Nước campuchia và lào có nét riêng gì vì sao

Biên phòng - Việt Nam, Lào, Campuchia là 3 quốc gia cùng chung “mái nhà” Đông Dương. Do hoàn cảnh lịch sử và địa lý, vận mệnh của 3 nước gắn bó chặt chẽ với nhau. Qua nhiều thăng trầm của lịch sử, nhân dân Việt Nam, Lào, Campuchia đã kề vai sát cánh chống kẻ thù chung, giành được nhiều thắng lợi to lớn, tạo nền tảng vững chắc cho mối quan hệ vững bền và không ngừng phát triển.

Nước campuchia và lào có nét riêng gì vì sao
Người dân Campuchia đứng hai bên đường tiễn QTN Việt Nam hoàn thành nghĩa vụ quốc tế về nước, năm 1983. Ảnh: Tư liệu

Thời gian đầu cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, Việt Nam thành lập các đội công tác cơ sở, đội vũ trang tuyên truyền thực hiện “ba cùng” với dân; giáo dục, giác ngộ và tổ chức nhân dân các bộ tộc Lào vào các hội Issara. Ngày 30-10-1949, các lực lượng quân sự của Việt Nam được cử làm nhiệm vụ quốc tế tại Lào tổ chức thành hệ thống riêng và lấy danh nghĩa là Quân tình nguyện (QTN). Cho tới thời điểm cuối cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, từ một vài cơ sở đầu tiên ở vùng Nặm Tòn, cơ sở cách mạng và căn cứ kháng chiến, vùng giải phóng của Lào được mở rộng, nhiều khu căn cứ kháng chiến Lào đã nối liền nhau, tạo thành thế kháng chiến liên hoàn từ Bắc Lào, Trung Lào đến Hạ Lào. QTN còn giúp bạn tổ chức các đoàn thể, chính quyền kháng chiến, nâng cao đời sống, văn hóa, y tế và đoàn kết các bộ tộc Lào. 

Tình hình Campuchia có phần khó khăn hơn. Ngày 23-9-1945, quân Pháp nhảy dù xuống Phnôm Pênh. Những người yêu nước Campuchia cố gắng tập hợp lực lượng kháng chiến chống Pháp trong Mặt trận Khmer Issarak, thành lập nhiều khu kháng chiến. Cuối năm 1946, các chiến sĩ yêu nước Campuchia phối hợp với Việt kiều chiến đấu đánh chiếm Xiêm Riệp một tuần lễ, mở màn cho sự phối hợp chiến đấu giữa Campuchia và Việt Nam chống thực dân Pháp xâm lược. 

Thủ tướng Vương quốc Campuchia Samdech Techo Hun Sen từng nói: “Không có sự giúp đỡ của Việt Nam thì Campuchia không có ngày nay. Nếu không có sự hỗ trợ tình nguyện của Việt Nam, Campuchia sẽ không được giải phóng và hồi sinh. Dứt khoát là thế”.

Trong 2 năm 1947-1948, các khu căn cứ của phong trào kháng chiến Campuchia ở Tây Bắc, Tây Nam, Đông Nam và Đông Bắc được thành lập. Đến cuối năm 1949, phong trào kháng chiến của Campuchia phát triển tương đối đều khắp. Trong số 15 tỉnh, bạn đã có các căn cứ du kích ở 14 tỉnh, từng bước phát triển xuống đồng bằng, buộc quân Pháp phải điều quân sang để đối phó với lực lượng vũ trang kháng chiến Campuchia và Việt Nam. 

Năm 1953, để phá kế hoạch Nava, bộ đội Việt - Lào đẩy mạnh hoạt động trên khắp chiến trường Thượng, Trung và Hạ Lào, tiêu diệt nhiều sinh lực địch, giải phóng nhiều vùng chiến lược quan trọng, làm rối loạn thế trận của địch trên chiến trường Đông Dương. Tại Campuchia, bộ đội Việt Nam phối hợp với bộ đội Khmer giải phóng Đông Bắc Campuchia, cùng một vùng khá rộng thuộc tỉnh Preah Vihear và Đông Bắc tỉnh Kampong Thom, hình thành các vùng căn cứ kháng chiến, liên kết với vùng giải phóng của Việt Nam ở Nam bộ và vùng giải phóng Hạ Lào. 

