Công hội Đỏ, Bônsêvích, Người Cộng sản, báo Búa Liềm, Lá cờ Cộng sản, Cờ Đỏ, Dân cày, Giải thoát, Hầm mỏ, Học sinh, Lao động, Mỏ than, Người thợ mỏ, Sao Đỏ, Sắt, Tia Lửa, Tia Sáng… Theo thống kê, trước khi thành lập Đảng, các tổ chức cộng sản đã xuất bản 37 tờ báo, tạp chí làm công tác tuyên truyền, vận động, tổ chức phong trào cách mạng.
Báo chí cách mạng trước khi có Đảng đã góp phần tuyên truyền chủ nghĩa Mác - Lênin, đẩy mạnh phong trào đấu tranh và chuẩn bị về chính trị, tư tưởng, tổ chức cho sự thành lập Đảng.
-------------
* Đầu đề do Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam đặt.
Trích: Lịch sử 80 năm ngành Tuyên giáo của Đảng Cộng sản Việt Nam (1930-2010), Nxb Chính trị Quốc gia, tr.8-10.
Bài 2: Hồ Chí Minh với việc truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam
Tiến sĩ Văn Thị Thanh Mai(Ban Tuyên giáo Trung ương)
06:44 thứ năm ngày 16/01/2020
Tăng kích thước font chữ
Giảm kích thước font chữ
In bài viết
Gửi bài viết
Mãi tự hào và sắt son tin yêu
(HNM) - 1. Hành trình bôn ba tìm đường cứu nước của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh bước sang một trang mới khi Người đọc Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lênin được Đại hội lần thứ hai Quốc tế Cộng sản họp năm 1920 thông qua (đăng trên báo Nhân đạo, ngày 16 và 17-7-1920).
Luận cương của Lênin đã chỉ cho Nguyễn Ái Quốc con đường giành độc lập, tự do cho dân tộc và đồng bào: “Luận cương của Lênin làm cho tôi rất cảm động, phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng biết bao! Tôi vui mừng đến phát khóc lên. Ngồi một mình trong buồng mà tôi nói to lên như đang nói trước quần chúng đông đảo: “Hỡi đồng bào bị đọa đày đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta”! Từ đó, tôi hoàn toàn tin theo Lênin, tin theo Quốc tế thứ ba”.
Niềm tin ấy là cơ sở để Nguyễn Ái Quốc vững bước đi theo con đường cách mạng triệt để của chủ nghĩa Mác - Lênin và hướng các hoạt động của mình vào mục tiêu lên án chủ nghĩa thực dân, với nhiều bài viết, bằng thể loại đăng trên các báo: Nhân đạo (L’Humanité), Đời sống công nhân (La Vie Ouvrière), tạp chí Cộng sản (La Revue Communiste),... Niềm tin đó cũng chính là tiền đề để Nguyễn Ái Quốc cùng với những người cách mạng chân chính của nước Pháp bỏ phiếu tán thành tham gia Quốc tế III/Quốc tế Cộng sản tại Đại hội của Đảng Xã hội Pháp, họp tại Tua (tháng 12-1920) và Người là một trong những người sáng lập Đảng Cộng sản Pháp, trở thành người cộng sản Việt Nam đầu tiên.
Tiếp đó, Người cùng các đại biểu thuộc địa của Pháp đã thành lập Hội Liên hiệp thuộc địa (tháng 4-1921). Hội ra báo Người cùng khổ (Le Paria) làm cơ quan ngôn luận và Người được phân công làm chủ nhiệm, kiêm chủ bút của tờ báo. Le Paria số 1, ngày 1-4-1922 đăng lời kêu gọi, nêu rõ tôn chỉ, mục đích và nhấn mạnh: “Le Paria đã sẵn sàng bước vào cuộc chiến đấu, mục đích của báo chắc chắn sẽ đạt được: Đó là giải phóng loài người”.
Cuối tháng 10-1924, Nguyễn Ái Quốc rời Mátxcơva đi Trung Quốc và đến Quảng Châu ngày 11-11-1924, bắt đầu những hoạt động cụ thể, chuẩn bị về chính trị, tư tưởng và tổ chức cho sự ra đời một chính đảng vô sản kiểu mới cho giai cấp công nhân và dân tộc Việt Nam. Tại đây, Người tiếp xúc với những người Việt Nam yêu nước đang hoạt động tại Quảng Châu, trước hết là tổ chức Tâm Tâm xã. Sau đó, Người mở rộng địa bàn hoạt động; khẩn trương, chủ động và cẩn trọng tiến hành xây dựng tổ chức cách mạng theo từng bước; lập ra nhóm bí mật làm hạt nhân và tiến tới thành lập một tổ chức có tính chất quần chúng rộng để tập hợp những thanh niên yêu nước ở trong và ngoài nước.
Tháng 6-1925, Người thành lập Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên: Tổ chức theo nguyên tắc tập trung dân chủ, cấp dưới phục tùng cấp trên, thiểu số phục tùng đa số, lấy tự phê bình và phê bình làm phương châm phát triển của mình; trong đó, tất cả các hội viên phải hoạt động trong quần chúng, tuyệt đối giữ bí mật hoạt động của hội, với mục đích: “Hy sinh tính mệnh, quyền lợi, tư tưởng để làm cuộc cách mạng dân tộc (đập tan bọn Pháp và giành lại được độc lập cho xứ sở) rồi sau làm cách mệnh thế giới (lật đổ chủ nghĩa đế quốc và thực hiện chủ nghĩa cộng sản)”.
Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên là một tổ chức quá độ, phù hợp với điều kiện của Việt Nam khi đó. Đây là một sáng tạo, có chủ đích của Nguyễn Ái Quốc, nhằm đưa chủ nghĩa Mác - Lênin, đường lối và phương pháp đấu tranh cách mạng mới vào phong trào đấu tranh yêu nước của nhân dân ta. Tiếp đó, Người mở lớp huấn luyện chính trị khai mạc cuối năm 1925 tại đường Văn Minh (Quảng Châu, Trung Quốc), đào tạo đội ngũ cán bộ làm nòng cốt cho việc tuyên truyền những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin về trong nước. Thông qua lớp huấn luyện, các học viên được trang bị những vấn đề cơ bản nhất về chủ nghĩa Mác - Lênin, những nguyên tắc hoạt động bí mật và kỹ năng thực hành các công tác vận động quần chúng... Sau này, những bài giảng của Người được tập hợp, hoàn thiện trong cuốn Đường Kách mệnh. Đây là một tác phẩm quan trọng, một trong những văn kiện lý luận đầu tiên của Đảng ta, đặt cơ sở tư tưởng cho đường lối của cách mạng Việt Nam sau này.
