Nguyên nhân gây bệnh ung thư thực quản

  • 1. Siegel RL, Miller KD, Jemal A: Cancer statistics, 2020. CA Cancer J Clin 70(1):7–30, 2020. doi: 10.3322/caac.21590

Các yếu tố nguy cơ chính của ung thư thực quản

  • Uống rượu

  • Hút thuốc lá (dưới bất kỳ hình thức nào)

Các yếu tố nguy cơ khácbao gồm co thắt tâm vị Co thắt tâm vị Co thắt tâm vị là một tình trạng rối loạn nhu động thực quản do thần kinh sinh ra, có biểu hiện là không có nhu động thực quản và không giãn cơ thắt thực quản dưới trong quá trình nuốt. Triệu... đọc thêm , nhiễm papillomavirus ở người, Nhiễm vi rút gây u nhú ở người Vi rút u nhú ở người (HPV) gây ra mụn cóc. Một số loại gây ra mụn cóc da, và các loại khác gây ra mụn cóc sinh dục tăng hoặc phẳng (tổn thương da hoặc niêm mạc của bộ phận sinh dục). Nhiễm một... đọc thêm

Nguyên nhân gây bệnh ung thư thực quản
uống phải dung dịch kiềm (gây hẹp thực quản), tiêm xơ, lưới thực quản do hội chứng Plummer-Vinson Lưới thực quản Lưới thực quản là một lớp niêm mạc mỏng phát triển qua lòng thực quản và có thể gây khó nuốt. (Xem thêm Tổng quan các tình trạng bất thường ở thực quản và các vấn đề về nuốt.) Một mạng lưới... đọc thêm
Nguyên nhân gây bệnh ung thư thực quản
, chiếu xạ thực quản và. Nguyên nhân di truyền không rõ ràng, nhưng 50% số bệnh nhân mắc chứng bệnh u mỡ (dày sừng gan bàn tay-bàn chân), một rối loạn gen trội trên nhiễm sắc thể thường, bị ung thư thực quản ở tuổi 45 và 95% mắc bệnh này ở tuổi 55.

  • 1. Patel N, Benipal B: Incidence of esophageal cancer in the United States from 2001-2015: A United States cancer statistics analysis of 50 states. Cureus 10(12):e3709, 2018. doi: 10.7759/cureus.3709

Ung thư biểu mô tuyến thường gặp ở đoạn xa thực quản. Tỷ lệ mắc bệnh của nó ngày càng tăng; nó chiếm 2/3 số trường hợp ung thư biểu mô thực quản ở Hoa Kỳ. Tỷ lệ mắc bệnh ở người da trắng cao gấp 4 lần so với người da đen. Rượu không phải là một yếu tố nguy cơ quan trọng, nhưng hút thuốc lá là yếu tố góp phần gây bệnh. Ung thư biểu mô tuyến thực quản ở đoạn xa khó phân biệt với ung thư biểu mô vùng tâm vị dạ dày xâm lấn đoạn xa thực quản.

Các khối u ác tính ít gặp hơn bao gồm ung thư biểu mô tế bào hình thoi (một biến thể kém biệt hóa của ung thư biểu mô tế bào vảy), u mụn cóc (một biến thể biệt hóa cao của ung thư biểu mô tế bào vảy), giả sarcoma, ung thư biểu mô dạng nhầy bì, ung thư biểu mô tuyến vảy, u hình trụ (ung thư biểu mô nang dạng tuyến) ung thư biểu mô tế bào yến mạch nguyên phát, ung thư biêu mô màng đệm, u carcinoid Tổng quan về U carcinoid Các khối u carcinoid phát triển từ các tế bào nội tiết thần kinh trong đường tiêu hóa (90%), tụy, phế quản phổi và hiếm khi ở hệ tiết niệu sinh dục. Hơn 95% các u carcinoid đường tiêu hóa chỉ... đọc thêm , sarcoma và u melanin ác tính nguyên phát Ung thư hắc tố U sắc tố ác tính phát sinh từ các tế bào sắc tố trong một vùng có màu sắc (ví dụ da, niêm mạc, mắt hoặc hệ thần kinh trung ương). Di căn liên quan đến độ sâu của sự xâm nhập trong trung bì.... đọc thêm

Nguyên nhân gây bệnh ung thư thực quản
.