Do những thắng lợi vang dội của quân và dân 3 nước Việt Nam, Lào, Campuchia trong Đông - Xuân 1953-1954, mà đỉnh cao là chiến thắng Điện Biên Phủ, ngày 21-7-1954, thực dân Pháp phải ký tuyên bố chung và các hiệp định về chấm dứt chiến tranh ở Đông Dương. Cùng với chiến thắng Điện Biên Phủ, việc ký kết Hiệp định Genève là một thắng lợi quan trọng của sự nghiệp đoàn kết kháng chiến của nhân dân 3 nước Đông Dương, tạo nền móng vững chắc cho sự phối hợp, liên minh chiến đấu chống đế quốc Mỹ xâm lược.

Khi đế quốc Mỹ tiến hành xâm lược bán đảo Đông Dương đã dùng nước này làm bàn đạp xâm chiếm nước kia, biến Đông Dương thành một chiến trường, dùng người Đông Dương đánh người Đông Dương. Nhận thức đúng đắn về ý nghĩa chiến lược của mối quan hệ Việt Nam - Lào - Campuchia, Đảng và Nhà nước ta chủ trương thiết lập quan hệ với Chính phủ, nhà vua Lào và Chính phủ, nhà vua Cao Miên trên nguyên tắc: “Tôn trọng lãnh thổ và chủ quyền của nhau, không xâm phạm lẫn nhau, không can thiệp vào nội chính của nhau, bình đẳng và cùng có lợi, cùng chung sống hòa bình”. 

Trong Hội nghị liên minh 3 nước Đông Dương họp tháng 9-1952, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Nhân dân Việt Nam hết lòng thành thật giúp đỡ nhân dân Lào, nhân dân Miên một cách vô điều kiện. Sự thật thì chưa tìm ra chữ gì để thay thế chữ “giúp” chứ thực ra không phải là giúp mà là nghĩa vụ quốc tế”. 

Đến năm 1967, số cán bộ, nhân viên Việt Nam tham gia xây dựng kinh tế, văn hóa ở Lào lên tới 15.000 người, riêng chuyên gia quân sự là 8.500 người. QTN và chuyên gia Việt Nam giúp Lào xây dựng lực lượng vũ trang ba thứ quân phù hợp với hoàn cảnh, tình hình cách mạng Lào. Các đoàn QTN đã luôn sát cánh cùng quân và dân Lào chiến đấu, đánh bại các chiến lược của đế quốc Mỹ ở Lào, làm cho địch thất bại từng bước tiến tới thất bại hoàn toàn. Tại Campuchia, lực lượng của Việt Nam phối hợp và giúp đỡ lực lượng kháng chiến Campuchia đánh bại các cuộc hành quân của địch, mở rộng vùng giải phóng tại 10 tỉnh Campuchia, tạo nên những thắng lợi to lớn trong cuộc kháng chiến chống Mỹ của nhân dân 3 nước Việt Nam, Lào, Campuchia. 

Tháng 4-1970, đại diện 3 nước họp Hội nghị cấp cao nhân dân Đông Dương. Tuyên bố chung của hội nghị trở thành cương lĩnh đấu tranh chung, hiến chương chung về quan hệ đoàn kết chiến đấu giữa nhân dân 3 nước. Với tinh thần quốc tế vô sản và thực hiện lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Giúp nhân dân nước bạn tức là mình tự giúp mình”, QTN và chuyên gia quân sự Việt Nam góp phần quan trọng cùng quân và dân Lào - Campuchia giành thắng lợi hoàn toàn trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược. 