Cùng với việc xây dựng đội ngũ cán bộ, Người chủ trương xuất bản sách và báo chí làm phương tiện tuyên truyền về chủ nghĩa Mác - Lênin và là công cụ đấu tranh cách mạng. Báo Thanh niên, cơ quan ngôn luận của Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên do Người sáng lập và trực tiếp chỉ đạo, đồng thời là cây bút chủ chốt (số 1, ngày 21-6-1925), với các chuyên mục xã hội, bình luận, tin tức, diễn đàn, vấn đáp, phê bình, trả lời bạn đọc...; với những nội dung chính như: Những vấn đề đế quốc và thuộc địa, thực tiễn của cách mạng Việt Nam, Đảng cách mạng và Đảng Cộng sản, cách mạng và mặt trận dân tộc thống nhất, học tập lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin... đã thống nhất phương hướng và nội dung tuyên truyền giáo dục ở trong và ngoài hội.
2. Cùng với hoạt động của những hội viên Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên và phong trào “vô sản hóa”, việc tác phẩm Đường Kách mệnh, Báo Thanh niên và các tờ báo, nguyệt san bí mật được chuyển về Việt Nam đã góp phần quan trọng vào việc truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng và con đường giải phóng dân tộc theo xu thế của thời đại. Trong đó, tác phẩm Đường Kách mệnh có ý nghĩa sâu sắc. Đây là tập hợp những bài giảng của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã giảng tại lớp Huấn luyện chính trị trong những năm 1925-1927, do Bộ tuyên truyền của Hội liên hiệp các dân tộc bị áp bức Á Đông ấn hành và bí mật được chuyển về trong nước theo nhiều ngả đường khác nhau (trong thời gian 1927-1930).
Trong bối cảnh Việt Nam đang khủng hoảng trầm trọng về đường lối cách mạng, về phương pháp cách mạng và đặc biệt là sự khủng hoảng về tổ chức cách mạng; hơn nữa, trong khi phong trào cách mạng của các dân tộc thuộc địa phát triển, hướng theo khẩu hiệu của Lênin: “Vô sản tất cả các nước và các dân tộc bị áp bức, đoàn kết lại!”, và ở Việt Nam với chính sách đàn áp hà khắc của thực dân Pháp: Dư luận bị bưng bít thông tin, nhân dân bị đầu độc bởi văn hóa thực dân, thì những nội dung quan trọng của Đường Kách mệnh góp phần trang bị cho nhân dân tư tưởng mới của thời đại, đưa thế giới hội nhập với Việt Nam và đưa cách mạng Việt Nam hòa nhập cùng dòng chảy chung của cách mạng thế giới, càng trở nên có ý nghĩa lớn lao. Đường Kách mệnh hàm chứa những tư tưởng lớn của Hồ Chí Minh, trong đó học thuyết Mác - Lênin được Người đưa vào Việt Nam theo cách của riêng mình thật giản dị, dễ hiểu, làm cho lý luận Mác - Lênin đến với Việt Nam như hạt giống tốt gặp mảnh đất màu mỡ đã được chuẩn bị sẵn sàng.
Chủ nghĩa Mác - Lênin đã xâm nhập vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước, làm thay đổi tính chất, chiều hướng của phong trào đấu tranh yêu nước, dẫn đến thắng lợi của khuynh hướng vô sản; làm chuyển biến phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân từ tự phát, đơn lẻ, sang đấu tranh tự giác, có tổ chức, có lãnh đạo, có sự phối hợp giữa các ngành và các địa phương. Sự phát triển cả bề sâu và bề rộng của phong trào trong những năm 1928-1929 đặt ra một yêu cầu bức thiết, đòi hỏi sự lãnh đạo của một chính đảng kiểu mới của giai cấp công nhân, đã dẫn đến sự ra đời của Đông Dương Cộng sản Đảng (thành lập ngày 17-6-1929), An Nam Cộng sản Đảng (tháng 11-1929) và Đông Dương Cộng sản Liên đoàn (ngày 1-1-1930).
(Còn nữa)
Bài 2: Hồ Chí Minh với việc truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam
Đóng
Tự trình chiếu
Dừng trình chiếu
Tin liên quan
Mãi tự hào và sắt son tin yêu
LTS: Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam ngày 3-2-1930 là một bước ngoặt lịch sử của cách mạng Việt Nam. Từ đó đến nay - thực tiễn đất nước trong 90 năm …
Chia sẻ Facebook
Chia sẻ Google Plus
Chia sẻ Twitter
Chia sẻ Zalo
Tới khu vực bình luận
In bài viết
Gửi bài viết
Từ khóa:
Đảng Cộng sản Việt Nam
kỷ niệm 90 năm
Ngày thành lập
mãi tự hào
sắt son tin yêu
TRUYỀN BÁ CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN VÀO VIỆT NAM
Quá trình truyền bá chủ nghĩa Mác - Lê nin vào Việt Nam của Nguyễn Ái Quốc
được bắt đầu từ 1921 và kết quả là sự ra đời một đảng Mác - xít đầu tiên tại Đông
Dương ngày 3/2/1930, kết thúc một thời gian dài khủng hoảng về đường lối tại Việt
Nam, mở ra một thời kỳ mới cho phong trào giải phóng dân t... » Xem thêm
Tóm tắt nội dung tài liệu
- HỒ CHÍ MINH VỚI VIỆC SỬ DỤNG NHỮNG PHƯƠNG TIỆN TRUYỀN BÁ
CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN VÀO VIỆT NAM ( 1921- 1930)
_ Quá trình truyền bá chủ nghĩa Mác - Lê nin vào Việt Nam của Nguyễn Ái Quốc
được bắt đầu từ 1921 và kết quả là sự ra đời một đảng Mác - xít đầu tiên tại Đông
Dương ngày 3/2/1930, kết thúc một thời gian dài khủng hoảng về đường lối tại Việt
Nam, mở ra một thời kỳ mới cho phong trào giải phóng dân tộc(GPDT). Khi nói tới truyền
bá, ta không thể không nhắc tới phương tiện truyền bá (PTTB), đây là vấn đề Nguyễn Ái
Quốc đặc biệt coi trọng, chỉ đứng sau nội dung truyền bá.