Ung thư di căn chiếm 3% số ung thư thực quản. U melanin và ung thư vú có nhiều khả năng di căn vào thực quản; các loại ung thư khác bao gồm ung thư đầu và cổ, phổi, dạ dày, gan, thận, tuyến tiền liệt, tinh hoàn và xương. Những khối u này thường tạo ra ở các mô liên kết lỏng lẻo xung quanh thực quản, trong khi các bệnh ung thư thực quản nguyên phát bắt đầu ở niêm mạc hoặc dưới niêm mạc.

Các triệu chứng và dấu hiệu của ung thư thực quản

Sút cân ngay cả khi bệnh nhân vẫn ăn ngon miệng, hầu như là phổ biến. Chèn ép dây thần kinh thanh quản quặt ngược có thể dẫn đến liệt dây thanh quản và khàn tiếng. Chèn ép thần kinh có thể gây đau cột sống, nấc, hoặc liệt cơ hoành. Tràn dịch màng phổi ác tính hoặc di căn phổi có thể gây khó thở. Tình trạng xâm lấn của khối u trong lòng thực quản có thể gây nuốt đau, nôn, nôn ra máu, đại tiện phân đen, thiếu máu thiếu sắt, hít phải và ho. Rò giữa thực quản và khí-phế quản có thể gây ra áp xe phổi và viêm phổi. Các dấu hiệu khác bao gồm hội chứng tĩnh mạch chủ trên, cổ chướng ác tính và đau xương.

Lan rộng đến hạch bạch huyết vùng tĩnh mạch cảnh trong, vùng cổ, thượng đòn, trung thất và ổ bụng. Khối u thường di căn đến phổi và gan và đôi khi đến các vị trí xa (ví dụ như xương, tim, não, tuyến thượng thận, thận, phúc mạc).

  • Nội soi có sinh thiết

  • Sau đó chụp CT và siêu âm nội soi

Không có xét nghiệm sàng lọc. Bệnh nhân nghi ngờ bị ung thư thực quản nên có nội soi kèm theo xét nghiệm tế bào học và sinh thiết. Mặc dù chụp X-quang thực quản có barit có thể cho thấy một tổn thương tắc nghẽn, nhưng vẫn cần phải nội soi để sinh thiết và chẩn đoán mô bệnh học.

Những bệnh nhân mà ung thư thực quản được xác định cần chụp CT ngực và bụng để xác định mức độ lan rộng khối u. Nếu kết quả CT không thấy di căn, cần phải thực hiện siêu âm nội soi để xác định độ sâu của khối u ở thành thực quản và sự liên quan của hạch bạch huyết theo vùng. Các kết quả thu được giúp hướng dẫn điều trị và giúp xác định tiên lượng.

Nên làm các xét nghiệm máu cơ bản, bao gồm công thức máu, điện giải và chức năng gan.

Tiên lượng phụ thuộc rất nhiều vào giai đoạn, nhưng nói chung tiên lượng xấu (tỷ lệ sống 5 năm: < 5%) vì nhiều bệnh nhân có biểu hiện khi bệnh đã tiến triển. Bệnh nhân bị ung thư giới hạn ở niêm mạc có tỷ lệ sống thêm khoảng 80%, tỷ lệ này giảm xuống < 50% khi có tổn thương ở lớp dưới niêm mạc, 20% khi có lan rộng đến lớp cơ dầy, 7% khi phần lan rộng đến các cấu trúc lân cận, và < 3% khi có di căn xa.

  • Phẫu thuật cắt bỏ, thường kết hợp với hóa trị và xạ trị

  • Liệu pháp miễn dịch cộng với hóa trị liệu cho một số bệnh ung thư tiến triển

Quyết định điều trị ung thư thực quản phụ thuộc vào giai đoạn, kích thước, vị trí khối u và mong muốn của bệnh nhân (nhiều bệnh nhân lựa chọn không dùng các biện pháp điều trị mạnh tay).

Bệnh nhân mắc bệnh giai đoạn 0, I hoặc IIa (xem bảng Phân giai đoạn ung thư thực quản Phân loại giai đoạn ung thư thực quản

Nguyên nhân gây bệnh ung thư thực quản
) đáp ứng tốt với phẫu thuật cắt bỏ; hóa trị và xạ trị trước phẫu thuật có thêm lợi ích. Bệnh nhân ở giai đoạn IIb và III có tỷ lệ sống thêm thấp khi phẫu thuật đơn thuần; đáp ứng và tỷ lệ sống thêm được tăng lên nhờ xạ trị và hóa xạ trị trước mổ (tân bổ trợ) để làm giảm thể tích u trước phẫu thuật. Bệnh nhân không thể hoặc không muốn phẫu thuật có thể được hưởng một số lợi ích từ xạ trị và hóa trị. Xạ trị hoặc hóa trị đơn thuần có hiệu quả rất ít. Bệnh nhân bị bệnh giai đoạn IV cần điều trị giảm nhẹ và không nên phẫu thuật.

