Bệnh tim do thấp hay còn gọi là thấp tim, hay thấp khớp cấp hoặc sốt thấp khớp là một bệnh viêm nhiễm toàn thể, được biểu hiện ở nhiều cơ quan như tim, não, da, khớp. Trong đó bệnh chủ yếu biểu hiện ở tim và khớp. Bệnh thấp tim thường phát triển từ 2 đến 4 tuần sau khi bị viêm đường hô hấp trên. Show Bệnh thấp tim là bệnh hệ thống miễn dịch trung gian liên quan đến nhiễm khuẩn liên cầu tan máu be-ta nhóm A (streptococcus), xuất hiện sau khi nhiễm khuẩn ở đường miệng họng. Nếu không được điều trị đầy đủ, thì trong vòng 2 đến 3 tuần sau khi nhiễm khuẩn ở vùng hầu họng, có thể tiến triển thành bệnh thấp tim. Nguyên nhân chủ yếu của bệnh tim mắc phải ở trẻ em từ 5 tuổi đến 15 tuổi là do bệnh tim do thấp. Bệnh thấp tim gây tổn thương tim, ngoài ra bệnh còn gây tổn thương khớp, tổ chức liên kết dưới da và đôi khi thấy tổn thương não. Bệnh có pha cấp tính viêm nhiều thanh mạc, viêm màng hoạt dịch, gây sốt và gây ra nhiều các tổn thương trong tim. Cho đến nay bệnh thấp tim vẫn còn là bệnh quan trọng ở các nước thứ ba vốn có nền kinh tế thấp. Hàng năm, ở Mỹ cũng có khoảng 15 triệu ca mới mắc bệnh, tuy nhiên tỷ lệ này đã giảm đi nhiều do việc sử dụng kháng sinh điều trị và dự phòng bệnh. Bệnh thấp tim là bệnh viêm toàn tim, được biểu hiện viêm nội tâm mạc, viêm màng ngoài tim, viêm cơ tim hoặc kết hợp cả ba trường hợp trên. Tổn thương viêm thành ổ nhỏ nằm rải rác khắp nơi trong tim là tổn thương đặc trưng của thấp tim.
Nguyên nhân bệnh thấp tim cho đến nay vẫn còn chưa rõ ràng, dù các nhà khoa học đã chứng minh nhiễm khuẩn do streptococcus ở họng và ở đường hô hấp trên đóng vai trò quyết định. Sau thời kỳ viêm họng bệnh sốt thấp thường xảy ra trong 2 tuần. Đây là thời gian đủ để kháng nguyên của vi khuẩn hình thành kháng thể chống lại nhiễm khuẩn, từ đó xảy ra đáp ứng miễn dịch. Tuy nhiên, phản ứng miễn dịch lại gây tổn thương tổ chức liên kết của tim và hàng loạt các cơ quan khác ngay trong thời điểm đó. Người ta cho rằng, các kháng thể chống lại các kháng nguyên của vi khuẩn có phản ứng chéo với các kháng nguyên, tương tự được tìm thấy trong tim người và tổ chức liên kết ở các nơi khác. Sau khi viêm họng do liên cầu khuẩn thì tỷ lệ mắc bệnh khoảng 3%, điều này chứng tỏ rằng, chỉ có một số người có kháng nguyên tương tự như của liên cầu. Các kháng nguyên đó bao gồm:
Bệnh nhân đang trong tình trạng nhiễm khuẩn đều tìm thấy kháng thể kháng liên cầu khuẩn được gọi là ASLO hay ASO và hyaluronidase. Tuy nhiên trong một số trường hợp ASO cũng tăng trước khi có sốt thấp hay gặp ở những người dễ cảm thụ, khi có các biến đổi về tim như trong nhồi máu cơ tim, vì thế chuẩn độ kháng thể này lại không phải là xét nghiệm cơ bản. Ngoài đáp ứng miễn dịch dịch thể, trong thấp tim còn có đáp ứng miễn dịch qua trung gian tế bào liên quan đến đại thực bào và tế bào lympho T, vì vậy các tổn thương tim có thể do cả hai cơ chế đều cùng xảy ra. Các dấu hiệu triệu chứng của bệnh thấp tim bao gồm:
Các biến chứng thường gặp: Trong giai đoạn bệnh cấp tính, người bệnh có thể sẽ bị ảnh hưởng do viêm cơ tim dẫn tới suy tim cấp hoặc rối loạn nhịp tim. Thậm chí đôi khi còn đe dọa đến tính mạng người bệnh. Bệnh nhân thường bị đau ở khớp nhiều và có thể kèm theo sưng nóng đỏ. Tuy nhiên dạng viêm khớp này không để lại di chứng nguy hiểm nào. Tổn thương hệ thống ngoại tháp gây biểu hiện múa giật, múa vờn là những ảnh hưởng đến não, nhưng các tổn thương trên não đa số lại hồi phục được và không để lại di chứng. Gây nhồi máu:do mảnh cục sùi nhồi máu não thận và các chi, do viêm nội tâm mạc Tạo điều kiện cho viêm nội tâm mạc nhiễm trùng cấp và bán cấp tính do liên cầu khuẩn. Xơ hóa các van tim: nếu bị xơ hóa toàn bộ mặt của van tim sẽ dẫn tới van tim bị co ngắn lại và làm hở lỗ van tim. Còn nếu xơ hóa ở giữa van tim sẽ bị co kéo theo hướng chụm lại vào nhau gây ra hẹp lỗ van tim. Vấn đề quan trọng nhất là sự tái phát và tiến triển dẫn gây ra những tổn thương không phục hồi chức năng của van tim trong thấp tim dẫn tới bệnh tim do thấp. Các tổn thương này sẽ ngày một nặng thêm và gây ra những ảnh hưởng nặng nề về chất lượng cuộc sống cũng như tuổi thọ của bệnh nhân. Bệnh tim do thấp hay gặp nhất là hở van hai lá, hẹp van hai lá, hở van động mạch chủ,... hoặc phối hợp các tổn thương của van tim.