Trong QTTB, Người đã tuỳ vào điều kiện, hoàn cảnh cụ thể để sử dụng các loại
PTTB khác nhau, nội dung khác nhau nhằm đạt mục đích đề ra.
Thời kỳ Pari.
Đây là thời kỳ “nặn bệ” cho QTTB của Nguyễn Ái Quốc. Sau khi gia nhập ĐCS
Pháp (12-1920), những PTTB được Người sử dụng ở thời kỳ này chủ yếu là báo chí. Hai
bài đăng trên Tạp chí Cộng sản số 14,15 (1921) là phát súng mở đầu cho QTTB chủ nghĩa
Mác - Lê nin vào Việt Nam. Nội dung những bài đó khẳng định Châu Á, Đông Dương có
đủ điều kiện cho tư tưởng Cộng sản thâm nhập vào: “Đằng sau sự phục tùng tiêu cực,
người Đông Dương dấu một cái gì đang sôi sục, đang gào thét và sẽ bùng nổ một cách
ghê gớm, khi thời cơ đến” . Đây là những văn kiện có tính tranh thủ sự ủng hộ của ĐCS
Pháp trong việc truyền bá chủ nghĩa Mác vào Việt Nam của Người.
Người đã triệt để tận dụng một số tờ báo cánh tả ở Pháp như tờ Nhân Đạo
(L’Humanité), tờ Lavie của Công đoàn Pháp, là những tờ báo có ảnh hưởng sâu rộng trong
quần chúng lao động ở Pháp. Nội dung những bài báo đó đã vạch mặt thực dân Pháp dùng
thủ đoạn lừa bịp nhân dân Đông Dương và nhân dân Pháp. Chúng đã bóc lột, bòn rút, bắt
nhân dân ta làm bia đỡ đạn..., nhưng vẫn rêu rao là “khai hoá văn minh”, “giúp đỡ” các
nước thuộc địa, với bài Dưới cuộc khai hoá cao cả, Bình Đẳng, đã vạch rõ bộ mặt thật
của thực dân Pháp. Ngoài ra bài Quyền của những người lính chiến, đã phơi bày thủ
đoạn xấu xa của thực dân Pháp đối với những gia đình lính Pháp chết trận trong Thế
chiến I (Người viết khoảng 20 bài cho 2 tờ báo này).
Để thuận lợi cho việc truyền bá chủ nghĩa Mác - Lê nin vào các thuộc địa của Pháp,
Nguyễn Ái Quốc tập hợp những nhóm người yêu nước của các nước thuộc địa tại Pháp,
thành lập Hội Liên hiệp thuộc địa và ra một tờ báo riêng của Hội lấy tên là Người cùng
khổ (Leparia), nhằm mục đích tuyên truyền trực tiếp đến các thuộc địa của Pháp trong đó
có Việt Nam, kêu gọi các dân tộc đó đoàn kết lại, đánh thức họ, hướng cho họ một con
đường để lật đổ ách thống trị của Pháp.
Báo Người cùng khổ là PTTB chủ yếu của Người tại Pháp, đã giúp Người tuyên
truyền sâu rộng hơn, trực tiếp hơn cho các dân tộc bị áp bức trong đó có Việt Nam. Bản
- thân Người là cây viết chủ lực, với những bài Thù ghét chủng tộc, Những kẻ đi khai hoá
đã lên án ách cai trị dã man tàn bạo, bóc trần bộ mặt cái gọi là “khai hoá” giả nhân giả
nghĩa của thực dân Pháp với các dân tộc thuộc địa.
Ngoài sử dụng báo chí, Người còn diễn thuyết, viết kịch để cho nhân dân Pháp
hiểu rõ bản sắc dân tộc và con người Việt Nam, tranh thủ sự ủng hộ, thông cảm của
nhân dân tiến bộ Pháp và vạch mặt bọn vua quan bán nước, như vở Con rồng tre, Vi
hành...
Xem những bài báo, sách, tác phẩm của Người thời kỳ này, ta thấy cách sử dụng
PTTB rất bài bản, khoa học, phù hợp với hoàn cảnh, phát huy tác dụng vào mục đích lên
án chủ nghĩa thực dân, thức tỉnh tinh thần dân tộc của nhân dân các nước thuộc địa. Với
những tờ báo cánh tả như L Humanite’, Lavie..., thì đối tượng chủ yếu là nhằm vào nhân
dân tiến bộ Pháp. Còn với tờ Leparia, đối tượng tuyên truyền là các dân tộc bị áp bức
trong đó có Việt Nam, tập trung vào tầng lớp thanh niên, công nhân, học sinh. Đồng chí
Tôn Đức Thắng kể “Anh em công nhân Nam Bộ đã đón tờ báo ấy một cách tha thiết và
chuyền tay nhau đọc đến nỗi mòn cả giấy...”.
Như vậy, PTTB mà Nguyễn Ái Quốc sử dụng ở Pari chủ yếu là báo chí, đã đặt
“nền móng” cho toàn bộ QTTB, tạo tiền đề cho thời kỳ Matxcơva - định hướng con
đường giải phóng dân tộc.
Thời kỳ Matxcơva.
Đây là thời kỳ hoàn thiện nhận thức về chủ nghĩa Mác-Lê nin của Nguyễn Ái
Quốc. Tại đây, Người được đào tạo căn bản, có hệ thống tại trường Đại học Phương
Đông. Do vậy, trên phương diện truyền bá chủ nghĩa Mác - Lê nin vào Việt Nam thời kỳ
này được nhân lên gấp bội, sức tấn công vào chủ nghĩa đế quốc và thực dân ở trên qui
mô lớn hơn.
PTTB mà Người sử dụng ở đây rất đa dạng, ngoài tiếp tục quan hệ với báo chí
cánh tả Pháp và là phóng viên thường trú của Leparia, Người còn sử dụng nhiều loại
PTTB khác: truyền đơn,diễn đàn,sách báo... Nội dung truyền bá đã tăng lên cả về chất và
lượng. Nếu như ở Pari, mục đích của Người là truyền bá để thức tỉnh, thì ở đây mục
đích của Người là giác ngộ dân tộc Việt Nam theo con đường GPDT mà Người đã tiếp
thu, lựa chọn.