Nước campuchia và lào có nét riêng gì vì sao
Liên quân Lào - Việt trong kháng chiến chống Pháp, năm 1950. Ảnh: Tư liệu

Ngay sau khi Sài Gòn được giải phóng đến cuối năm 1978, Khmer đỏ tiến hành hàng loạt các cuộc tấn công vào lãnh thổ Việt Nam. Tại Campuchia, Khmer đỏ đã tàn sát cực kỳ dã man những người dân thành thị, thương nhân, trí thức và những người đã hợp tác với QTN Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ trước đây. Hơn 2 triệu người (tức 1/4 số dân) Campuchia đã bị giết hại. Để bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ và tính mạng của một bộ phận nhân dân Việt Nam, cuối năm 1978, cùng với quân và dân Campuchia, QTN Việt Nam tiến hành cuộc chiến lật đổ chế độ Khmer đỏ, giải phóng Thủ đô Phnôm Pênh ngày 7-1-1979. Đất nước Campuchia được giải phóng khỏi ách thống trị đẫm máu của Khmer đỏ, nhân dân trở về làng xóm phục hồi cuộc sống với sự giúp đỡ chân thành và hiệu quả của Việt Nam. Sau đó, QTN Việt Nam tiếp tục ở lại Campuchia để giúp bảo vệ, xây dựng chính quyền non trẻ. Đến tháng 9-1989, QTN Việt Nam rút toàn bộ khỏi Campuchia, hoàn thành sứ mệnh cao cả mà đáng lẽ ra cả thế giới phải làm. Đó là chống lại chế độ diệt chủng của Khmer đỏ, mang lại cuộc sống, đem lại hòa bình cho nhân dân Campuchia.

Có thể thấy, quán triệt quan điểm và vận dụng sáng tạo đường lối, phương châm, nguyên tắc của Đảng, các đoàn QTN và chuyên gia quân sự Việt Nam đã có những đóng góp hết sức to lớn, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ quốc tế với hai nước bạn Lào và Campuchia. 

Hải Hà

Campuchia là một quốc gia tại Đông Nam Á, nằm bên bờ vịnh Thái Lan và nằm giữa các nước Thái Lan, Việt Nam và Lào. Quốc gia này có 2.572 km đường biên giới, trong đó với Việt Nam là 1.228 km, với Thái Lan là 803 km và với Lào là 541 km, cùng với 443 km đường bờ biển. Campuchia có diện tích 181.040 km². Nằm hoàn toàn trong vùng nhiệt đới; điểm cực nam của Campuchia chỉ nằm khoảng trên 10° vĩ Bắc. Lãnh thổ Campuchia có hình vuông, phía bắc giáp Thái Lan và Lào, phía đông và đông nam giáp Việt Nam, còn phía tây nam và tây là vịnh Thái Lan và Thái Lan. Phần lớn diện tích Campuchia là các đồng bằng gợn sóng và gần như nằm ở trung tâm. Sông Mê Kông, chảy từ bắc đến nam đất nước và là con sông dài thứ 12 trên thế giới.

Nước campuchia và lào có nét riêng gì vì sao
Địa lý CampuchiaLục địaChâu ÁVùngĐông Nam ÁTọa độ13°00′B 105°00′Đ / 13°B 105°Đ / 13.000; 105.000Diện tíchXếp hạng thứ 96 • Tổng số181.035 km2 (69.898 dặm vuông Anh) • Đất97.50% • Nước2.50%Đường bờ biển443 km (275 mi)Biên giới2572 km (Lào 541 km, Thái Lan 803 km, Việt Nam 1228 km)Điểm cao nhấtPhnom Aural 1810 mĐiểm thấp nhấtVịnh Thái Lan 0 mSông dài nhấtSông Mê KôngHồ lớn nhấtTonle Sap

Campuchia có khí hậu gió mùa với mùa khô và mùa mưa kéo dài trong một khoảng thời gian tương đối bằng nhau. Nhiệt độ và độ ẩm thường ở mức cao quanh năm. Rừng chiếm khoảng 2/3 diện tích đất nước, song đã bị suy thoái phần nào tại các khu vực dễ tiếp cận do bị đốt để để chuyển đổi thành đất nông nghiệp.