Phân loại giai đoạn ung thư thực quản

Giai đoạn

U nguyên phát (thâm nhập tối đa)

Di căn hạch vùng

Di căn xa

0

Ung thư tại chỗ

N0

M0

I

T1

N0

M0

II

T2 hoặc T3

N0

M0

III

T3 hoặc T4

N1

M0

IV

T bất kỳ

N bất kỳ

M1

* Phân loại TNM:

  • Tis = ung thư biểu mô tại chỗ; T1 = ung thư xâm lấn lớp niêm mạc hoặc dưới niêm mạc; T2 = ung thư xâm lấn lớp cơ; T3 = Ung thư xâm lấn lớp thanh mạc; T4 = ung thư xâm lấn cấu trúc lân cận

  • N0 = Chưa di căn hạch; N1 = Có di căn hạch.

  • M0 = chưa di căn xa; M1 = có di căn xa

Sau một thời gian điều trị, bệnh nhân được sàng lọc để phát hiện tái phát bằng nội soi và chụp CT cổ, ngực, bụng 6 tháng một lần trong 3 năm đầu và hàng năm sau đó.

Ung thư bề ngoài, giai đoạn sớm, không xâm lấn có thể được điều trị bằng cách cắt bỏ lớp niêm mạc qua nội soi hoặc bóc tách lớp dưới niêm mạc qua nội soi (thường do bác sĩ chuyên khoa tiêu hóa tại các trung tâm chăm sóc sức khỏe cấp ba thực hiện) nếu bản chất bề ngoài của tổn thương đã được xác nhận bằng siêu âm nội soi. Tuy nhiên, trong phần lớn các trường hợp, cắt bỏ khối u để chữa bệnh đòi hỏi phải cắt bỏ toàn bộ khối u, phần rìa đầu gần và đầu xa của mô bình thường, tất cả các hạch bạch huyết có khả năng ác tính và một phần dạ đầu dày gần đủ để chứa bạch huyết thoát ra đầu xa. Thủ thuật này đòi hỏi phải kéo dạ dày lên kèm theo nối dạ dày thực quản và tạo hình thực quản bằng ruột non hoặc đại tràng. Phẫu thuật tạo hình môn vị (phẫu thuật mở rộng môn vị) cần phải đảm bảo lưu thông xuống dạ dày phù hợp vì cắt thực quản thường kèm với cắt thần kinh phế vị hai bên. Phẫu thuật mở rộng này có thể kém dung nạp ở những bệnh nhân > 75 tuổi, đặc biệt là những người mắc bệnh tim hoặc phổi tiềm ẩn (phân suất tống máu < 40% hoặc thể tích thở ra gắng sức trong 1 giây [FEV1] < 1,5 L/phút). Nhìn chung, tỉ lệ tử vong do phẫu thuật chiếm khoảng 5%.

Các biến chứng của phẫu thuật bao gồm rò miệng nối, rò, hẹp; trào ngược dạ dày thực quản kép; và hội chứng Dumping. Đau tức ngực do trào ngược dịch mật sau khi cắt bỏ thực quản đoạn xa có thể gây khó chịu hơn triệu chứng khó nuốt ban đầu và có thể phải phẫu thuật cắt hỗng tràng Roux-en-Y sau đó để chuyển dịch mật. Một đoạn ruột non hoặc ruột kết được nối trong lồng ngực có nguồn cung cấp máu không ổn định và có thể dẫn đến hiện tượng xoắn, thiếu máu cục bộ hoặc hoại tử đoạn ruột được nối.

Bức xạ thường được sử dụng kết hợp với hóa trị liệu cho những bệnh nhân không phải là ứng viên cho phẫu thuật chữa khỏi, kể cả những người mắc bệnh ở giai đoạn tiến triển. Chống chỉ định tia xạ ở những bệnh nhân bị rò khí quản thực quản vì sự co nhỏ của khối u làm mở rộng đường rò. Tương tự như vậy, bệnh nhân có u xâm lấn mạch máu có thể bị xuất huyết khi khối u thu nhỏ lại.