Những PTTB ở thời kỳ này là các văn kiện, thư từ của Quốc tế Cộng sản(QTCS)
và của Người nhân danh QTCS gửi nhân dân Việt Nam. Ngoài ra còn truyền đơn, các bài
phát biểu, tham luận tại QTCS, Quốc tế Nông dân, Công hội, Thanh niên... Đáng chú ý là
những tác phẩm “Trung Quốc và Thanh niên Trung Quốc”, đặc biệt là cuốn “Bản án chế
độ thực dân Pháp” đã được xuất bản. Đây là bước ngoặt quan trọng trong QTTB của
Nguyễn Ái Quốc, kể từ đây công việc truyền bá tư tưởng cộng sản vào Việt Nam chính
- thức là nhiệm vụ của QTCS thông qua Người và cũng là bước phát triển quan trọng trong
sử dụng PTTB.
Nghệ thuật kết hợp, sử dụng các loại PTTB cả mới và cũ của Người ở thời kỳ
Matxcơva là khá toàn diện, chĩa mũi dùi sắc bén hơn vào thực dân Pháp và từ thức tỉnh
nâng lên giác ngộ nhân dân Việt Nam về con đường GPDT:
- Vẫn tiếp tục sử dụng một số tờ báo ở Pháp như LHumanite’, Lavie, Leparia, bước đầu
giác ngộ nhân dân Việt Nam đến với tư tưởng cộng sản như bài “Lê nin và các dân tộc
phương Đông” đăng trên Leparia số 27 năm 1924, bài “Cách mạng Nga và các dân tộc
thuộc địa” đăng trên Lavie số 20 năm 1924. Nếu như ở Pari, những bài báo của Người tập
trung vào lên án thực dân Pháp, thì ở đây Người vẫn tiếp tục lên án mạnh mẽ, toàn diện
hơn và bước đầu giác ngộ nhân dân Việt Nam đến gần hơn với tư tưởng cộng sản.
- Truyền đơn là PTTB mới có tác dụng, hiệu quả sâu rộng trong QTTB, tác động đến
phong trào yêu nước, phong trào công nhân ở trong nước phát triển mạnh mẽ. Những bài
phát biểu, tham luận của Người đã tranh thủ được sự hỗ trợ, ủng hộ của bạn bè yêu
chuộng hoà bình trên thế giới trong cuộc đấu tranh GPDT của nhân dân Việt Nam.
Những PTTB tư tưởng cộng sản vào Việt Nam thời kỳ Matxcơva đã hoàn tất
những mục đích, yêu cầu của Người đặt ra, đó là tiếp tục tố cáo thực dân Pháp một cách
có hệ thống, hoàn chỉnh hơn; bước đầu giác ngộ chủ nghĩa Mác - Lê nin cho nhân dân
Việt Nam; tìm được sự ủng hộ của bạn bè trên thế giới. Do vậy, trước khi rời Pháp năm
1923, Người viết: “Đối với tôi, câu trả lời đã rõ ràng:trở về nước, đi vào quần chúng,
thức tỉnh họ, tổ chức họ, đoàn kết họ, đưa họ ra đấu tranh giành tự do độc lập” . Thời kỳ
Matcơva đã tạo tiền đề vững chắc cho QTTB chủ nghĩa Mác vào Việt Nam ở thời kỳ
Quảng Châu lên đến đỉnh cao.
Thời kỳ Quảng Châu - Đông Bắc Xiêm.
Tháng 11-1924, Nguyễn Ái Quốc được Quốc tế cộng sản cử về Quảng Châu với
nhiệm vụ chính là xúc tiến kế hoạch xây dựng một tổ chức cộng sản ở Đông Dương.
QTTB chủ nghĩa Mác - Lê nin vào Việt Nam của Người đã đến lúc đơm hoa kết trái.
Nếu như ở Pari và Matxcơva, những PTTB mà Người sử dụng đã giúp cho nhân
dân Việt Nam thức tỉnh, giác ngộ tư tưởng cộng sản. Thì ở Quảng Châu, yêu cầu đặt ra
với Người là phải tạo ra những điều kiện cần thiết để xây dựng một đảng mác xít ở
Việt Nam.
PTTB mà Người sử dụng ở thời kỳ này đã đạt đến “đỉnh cao” về nghệ thuật sử
dụng. Nếu như hai thời kỳ trước, Người sử dụng những PTTB sách, báo, truyền đơn,
diễn thuyết..., thì ở Quảng Châu Người đã sử dụng PTTB mới có tính quyết định cho
việc ra đời tổ chức tiền thân của Đảng: thành lập Cộng sản đoàn làm hạt nhân, mở các
lớp huấn luyện chính trị, thành lập Việt Nam cách mạng Thanh niên( VNCMTN), gửi
người đi học nước ngoài.
- Quá trình đào tạo, huấn luyện những thanh niên yêu nước kéo dài từ 1925-1927, tất
cả có 10 lớp. Học xong đại đa số được kết nạp vào VNCMTN và được cử về nước hoặc
sang Xiêm hoạt động. Thực chất những học viên này vừa là hạt nhân lãnh đạo cách mạng
sau này, vừa là PTTB sống có vai trò quyết định trong QTTB chủ nghĩa Mác vào Việt
Nam.
Như vậy, thời kỳ Quảng Châu, Nguyễn Ái Quốc truyền bá tư tưởng cộng sản
thông qua một tổ chức thanh niên theo khuynh hướng mác xít. Qua những PTTB sống này,
tư tưởng cộng sản đã len lỏi đến các tầng lớp nhân dân, chủ yếu là nông dân, công nhân,
thanh niên, học sinh... PTTB này có ưu thế hơn hẳn các PTTB khác ở chỗ: tiếp cận trực
tiếp với mọi tầng lớp trong xã hội, kể cả người không biết chữ; có thể giải thích ngay
những thắc mắc cho đối tượng được tuyên truyền; có thể tổ chức ngay những nhóm cách
mạng ở trong nước...
QTTB chủ nghĩa Mác-Lê nin ở Quảng Châu-Đông Bắc Xiêm của Người vẫn là sự
kết hợp, phát huy cả PTTB mới và cũ một cách toàn diện, qui mô hơn.