 

Địa hình Campuchia

Campuchia nằm trong một vài vùng địa lý xác định. Phần lớn diện tích đất nước (khoảng 75%), gồm bồn địa Tonle Sap và vùng đất thấp Mê Kông. Ở phía đông nam của khu vực rộng lớn này là đồng bằng châu thổ Mê Kông, trải dài qua miền Nam Việt Nam cho đến Biển Đông. Các vùng bồn địa và đồng bằng bị bao quanh bởi Phnom Kravanh (dãy núi Bạch đậu khấu') và dãy núi Damrei (Con Voi) ở phía tây nam và ở phía bắc là dãy núi Dangrek. Vùng đất cao hơn ở đông bắc và phía đông hợp với vùng Tây Nguyên của Việt Nam. Khu vực bồn địa Tonle Sap và đất thấp Mê Công chủ yếu là các đồng bằng có độ cao dưới 100 mét. Ở những nơi cao, địa hình lượn sóng và bị cắt xẻe.

Phnom Kravanh ở phía tây nam, chạy theo hướng chung là tây bắc-đông nam, có nhiều nơi cao trên 1.500 mét. Đỉnh núi cao nhất Campuchia--Phnom Aural, cao độ 1.771 mét—nằm ở phần phía đông của dãy núi này. Dãy Damrei, phần kéo dài về phía nam và đông nam của Phnom Kravanh, có độ cao từ 500 đến 1.000 mét. Ở phía tây của hai dãy núi này là một vùng đồng bằng duyên hải hẹp, bao gồm cả vịnh Kampong Saom, là một phần của vịnh Thái Lan. Khu vực này phần lớn nằm trong tình trạng biệt lập cho đến khi mở cảng Kampong Saom (tên cũ của Sihanoukville) và việc xây dựng một tuyến đường bộ và đường sắt kết nối Kampong Saom, Kampot, Takeo, và Phnôm Pênh vào thập niên 1960.

Dãy núi Dangrek tạo thành rìa phía bắc của bồn địa Tonle Sap và có các vách núi dốc đứng với độ cao khoảng 500 mét, đỉnh cao nhất trong dãy là 700 mét. Dãy núi dốc đứng về phía nam và cũng là rìa phía nam của cao nguyên Khorat tại Thái Lan. Đường phân nước dọc theo các dốc đứng tạo thành biên giới tự nhiên giữa Thái Lan và Campuchia. Con đường chính qua một cửa ngõ của dãy núi Dangrek tại O Smach kết nối tây bắc Campuchia với Thái Lan. Mặc dù vậy, về tổng thể các dốc đứng này đã làm cản trở việc thông thương giữa hai quốc gia. Giữa phần phía tây của dãy Dangrek và phần phía bắc của Phnom Kravanh là phần kéo dài của bồn địa Tonle Sap và hợp vào vùng đất thấp tại Thái Lan, cho phép di chuyển dễ dàng từ biên giới đến Bangkok.

Dãy núi Dangrek tại mép phía bắc của lưu vực sông Tonle Sap bao gồm một vách núi dốc đứng với độ cao trung bình khoảng 500 m, điểm cao nhất trong số đó đạt đến hơn 700 mét. Vách núi phải đối mặt với phía nam và là rìa phía nam của cao nguyên Korat, Thái Lan. Lưu vực dọc theo vách đá đánh dấu ranh giới giữa Thái Lan và Campuchia. Các con đường chính thông qua một vượt qua dãy núi Dangrek O Smach kết nối Tây Bắc Campuchia với Thái Lan. Mặc dù con đường này và những người đang chạy qua một vài đường chuyền khác, nói chung vách cản trở giao tiếp dễ dàng giữa hai nước. Giữa các phần phía tây của Dangrek và một phần phía bắc của các dãy núi Cardamom, tuy nhiên, nằm một phần mở rộng của các lưu vực sông Tonle Sap sáp nhập vào vùng đất thấp ở Thái Lan, cho phép truy cập dễ dàng từ biên giới đến Bangkok. Thung lũng Mê Kông, một tuyến đường giao thương giữa Campuchia và Lào, phân tách phần phía đông của dãy núi Dangrek và cao nguyên đông bắc. Ở phía dông nam, đồng bằng châu thổ sông Mê Kông có các tuyến giao thương bằng cả đường bộ và đường thủy giữa hai nước.