Trong giai đoạn đầu khi xạ trị, phù nề có thể làm tình trạng tắc nghẽn thực quản trở nên trầm trọng hơn, khó nuốt và đau khi nuốt. Khi đó có thể cần nong và/đặt stent thực quản trước khi chiếu xạ. Một số bệnh nhân có thể cần mở thông dạ dày qua da tạm thời để nuôi ăn qua ống thông. Các tác dụng bất lợi khác của xạ trị bao gồm buồn nôn, nôn, chán ăn, mệt mỏi, viêm thực quản, tăng tiết chất nhày thực quản, khô miệng, hẹp thực quản, viêm phổi kẽ do xạ trị, viêm màng ngoài tim do xạ trị, viêm cơ tim và viêm tủy (viêm tủy sống).

Ung thư thực quản đáp ứng kém với hóa trị đơn độc. Tỷ lệ đáp ứng (được định nghĩa là giảm 50% kích thước u ở tất cả các vùng đo được) thay đổi từ 10 đến 40%, nhưng các đáp ứng nói chung là không hoàn toàn (làm thu nhỏ khối u không đáng kể) và tạm thời. Chưa có hóa chất nào có hiệu quả điều trị tốt hơn hẳn các hóa chất khác.

Trong hầu hết trường hợp, phối hợp cisplatin và 5-fluorouracil được sử dụng. Tuy nhiên, một số loại thuốc khác, bao gồm cả mitomycin, doxorubicin, vindesine, bleomycin và methotrexate cũng có tác dụng với ung thư biểu mô tế bào vảy.

Điều trị giảm nhẹ nhằm giảm tắc nghẽn thực quản đủ để có thể ăn uống theo đường miệng. Các vấn đề do tắc nghẽn thực quản có thể rất đáng ngại như tăng tiết nước bọt và hít phải tái phát. Các lựa chọn điều trị có thể gồm nong thực quản bằng tay (thủ thuật bougienage), đặt stent thực quản qua đường miệng, xạ trị, laser đông quang, và liệu pháp quang động học. Trong một số trường hợp phải mở thông thực quản qua đường cổ kèm theo mở thông hỗng tràng để nuôi ăn.

Hiệu quả của nong thực quản thường ít khi kéo dài hơn vài ngày. Đặt stent bằng kim loại mềm vào thực quản sẽ hiệu quản hơn trong việc duy trì mức độ khai thông thực quản. Một số dụng cụ phủ nhựa cũng có thể được sử dụng bịt lại các vị trí rò khí quản thực quản do bệnh ác tính, một số loại khác còn có van chống trào ngược dùng khi phải đặt stent gần cơ thắt thực quản dưới.

Liệu pháp laser nội soi có thể làm giảm chứng khó nuốt bằng cách đốt tạo một kênh xuyên qua giữa khối u và có thể lặp lại nếu cần. Liệu pháp quang động học sử dụng natri porfimer dạng tiêm, một dẫn chất hematoporphyrin được hấp thụ bởi các mô và hoạt động như một chất nhạy quang. Khi được kích hoạt bởi chùm laser chiếu trực tiếp vào mô u, chất này giải phóng phân tử oxy đơn năng lượng cao gây độc có tác dụng phá hủy khối u. Bệnh nhân phải tránh tiếp xúc với ánh sáng mặt trời trong vòng 6 tuần sau khi điều trị do da bệnh nhân cũng nhạy cảm với ánh sáng.

  • 1. Wang H, Xuan T, Chen Y, et al: Investigative therapy for advanced esophageal cancer using the option for combined immunotherapy and chemotherapy. Immunotherapy 12(10):697–703, 2020. doi: 10.2217/imt-2020-0063

  • Rượu, thuốc lá và nhiễm papillomavirus ở người là các yếu tố nguy cơ gây ung thư biểu mô tế bào vày; Barrett thực quản do trào ngược mạn tính (thường liên quan đến chứng béo phì) là một yếu tố nguy cơ đối với ung thư biểu mô tuyến.

  • Ung thư giai đoạn đầu thường không có triệu chứng; các triệu chứng ban đầu thường là khó nuốt tăng dần, do u xâm lấn đáng kể lòng thực quản và đôi khi là cảm giác khó chịu ở ngực.

  • Nói chung, thời gian sống thêm ngắn (tỷ lệ sống thêm 5 năm: < 5%) vì nhiều bệnh nhân có biểu hiện khi bệnh đã tiến triển.

  • Phẫu thuật để điều trị khỏi là phổ biến và thường dung nạp kém ở bệnh nhân cao tuổi và bệnh nhân các bệnh đồng thời.

  • Điều trị giảm nhẹ có thể bao gồm đặt stent hoặc phẫu thuật laser qua nội soi để giảm tắc nghẽn và để có thể ăn uống theo đường miệng.