Tiếp tục sử dụng sách, báo chí, nhưng khác hai thời kỳ trước ở chỗ là tập trung vào
mục đích duy nhất: truyền bá tư tưởng cộng sản vào trong nước. Người và học trò đã cho
ra nhiều tờ báo tiếng Việt, nhằm vào nhiều đối tượng khác nhau, như tờ Thanh Niên,
Công Nông, Tiền Phong, Nguyệt san lính cách mạng..., nhưng tiêu biểu nhất vẫn là tờ
Thanh Niên, cơ quan ngôn luận của VNCMTN. Tờ này đã phân tích, chứng minh những
luận điểm về chủ nghĩa cộng sản khoa học, Đảng cách mạng kiểu mới của giai cấp vô
sản: “Hỡi đồng bào thân mến, như vậy chỉ có một con đường chân chính là phải theo cái
đảng duy nhất kiên quyết trong hành động, đó là Đảng cộng sản” . Ngoài ra, tờ Công
Nông nhằm vào công nhân và nông dân, tờ Lính cách mạng chuyên dành cho binh sĩ người
Việt trong quân đội Pháp.
Ngoài báo chí, còn phải kể đến cuốn Đường cách mệnh của Người được xuất bản
năm 1927. Nếu như cuốn Bản án chế độ thực dân tập trung vào vạch mặt, tố cáo và làm
cho đồng bào hiểu rõ bộ mặt giả nhân giả nghĩa của thực dân Pháp, thì Đường cách
mệnh đã vạch ra con đường đấu tranh giành độc lập cho dân tộc.
Các PTTB thời kỳ này đã góp phần quan trọng vào chuẩn bị về tư tưởng, chính trị,
tổ chức và tiến tới thành lập một chính đảng sau này. Báo Thanh Niên, cuốn Đường cách
mệnh và một số tờ báo khác được phổ biến khắp trong nước, được tổ chức in lại nhiều
lần nhằm tăng bản phát hành. Đặc biệt, PTTB sống giữ vai trò đặc biệt quan trọng trong
QTTB ở thời kỳ này.
Sau Quảng châu, tại Xiêm Người tiếp tục mở các lớp huấn luyện chính trị, đổi tên
tờ báo Đồng Thanh thành tờ Thân ái, dịch một loạt tác phẩm kinh điển nhằm truyền bá
sâu rộng hơn nữa tư tưởng cộng sản: Nhân loại tiến sử hoá, Chủ nghĩa cộng sản ABC;
- Tuyên ngôn Đảng cộng sản... Ở đây thể hiện trình độ, nhận thức lớp học trò của Người
đã tiến bộ rõ rệt.
Tóm lại, QTTB chủ nghĩa Mác - Lê nin vào Việt Nam của Nguyễn Ái Quốc là cả
một quá trình, có sự chuẩn bị kỹ lưỡng về mọi mặt, có hệ thống, tổ chức và phát triển từ
đơn giản đến phức tạp, liên tục từ 1921 đến khi ĐCSVN ra đời 3/2/1930.
Qua những PTTB tư tưởng cộng sản vào Việt Nam mà Nguyễn Ái Quốc sử dụng
từ 1921- 1930, có thể rút ra một số nhận xét sau:
Một là, triệt để khai thác các loại PTTB của các thời kỳ một cách toàn diện nhằm đạt
hiệu quả cao nhất trong QTTB chủ nghĩa Mác - Lê nin vào Việt Nam. Trong mỗi thời kỳ,
Nguyễn Ái Quốc đều kết hợp nhuần nhuyễn các PTTB cũ, mới một cách hợp lý, khoa
học và phù hợp với hoàn cảnh thực tiễn. Trong sử dụng, Người đã nắm bắt thấu đáo vai
trò, ảnh hưởng của từng loại phương tiện trong QTTB. Ví dụ thời kỳ Pa ri, các báo cánh
tả Pháp nhằm mục đích tranh thủ sự ủng hộ của nhân dân tiến bộ Pháp; với Tạp chí
cộng sản, Người đã gióng hồi chuông báo động để phong trào cộng sản quốc tế chú ý,
quan tâm đến Đông Dương hơn nữa trong việc truyền bá tư tưởng cộng sản đến đây.
Hai là, nội dung truyền bá phù hợp với nhận thức của nhân dân Việt Nam qua từng thời
kỳ. Có thể nói, phương thức truyền bá tư tưởng cộng sản của Nguyễn Ái Quốc vào Việt
Nam là khác với các nước Châu Âu, đó là sự cách biệt về trình độ nhận thức giữa Á và
Âu. Do vậy, QTTB vào Việt Nam phải có trình tự, từ thấp đến cao, từ đơn giản đến
phức tạp: ở Pa ri là quá trình nhận thức, ở Matxcơva là quá trình giác ngộ, ở Quảng Châu
- Đông Bắc Xiêm là quá trình hành động. Nếu thiếu một trong ba trình tự trên thì QTTB
tư tưởng cộng sản vào Việt Nam sẽ bị khập khiễng, thiếu hụt và có thể sẽ thất bại.
Sự đánh giá chính xác trình độ nhận thức của Nguyễn Ái Quốc với đối tượng được
truyền bá qua từng thời kỳ trong QTTB chủ nghĩa Mác-Lê nin vào Việt Nam đã giúp
Người thành công viên mãn.
Ba là, qua các thời kỳ trong QTTB, Người đều đưa vào những loại PTTB mới cho phù
hợp với thực tiễn khách quan và nâng cao chất lượng truyền bá, như truyền đơn ở
Matxcova, phương tiện tuyên truyền sống ở Quảng Châu...Đối với PTTB cũ, không
những Người vẫn tiếp tục sử dụng mà còn tăng thêm “ liều lượng” nhằm tạo sức mạnh
tổng hợp cho QTTB chủ nghĩa Mác- Lê nin vào Việt Nam.
Bốn là, đối tượng truyền bá chủ yếu là thanh niên yêu nước. Hiểu rõ trình độ dân trí ở
nước ta rất thấp do chính sách ngu dân của thực dân Pháp, cộng với tư tưởng phong kiến
cổ hủ và trì trệ - đây là thách thức lớn với QTTB tư tưởng cộng sản vào nước ta. Nhưng
với sự mẫn cảm tuyệt vời, Nguyễn Ái Quốc đã thấu được sức mạnh to lớn của lớp trẻ
trong sự nghiệp cách mạng: họ là những thanh niên yêu nước, đầy lòng quả cảm và nhiệt
huyết, có trình độ nhận thức nhất định sẵn sàng tiếp thu những tư tưởng mới. Chính vì
vậy, Người đã mở hàng loạt lớp huấn luyện tại Quảng Châu, thành lập VNCMTN, ra
- Báo Thanh niên nhằm mục đích tập hợp, giáo dục, rèn luyện họ đi theo con đường mà
Người lựa chọn. Lực lượng thanh niên đó, qua “ trường học của Người” đã trưởng thành
nhanh chóng, trở thành những PTTB sống đem những tư tưởng tiên tiến của thời đại gieo
mầm ở Việt Nam bất chấp sự kiểm soát gắt gao của thực dân Pháp, nhằm chuẩn bị
những tiền đề căn bản để tiến tới thành lập chính Đảng của giai cấp vô sản Việt Nam
vào ngày 3/2/1930.