 

Các tỉnh của Campuchia.

 

Phân vùng Campuchia theo quân sự.

 

Phân vùng Campuchia theo tập quán

Giống như phần còn lại của châu Á, khí hậu Campuchia chịu ảnh hưởng của gió mùa, trở thành vùng nhiệt đới ẩm và khô theo mùa một cách rõ rệt. Các luồng không khí của gió mùa gây ra bởi các áp cao và áp thấp. Vào mùa hè, luồng khí từ gió mùa tây nam chứa đầy hơi nước thổi đến từ Ấn Độ Dương.. Luồng khí sẽ đảo ngược vào mùa đông, và gió mùa đông bắc mang đến luồng không khí khô. Gió mùa tây nam mang kéo dài từ giữa tháng 5 đến giữa tháng 9 hay đầu tháng 10, còn gió mùa đông bắc kéo dài từ tháng 11 đến tháng 3. Một phần ba ở phía nam của đất nước có mùa khô kéo dài 2-3 tháng; còn hai phần ba ở phía bắc có 4 tháng mùa khô. Một thời kỳ chuyển tiếp ngắn, đánh dấu bằng một số khác biệt trong độ ẩm nhưng chỉ thay đổi nhỏ trong nhiệt độ, xuất hiện giữa các mùa. Nhiệt độ khá đồng nhất tại toàn bộ khu vực bồn địa Tonle Sap, dao động trung bình khoảng 25 °C (77,0 °F). Nhiệt độ trung bình cao là 28,0 °C (82,4 °F); nhiệt độ trung bình thấp khoảng 22,98 °C (73,36 °F). Nhiệt độ có thể lên trên 32 °C (89,6 °F), tuy nhiên chỉ xuất hiện và giai đoạn trước khi bắt đầu mùa mưa, song có thể lên tới trên 38 °C (100,4 °F). Nhiệt độ tối thiểu hiếm khi xuống dưới 10 °C (50 °F). Tháng giêng là tháng mát mẻ nhất còn tháng 4 là tháng ấm nhất. Bão nhiệt đới thường đi vào bờ biển Việt Nam song hiếm khi gây thiệt hại cho Campuchia.

Lượng mưa trung bình tại Campuchia thường dao động từ 1.000 và 1.500 milimét (39,4 và 59,1 in). Lượng mưa trung bình từ tháng 4 đến tháng 9 ở bồn địa Tonle Sap và vùng đất thấp Mê Kông là 1.300 đến 1.500 milimét (51,2 đến 59,1 in), song thay đổi đáng kể giữa các năm. Lượng mưa xung quanh bồn địa tăng theo độ cao. Lượng mưa lớn nhất là ở dãy núi dọc theo bờ biển tây nam, với từ 2.500 milimét (98,4 in) đến hơn 5.000 milimét (196,9 in) hàng năm do ảnh hưởng của gió mùa tây nam. Khu vực này có lượng mưa rất lớn tuy nhiên do địa hình nên hầu hết lượng nước chảy ngay ra biển; chỉ có một phần nhỏ đổ vào các con sông chảy trong bồn địa. Độ ẩm vào ban đêm tương đối cao trong suốt năm; thường vượt quá 90%. Vào ban ngày mùa khô, độ ẩm trung bình chỉ khoảng 50% hoặc thấp hơn, nhưng lên mức 60% vào mùa mưa.

