Soạn bài Truyện Kiều của Nguyễn Du học247

Với Soạn bài Truyện Kiều của Nguyễn Du ngắn gọn nhất Ngữ văn lớp 9 năm 2021 mới sẽ giúp các bạn học sinh dễ dàng soạn văn lớp 9. Ngoài ra, bản soạn văn lớp 9 này còn giới thiệu sơ lược về tác giả, tác phẩm để giúp bạn nắm vững được kiến thức văn bản trước khi đến lớp.

Soạn bài Truyện Kiều của Nguyễn Du học247

A. Soạn bài Truyện Kiều của Nguyễn Du (ngắn nhất)

Câu 1 (trang 80 sách giáo khoa Ngữ văn 9 Tập 1):

Những nét chính về thời đại, gia đình, cuộc đời Nguyễn Du có ảnh hưởng đến việc sáng tác Truyện Kiều:

a.Thời đại:

Sống vào cuối thế kỉ XVIII là giai đoạn lịch sử đầy biến động dữ dội, xã hội phong kiến Việt Nam khủng hoảng sâu sắc, phong trào nông dân khởi nghĩa nổ ra liên tục, đỉnh cao là cuộc khởi nghĩa Tây Sơn.

b.Gia đình:

Sinh ra trong gia đình đại quý tộc, nhiều đời làm quan và có truyền thống văn học. Nhưng gia đình ông cũng bị sa sút. Nhà thơ mồ côi cha năm 9 tuổi, mồ côi mẹ năm 12 tuổi.

c.Cuộc đời:

Có khiếu văn học bẩm sinh, ham học. Từng trải, đi nhiều, tiếp xúc nhiều, có vốn sống phong phú. Từng làm quan dưới triều Nguyễn, đi sứ Trung Quốc.

d.Con người:

Là người có trái tim giàu lòng yêu thương, cảm thông sâu sắc với những người nghèo khổ, với những đau khổ của nhân dân.

Câu 2 (trang 80 sách giáo khoa Ngữ văn 9 Tập 1):

Tóm tắt Truyện Kiều:

a. Gặp gỡ và đính ước:

Vương Thúy Kiều là một thiếu nữ tài sắc vẹn toàn, con gái đầu lòng của một gia đình trung lưu lương thiện, em gái là Thúy Vân, em trai là Vương Quan. Trong buổi du xuân tiết Thanh minh, Kiều gặp Kim Trọng rồi hai người đính ước thề nguyền với nhau.

b. Gia biến và lưu lạc:

Trong khi Kim Trọng trở về Liêu Dương chịu tang chú thì gia đình Kiều gặp tai họa do thằng bán tơ vu oan. Kiều phải bán mình chuộc cha. Trước khi theo Mã Giám Sinh và Tú Bà Thúy Kiều đã trao duyên cho Thúy Vân.

Khi biết mình bị lừa và đưa vào lầu xanh, Kiều tự tử nhưng không thành, Tú Bà đưa Kiều ra lầu Ngưng Bích. Tại đó, Kiều bị Sở Khanh lừa và nàng phải tiếp khách ở lầu xanh. Kiều được Thúc Sinh chuộc ra làm vợ lẽ nhưng bị Hoạn Thư – vợ cả của Thúc Sinh ghen tuông và hành hạ. Kiều bỏ trốn và nhờ sư Giác Duyên nương nhờ cửa Phật. Bị Bạc Hà, Bạc Hạnh phát hiện, Kiều lại vào lầu xanh lần thứ hai. Tai đây, Kiều được Từ Hải chuộc ra và giúp nàng báo ân báo oán. Vì bị mắc lừa Hồ Tôn Hiến, Từ Hải chết đứng, Thúy Kiều bị ép gả cho tên Thổ quan. Kiều tự tử ở sông Tiền Đường nhưng lại được sư Giác Duyên cứu.

c. Đoàn tụ:

Sau nửa năm về chịu tang chú, Kim Trọng trở lại tìm Kiều. Hay tin gia đình Kiều gặp nạn và nàng phải bán mình chuộc cha khiến Kim Trọng vô cùng đau đớn. Tuy kết duyên với Thúy Vân, nhưng chàng vẫn luôn nhớ về mối tình đầu. Chàng quyết đi tìm Kiều. Nhờ sư Giác Duyên Kim Trọng gặp được Kiều, gia đình đoàn tụ. Sau 15 năm lưu lạc, Thúy Kiều và Kim Trọng đổi tình yêu thành tình bạn.

B. Giới thiệu sơ lược về tác giả

- Tên Nguyễn Du ( 1765-1820), tên tự là Tố Như, hiêụ Thanh Hiên.

- Quê quán:

+ Quê cha: Tiên Điền, Hà Tĩnh vùng đất sản sinh nhiều anh kiệt

+ Quê mẹ: Từ Sơn, Bắc Ninh cái nôi dân ca Quan họ Đây là hai vùng đất giàu truyền thống văn hóa.

Giúp Nguyễn Du có điều kiện tiếp xúc với nhiều vùng văn hóa, dùi mài kinh sử, vốn sống, vốn hiểu biết phong phú.