Cho đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam đã trải qua chặng đường 76 năm lãnh đạo,
xây dựng, phát triển đất nước, những kinh nghiệm quí báu của Chủ tịch Hồ Chí Minh
trong sử dụng các PTTB chủ nghĩa Mác-Lê nin vào nước ta những năm 1921-1930 vẫn
còn nguyên giá trị lý luận, thực tiễn sâu sắc đối với Đảng ta trong vận dụng lãnh đạo, chỉ
đạo, quản lý báo chí phục vụ có hiệu quả công cuộc đổi mới đất nước theo định hướng
XHCN hiện nay.
Ths. Nguyễn Ngọc Thanh
Thực dân pháp đã ngăn cản như thế nào?
-Thực hiện chính sách kìm hãm và nô dịch về VH, thi hành chính sách ngu dân để dễ bề
thống trị : Khuyến khíchVH độc hại; Bưng bít, ngăn cản ảnh hưởng VH tiến bộ trên TG
vào VN; Dùng rượu cồn, thuốc phiện... ru ngủ các tầng lớp nd, khuyến khích các hoạt
động mê tín dị đoan...
-theo sắc lệnh năm 1898, báo chí bản xứ phải chịu kiểm duyệt trước khi in.
Sắc lệnh đó viết: "Việc lưu hành báo chí bất cứ bằng thứ tiếng gì, đều có thể bị cấm do
nghị định của quan toàn quyền.
"Báo tiếng Việt không được xuất bản, nếu không được phép của quan toàn quyền. Giấy
phép chỉ cấp với điều kiện là các bài báo phải được quan thống đốc duyệt trước. Giấy
phép ấy có thể rút lúc nào cũng được.
- Đàn áp các tầng lớp tham gia truyền bá chủ nghĩa mac-lênin,bắt bớ,giết chóc...
"Mọi cuộc trưng bày hoặc phổ biến những bài hát, biếm hoạ hoặc tranh ảnh làm thương
tổn đến sự tôn kính đối với các nhà cầm quyền đều bị trừng trị".
Cau 2:
Đối với sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam và phong trào cách mạng Việt Nam, Quốc
tế Cộng sản có vai trò, công lao to lớn. Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc từ nhà yêu nước chân
- chính trở thành một chiến sĩ quốc tế lỗi lạc trong bộ máy của Quốc tế Cộng sản, được
Quốc tế Cộng sản chỉ định là Ủy viên thường trực Bộ Phương Đông, trực tiếp phụ trách
Cục Phương Nam. Trường đại học Phương Đông, viện nghiên cứu các vấn đề dân tộc và
thuộc địa, Trường Quốc tế Lênin và các cơ quan khác của Quốc tế Cộng sản từ năm 1923
đến 1938 đã đào tạo hơn 70 nhà cách mạng Việt Nam, ngoài Nguyễn Ái Quốc còn có Trần
Phú, Lê Hồng Phong, Hà Huy Tập, Nguyễn Thị Minh Khai, Nguyễn Văn Tạo, Bùi Công
Trừng, Nguyễn Thế Rục, ... Khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời trong bước đầu xây
dựng đường lối chiến lược của mình, Đảng ta luôn có sự giúp đỡ trực tiếp, chí nghĩa chí
tình của các đồng chí chủ chốt trong Bộ Phương Đông của Quốc tế Cộng sản như các
đồng chí Cưu xi nhen, Tôgli atti, Ma minxki, Gốt van, Mácty và trực tiếp nhất là đồng chí
Va xi li ê va, Trưởng phòng Đông Dương. Tiếp thu và vận dụng học thuyết Mác-Lênin, chỉ
thị, nghị quyết của Quốc tế Cộng sản, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc khởi thảo các văn kiện có
tính cương lĩnh đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam. Trong các văn kiện đó, Điều lệ
tóm tắt của Đảng chỉ rõ: “Phải thực hành cho được chính sách và nghị quyết của Đảng và
Quốc tế Cộng sản”, chương trình tóm tắt của Đảng có nội dung “Liên kết với những dân
tộc bị áp bức và quần chúng vô sản trên thế giới”. Ngày 18-2-1930, báo cáo gửi Quốc tế
cộng sản về việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã viết:
“Chúng tôi cùng nhau xác định cương lĩnh và chiến lược theo đường lối của Quốc tế Cộng
sản”.
Ngày nay, có kẻ muốn xóa sạch lịch sử Quốc tế Cộng sản, nhưng sự thật lịch sử là cái
không ai phủ nhận được. Quốc tế Cộng sản là một trong những sự kiện lịch sử lớn bậc
nhất của thế kỷ XX. Quốc tế Cộng sản xứng đáng là “Bộ tham mưu” của cách mạng thế
giới giữa hai cuộc đại chiến thế giới. Thực hiện khẩu hiệu “Vô sản giai cấp và dân tộc bị
áp bức trong thế giới liên hiệp lại”, Quốc tế Cộng sản có sứ mệnh và công lao to lớn trong
sự nghiệp tổ chức và lãnh đạo phong trào cộng sản, phong trào công nhân, phong trào giải
phóng dân tộc trên thế giới, trong đó có phong trào cách mạng Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã xác định và nhấn mạnh “Đệ tam quốc tế là một Đảng Cộng sản thế giới. Các
đảng các nước là như chi bộ, đều phải nghe theo kế hoạch và quy tắc chung. Việc gì chưa
có mệnh lệnh và kế hoạch Đệ tam quốc tế thì các đảng không được làm”. Chủ tịch Hồ Chí
Minh còn chỉ rõ “Đệ tam quốc tế chủ trương đạp đổ tư bản làm thế giới cách mạng,... giúp
dân thuộc địa chống lại đế quốc chủ nghĩa, ... dạy cho vô sản giai cấp trong thế giới-bất kỳ
nòi giống nào, nghề nghiệp gì, tôn giáo gì- hợp sức làm cách mệnh”.