Ngoại trừ một số con sông nhỏ ở phía tây nam, hầu hết các con sông và hệ thống sông tại Campuchia đều đổ vào Tonle Sap hay sông Mê Kông. Phnom Kravanh và dãy núi Damrei tạo thành một đường phân nước. Ở phía đông, các công sông đổ nước vào Tonle Sap, trong khi các con sông ở sườn tây chảy ra vịnh Thái Lan. Tuy vậy, ở phía cực nam của dãy Damrei, do ảnh hưởng của địa hình, một số con sông nhỏ chảy về phía nam và lệch sang phía đông của đường phân nước.

Từ biên giới Campuchia-Lào, sông Mê Kông chảy theo hướng nam đến điểm dưới thành phố Kratie, tại đây, sông chảy 50 km về phía tây và sau đó theo hướng tây nam đến thủ đô Phnom Penh. Ở phía trên Kratie, dòng sông có nhiều thác ghềnh, còn từ Kampong Cham, dòng sông khá hiền hòa, và khu vực hai bên bờ sông thường bị ngập lụt vào giai đoạn từ tháng 6 đến tháng 11. Tại Phnôm Pênh, bốn dòng nước gặp nhau ở một điểm gọi là Chattomukh (Bốn mặt). Sông Mê Kông chảy từ hướng đông bắc xuống và sông Tonle Sap nối với Tonle Sap ở tây bắc. Chúng hợp lưu rồi phân ngay thành 2 dòng nước là sông Mê Kông (tức sông Tiền) và sông Basak (sông Hậu), và chảy độc lập với nhau qua vùng dồng bằng châu thổ tại Campuchia và Việt Nam rồi đổ ra Biển Đông.

Lưu lượng nước vào Tonle Sap là tùy thuộc theo mùa. Vào tháng 9 hay tháng 10, dòng chảy của sông Mê Kông, được cấp thêm từ các trận mưa do gió mùa, tăng lên đến điểm mà các dòng chảy qua đồng bằng không thể chứa được nữa. Lúc này, dòng nước bị đẩy về phía bắc theo sông Tonle Sap và đổ vào the Tonle Sap, do đó làm tăng kích thước của hồ từ khoảng 2.590 km² đến khoảng 24.605 km² vào cao điểm mùa lũ. Sau khi nước sông Mê Kông lên đến đỉnh và các dòng chảy phía hạ du có thể chứa được dung tích nước, dòng sông đảo ngược và chảy từ hồ ra sông.

Sau khi nước rút khỏi Tonle Sap, nó để lại một lớp trầm tích mới. Các trận lụt hàng năm, cộng với việc thoát nước yếu quanh hồ, đã biến vùng xung quanh Tonle Sap thành một đầm lầy khó có thể sử dụng cho mục đích nông nghiệp vào mùa khô. Lượng trầm tích lắng đọng trong hồ vào giai đoạn lũ lụt lớn hơn lượng được sông Tonle Sap mang đi sau đó. Dần dấn, hiện tượng bồi lắng hồ có vẻ đang xảy ra; khi mực nước thấp, nó chỉ sâu khoảng 1,5 mét, còn trong mùa lũ, độ sâu là từ 10 đến 15 mét.

Đường biên giới của Campuchia phần lớn dựa trên các thỏa ước của người Pháp và các nước láng giềng dưới thời thuộc địa. Đoạn phía bắc trong 800-km biên giới với Thái Lan trùng với đường phân nước của dãy núi Dangrek. 541-km với Lào và 1.228-km với Việt Nam là kết quả của các quyết định hành chính của người Pháp và phần lớn không theo các đặc trưng về mặt tự nhiên.

  •   Bài viết này kết hợp các tài liệu thuộc phạm vi công cộng từ website hay thư mục thuộc Library of Congress Country Studies.
  •   Bài viết này kết hợp các tài liệu thuộc phạm vi công cộng từ website hay thư mục thuộc CIA World Factbook.

Lấy từ “https://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Địa_lý_Campuchia&oldid=68357280”