Trong thực tế tổn thương đơn thuần hẹp hoặc hở van tim thường hiếm gặp trong bệnh thấp tim cũng như các hình ảnh tổn thương không thể điển hình như ta đã mô tả trên . Bệnh thấp tim không lây truyền từ người bị bệnh sang người lành. Bệnh tim do thấp hay bệnh thấp tim có thể xảy ra ở bất kỳ tuổi nào, tuy nhiên bệnh thường gặp ở trẻ nhỏ và người trẻ, có độ tuổi từ 5 tuổi đến 15 tuổi. Bệnh thường gặp ở nữ giới nhiều hơn nam giới. Tỷ lệ mắc bệnh ở nữ giới gấp khoảng 2 lần nam giới. Do tiền sử gia đình, một số người mang gen có thể khiến bản thân họ bị bệnh sốt thấp khớp Bệnh thấp tim hiếm gặp ở các nước phát triển, tuy nhiên ở các nước đang phát triển bệnh vẫn còn phổ biến, đặc biệt là ở những nơi có không có điều kiện, dinh dưỡng và vệ sinh còn kém như Nam Á hay châu Phi. Riêng ở Việt Nam, tỷ lệ bệnh thấp tim đã giảm nhiều nhưng vẫn còn nhiều bệnh nhân phải nhập viện vì di chứng tổn thương ở van tim, do hậu quả của việc bị thấp tim từ lúc trẻ. Bệnh thấp tim có thể phòng ngừa được nhằm tránh dẫn tới bệnh van tim do thấp hoặc phòng tránh được sự tiến triển của bệnh thêm nặng. Một số biện pháp phòng bệnh bao gồm: Cách phòng bệnh cấp một
Cách phòng bệnh cấp hai là khi phát hiện bị bệnh thấp tim thì cần tim phòng thấp đều đặn nhằm tránh những biến chứng trầm trọng đến van tim. Chẩn đoán bệnh thấp tim dựa trên các tiêu chuẩn của Jone bao gồm: Các tiêu chuẩn chính
Các tiêu chuẩn phụ
Bệnh thấp tim cấp tính có thể xảy ra sau khi nhiễm trùng họng do liên cầu gây ra. Nếu không được phát hiện và điều trị kịp thời có thể sẽ dẫn tới những biến chứng trầm trọng đến van tim. Vì vậy có hai chiến lược quan trọng để điều trị bệnh thấp tim trong giai đoạn cấp:
Hàng tháng hoặc cứ mỗi 3 tuần trong vài năm sau đó, bệnh nhân cần được tiêm phòng thấp tim sau đó bằng penicillin chậm, tùy theo chỉ định của bác sĩ dựa trên tình trạng cụ thể của người bệnh để phòng ngừa tái phát thấp tim. Nguyên nhân dẫn đến bệnh thấp tim là gì?Share: Bệnh thấp tim là tình trạng bệnh xảy ra sau khi nhiễm liên cầu khuẩn beta tan huyết nhóm A với biểu hiện là những tổn thương ở tim, khớp và mạch máu. Bệnh có thể gây viêm cơ tim, viêm màng trong tim, để lại nhiều di chứng nặng nề hoặc thậm chí gây tử vong cho bệnh nhân. Bệnh thấp tim thường gây hậu quả gì ?:?Thấp tim là bệnh phát triển sau khi bị viêm họng do liên cầu khuẩn tan huyết nhóm A không điều trị triệt để. Thấp tim có thể gây tổn thương van tim vĩnh viễn, suy tim hoặc thậm chí là tử vong. Người bị thấp tim cần điều trị sớm và điều trị dự phòng kéo dài để ngăn ngừa thấp tim tái phát. Viêm tim trong bệnh thấp có đặc điểm gì?Viêm cơ tim: Là tổn thương thường gặp nhất trong bệnh thấp tim với biểu hiện đau ngực vùng trước tim, loạn nhịp tim, tim đập nhanh, cơ thể mệt mỏi, da xanh tái,... Ở người bị viêm cơ tim nặng, có thể có triệu chứng suy tim cấp với biểu hiện khó thở, niêm mạc tím tái, phù, tiểu ít,... Thấp tim cấp là gì?Bệnh thấp tim hay thấp khớp cấp (ARF) là bệnh viêm lan tỏa của tổ chức liên kết khớp, nhưng cũng có thể ở các cơ quan khác như da, tổ chức dưới da, tim và thần kinh trung ương, bệnh có diễn biến cấp, bán cấp hay tái phát. Đây là bệnh nhiễm trùng do liên cầu khuẩn nhóm A (GAS) gây ra. |