Tuy có những hạn chế khó tránh khỏi, nhưng đối với cách mạng Việt Nam, Quốc tế Cộng
sản có ảnh hưởng và đóng góp rất to lớn. Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã tìm thấy con đường
cứu nước đúng đắn cho cách mạng Việt Nam thông qua đường lối và chương trình hành
động của Quốc tế Cộng sản. Quốc tế Cộng sản đã tạo điều kiện thuận lợi cho những
người cộng sản Việt Nam nghiên cứu, khảo sát thực tế, học tập kinh nghiệm của các đảng
cộng sản và phong trào cách mạng ở các nước; đồng thời đã tích cực giúp đỡ, chuẩn bị các
điều kiện thuận lợi cho việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, đào tạo cho cách mạng
Việt Nam một đội ngũ cán bộ nắm vững những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lê-
nin, có đạo đức và tinh thần cách mạng cao, là những hạt giống quý báu của cách mạng
Việt Nam. Nhờ đó, Đảng ta đã từng bước trưởng thành vững chắc về lý luận cách mạng,
đã lãnh đạo cách mạng Việt Nam giành được nhiều thắng lợi to lớn.
Câu 3:
- Đối với sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam và phong trào cách mạng Việt Nam, Quốc
tế Cộng sản có vai trò, công lao to lớn. Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc từ nhà yêu nước chân
chính trở thành một chiến sĩ quốc tế lỗi lạc trong bộ máy của Quốc tế Cộng sản, được
Quốc tế Cộng sản chỉ định là Ủy viên thường trực Bộ Phương Đông, trực tiếp phụ trách
Cục Phương Nam. Trường đại học Phương Đông, viện nghiên cứu các vấn đề dân tộc và
thuộc địa, Trường Quốc tế Lênin và các cơ quan khác của Quốc tế Cộng sản từ năm 1923
đến 1938 đã đào tạo hơn 70 nhà cách mạng Việt Nam, ngoài Nguyễn Ái Quốc còn có Trần
Phú, Lê Hồng Phong, Hà Huy Tập, Nguyễn Thị Minh Khai, Nguyễn Văn Tạo, Bùi Công
Trừng, Nguyễn Thế Rục, ... Khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời trong bước đầu xây
dựng đường lối chiến lược của mình, Đảng ta luôn có sự giúp đỡ trực tiếp, chí nghĩa chí
tình của các đồng chí chủ chốt trong Bộ Phương Đông của Quốc tế Cộng sản như các
đồng chí Cưu xi nhen, Tôgli atti, Ma minxki, Gốt van, Mácty và trực tiếp nhất là đồng chí
Va xi li ê va, Trưởng phòng Đông Dương. Tiếp thu và vận dụng học thuyết Mác-Lênin, chỉ
thị, nghị quyết của Quốc tế Cộng sản, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc khởi thảo các văn kiện có
tính cương lĩnh đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam. Trong các văn kiện đó, Điều lệ
tóm tắt của Đảng chỉ rõ: “Phải thực hành cho được chính sách và nghị quyết của Đảng và
Quốc tế Cộng sản”, chương trình tóm tắt của Đảng có nội dung “Liên kết với những dân
tộc bị áp bức và quần chúng vô sản trên thế giới”. Ngày 18-2-1930, báo cáo gửi Quốc tế
cộng sản về việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã viết:
“Chúng tôi cùng nhau xác định cương lĩnh và chiến lược theo đường lối của Quốc tế Cộng
sản”.
Ngày nay, có kẻ muốn xóa sạch lịch sử Quốc tế Cộng sản, nhưng sự thật lịch sử là cái
không ai phủ nhận được. Quốc tế Cộng sản là một trong những sự kiện lịch sử lớn bậc
nhất của thế kỷ XX. Quốc tế Cộng sản xứng đáng là “Bộ tham mưu” của cách mạng thế
giới giữa hai cuộc đại chiến thế giới. Thực hiện khẩu hiệu “Vô sản giai cấp và dân tộc bị
áp bức trong thế giới liên hiệp lại”, Quốc tế Cộng sản có sứ mệnh và công lao to lớn trong
sự nghiệp tổ chức và lãnh đạo phong trào cộng sản, phong trào công nhân, phong trào giải
phóng dân tộc trên thế giới, trong đó có phong trào cách mạng Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã xác định và nhấn mạnh “Đệ tam quốc tế là một Đảng Cộng sản thế giới. Các
đảng các nước là như chi bộ, đều phải nghe theo kế hoạch và quy tắc chung. Việc gì chưa
có mệnh lệnh và kế hoạch Đệ tam quốc tế thì các đảng không được làm”. Chủ tịch Hồ Chí
Minh còn chỉ rõ “Đệ tam quốc tế chủ trương đạp đổ tư bản làm thế giới cách mạng,... giúp
dân thuộc địa chống lại đế quốc chủ nghĩa, ... dạy cho vô sản giai cấp trong thế giới-bất kỳ
nòi giống nào, nghề nghiệp gì, tôn giáo gì- hợp sức làm cách mệnh”.
Tuy có những hạn chế khó tránh khỏi, nhưng đối với cách mạng Việt Nam, Quốc tế Cộng
sản có ảnh hưởng và đóng góp rất to lớn. Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã tìm thấy con đường
cứu nước đúng đắn cho cách mạng Việt Nam thông qua đường lối và chương trình hành
động của Quốc tế Cộng sản. Quốc tế Cộng sản đã tạo điều kiện thuận lợi cho những
người cộng sản Việt Nam nghiên cứu, khảo sát thực tế, học tập kinh nghiệm của các đảng
cộng sản và phong trào cách mạng ở các nước; đồng thời đã tích cực giúp đỡ, chuẩn bị các
điều kiện thuận lợi cho việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, đào tạo cho cách mạng
Việt Nam một đội ngũ cán bộ nắm vững những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lê-
nin, có đạo đức và tinh thần cách mạng cao, là những hạt giống quý báu của cách mạng
Việt Nam. Nhờ đó, Đảng ta đã từng bước trưởng thành vững chắc về lý luận cách mạng,
đã lãnh đạo cách mạng Việt Nam giành được nhiều thắng lợi to lớn.
- PHAN THANH VỚI HOẠT ĐỘNG NGHỊ TRƯỜNG
Monday, 4th May 2009
GS Đinh Xuân Lâm
Nghiên cứu, tìm hiểu cuộc đời hoạt động yêu nước cách mạng của nhà trí thức tiêu biểu
Phan Thanh, trước hết cần nắm vững các đặc điểm của thời đại ông sống và hoạt động.
Đó là thời kỳ vận động dân chủ của những năm 1936 - 1939, một thời kỳ quan trọng của
lịch sử dân tộc đã tạo nên một bước chuyển cho cách mạng Việt Nam từ chỗ thoái trào trở
thành một cao trào mạnh mẽ và sâu rộng. Thời kỳ 1936 - 1939 là cuộc tổng diễn tập thứ hai
thông qua đấu tranh công khai, nghị trường tiến tới Tổng Khởi nghĩa Cách mạng Tháng
Tám năm 1945 thắng lợi.
Cuộc vận động dân chủ trong những năm 1936 - 1939 đã diễn ra trong một bối cảnh đặc
biệt, khi tình hình kinh tế thế giới và trong nước đã ảnh hưởng sâu sắc và trực tiếp đến
Cách mạng Việt Nam, Mặt trận Dân chủ Đông Dương và phong trào đấu tranh đòi tự do,
dân chủ cùng cuộc vận động dân chủ đang trên đà phát triển đã ảnh hưởng tích cực đến
Cách mạng Việt Nam.
Cuộc vận động dân chủ 1936 - 1939 là một cao trào Cách mạng dân tộc, dân chủ rộng lớn.
Qua cao trào, trình độ chính trị và công tác của cán bộ và Đảng viên được nâng cao, uy tín
và ảnh hưởng của Đảng được mở rộng và thấm sâu trong nhân dân, chủ nghĩa Mác - Lênin
cũng như đường lối, chính sách của Đảng, của Quốc tế Cộng sản được phổ biến, tuyên
truyền và giáo dục sâu rộng. Các sách báo của Đảng và của Mặt trận Dân chủ đã có tác
dụng lớn trong việc động viên, giáo dục, tổ chức và lãnh đạo quần chúng đấu tranh, đồng
thời đập tan những luận điệu tuyên truyền, xuyên tạc và những hành động phá hoại của bè
lũ phản động, làm cho chúng càng bị cô lập. Trong hoàn cảnh đó, tổ chức của Đảng đã
được củng cố và phát triển. Đội quân chính trị quần chúng gồm hàng triệu người ở thành
thị và nông thôn được Đảng tập hợp, xây dựng, giáo dục, đồng thời cũng bồi dưỡng được
một đội ngũ cán bộ Cách mạng đông đảo, dày dạn trong đấu tranh, có nhiều kinh nghiệm.
Trên đây là vài nét về bối cảnh chung của thời đại trong đó Phan Thanh sống và hoạt động.
Trong một bối cảnh rất thuận lợi để tiến hành đấu tranh như vậy, bản thân người chiến sĩ
là Phan Thanh cũng đã hội đủ những đức tính cần thiết, phải có và đã có.
Nói về nhà trí thức yêu nước Cách mạng Phan Thanh có thể khẳng định rằng, ông đã được
chuẩn bị sớm và vững chãi về tư tưởng, tình cảm, thái độ cho cuộc đấu tranh trong một
môi trường và bối cảnh lịch sử như vậy. Có thể căn cứ vào câu phát biểu của ông tại Hội
đồng Thành phố Hà Nội ngày 19/12/1938 để thấy rõ mục tiêu hành động của ông đã được
xác định dứt khoát từ đầu:
"Nếu làm chính trị là đòi hỏi một sự công bằng xã hội lớn hơn, là tố cáo trong một cuộc
họp bất kỳ nào đó những đặc lợi đáng phẫn nộ không thể biện minh được là bảo vệ lợi ích
của những người lao động, những người thợ, người làm công, những viên chức, những
tiểu thương, tiểu chủ, của những người cùng khổ mà người ta còn chưa nhận thức đầy đủ
những giá trị và quyền của họ, thế thì thưa các ngài, chúng tôi không sợ gì để nói là chúng
tôi sẽ kiên quyết làm chính trị".
Và sự thật thì Phan Thanh đã làm đúng như đã nói. Cho nên có thể xem đây là một tuyên
ngôn chính trị của Phan Thanh, và rõ ràng là Phan Thanh đã thực hiện đúng với lời tuyên
ngôn của mình từ những ngày đầu bước chân vào con đường hoạt động Cách mạng cho tới
ngày từ giã cõi đời bì bạo bệnh. Rõ ràng là thời thế tạo anh hùng, nhưng trong trường hợp
Phan Thanh thì chính thời thế cũng tạo ra phương pháp hoạt động trong môi trường hoạt
- động mới. Trong cuộc đời yêu nước Cách mạng của mình, Phan Thanh chủ yếu hoạt động
nghị trường, trực tiếp trình bày và tranh luận với đối phương. Với các ưu điểm nổi trội của
mình, ông vừa là một nhà báo, một cây bút lành nghề và lão luyện, một nhà giáo giỏi đầy uy
tín, một chính khách sắc sảo, hùng biện và dũng cảm trong đấu tranh công khai trên nghị
trường để bảo vệ không mệt mỏi quyền lợi của quần chúng lao động và các dân tộc Đông
Dương. Nhờ vào tài năng, nhân cách và uy tín, ông đã trở thành một chiến sĩ xã hội trụ cột
của phong trào dân chủ, thực hiện một cách xuất sắc chủ trương, đường lối của Đảng
Cộng sản, và vì vậy đã đóng vai trò cầu nối giữa những người xã hội (ông là Đảng viên
Đảng Xã hội) với những người Cộng sản và dân chúng cần lao, nên đã được suy tôn danh
hiệu cao quý là "người chiến sĩ của dân chúng".
Thiết tưởng đó là lời đánh giá công minh và tốt đẹp nhất đối với một nhà trí thức chân
chính.
Những tư liệu được sử dụng trong cuốn sách khá phong phú, tin cậy, góp phần khẳng định sự đúng đắn của con đường cách mạng do Chủ tịch Hồ Chí Minh vạch ra và dẫn dắt nhân dân ta đến thắng lợi ngày nay. Cuốn sách của PGS, TS. Phạm Xanh, là tài liệu tham khảo quý cho những ai quan tâm đến hành trình cứu nước của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Sách gồm 252 trang, giá 35.000đ.
PHẠM THỊ THINH
Một số hình ảnh
|