- Nguyễn Du sống vào thời kì loạn lạc, khủng hoảng xã hội, đất nước chia cắt

- Nhiều cuộc khởi nghĩa nông dân nổ ra, tiêu biểu là khởi nghĩa Tây Sơn thay đổi sơn hà, nhà Nguyễn lập lại chế độ chuyên chế

Ảnh hưởng đến tư tưởng trong sáng tác của ông

- Do biến cố năm 1789 (Nguyễn Huệ tiêu diệt tập đoàn PK vua Lê - chúa Trịnh), Nguyễn Du phải trải qua cuộc sông mời năm phiêu bạt (từng mưu đồ chống Tây Sơn nhưng thất bại, lui về ẩn dật)

- 1802, ông ra làm quan cho nhà Nguyễn

- Nguyễn Du ốm, mất ở Huế 1820

Cuộc đời thăng trầm, đi nhiều đã giúp ông có hiểu biết sâu rộng, am hiểu văn hóa vùng miền, văn hóa dân tộc và văn chương Trung Quốc.

- Sự nghiệp văn học: Tác phẩm bằng chữ Hán và chữ Nôm.

C. Tìm hiểu tác phẩm Truyện Kiều của Nguyễn Du

- Xuất xứ và hoàn cảnh sáng tác:

+ Truyện Kiều (Đoạn trường tân thanh) được Nguyễn Du sáng tác vào đầu thế kỉ 19 (khoảng 1805-1809)

+ Nguyễn Du sáng tác Truyện Kiều có dựa trên cốt truyện Kim Vân Kiều truyện của Trung Quốc nhưng phần sáng tạo của Nguyễn Du là vô cùng lớn, mang đến sự thành công và sức hấp dẫn cho tác phẩm

- Thể loại: Truyện thơ Nôm

- Phương thức biểu đạt: Biểu cảm

- Bố cục:

+ Phần 1: Gặp gỡ và đính ước

+ Phần 2: Gia biến và lưu lạc

+ Phần 3: Đoàn tụ

- Giá trị nội dung:

Giá trị hiện thực

+ Truyện Kiều phản ánh bộ mặt tàn bạo của tầng lớp thống trị và thế lực hắc ám chà đạp lên quyền sống con người

+ Truyện Kiều phơi bày nỗi khổ đau của những người bị áp bức, đặc biệt là người phụ nữ

Giá trị nhân đạo

+ Là tiếng nói ngợi ca những giá trị, phẩm chất cao đẹp của con người như nhan sắc, tài hoa,...đề cao vẻ đẹp, ước mơ và khát vọng chân chính của con người

+ Nguyễn Du bộc lộ niềm thương cảm sâu sắc trước những khổ đau của con người, ông xót thương cho Thúy Kiều, một người con gái tài sắc mà phải lâm vào cảnh bị đọa đầy

+ Tố cáo những thế lực tàn bạo đã chà đạp lên quyền sống của những con người lương thiện

- Giá trị nghệ thuật:

+ Về ngôn ngữ: ngôn ngữ giàu và đẹp, đạt đến đỉnh cao của ngôn ngữ văn chương

+ Nghệ thuật tự sự có bước phát triển vượt bậc: Ngôn ngữ kể chuyện có ba hình thức là trực tiếp, gián tiếp và nửa trực tiếp, nhân vật xuất hiện với cả con người hành động và con người cảm nghĩ

+ Nghệ thuật xây dựng nhân vật đạt đến thành công vamg dội, cách xây dựng nhân vật chính thường được miêu tả bằng lối ước lệ, tượng trưng; nhân vật phản diện thường được khắc họa theo lối hiện thực hóa

+ Nghệ thuật miêu tả thiên nhiên đa dạng, có những bức tranh thiên nhiên tả cảnh ngụ tình đặc sắc

Mời các bạn cùng tham khảo nội dung hướng dẫn soạn văn bài Truyện Kiều của Nguyễn Du dưới đây để tham khảo để hiểu rõ hơn về cuộc đời của nàng Kiều khi gia đình có biến cố, niềm khát khao được hạnh phúc của Thúy Kiều chuẩn bị tốt kiến thức để học tốt môn Ngữ văn lớp 9

Soạn ngữ văn 9 Truyện Kiều câu 1 trang 80 sgk

Những nét chính về Nguyễn Du có ảnh hưởng đến sáng tác Truyện Kiều:

a. Thời đại: Sống vào cuối thế kỉ XVIII là giai đoạn lịch sử đầy biến động: Chế độ phong kiến rối ren, khủng hoảng, phong trào nông dân nổi lên khắp nơi.

b. Gia đình: Sinh ra trong gia đình đại quý tộc, nhiều đời làm quan và có truyền thống văn học.

c. Cuộc đời: Từng trải, đi nhiều, tiếp xúc nhiều, có vốn sống phong phú. Từng làm quan dưới triều Nguyễn, đi sứ Trung Quốc.

Soạn văn bài Truyện Kiều câu 2 trang 80 sgk Ngữ Văn 9

a. Gặp gỡ và đính ước:

Thúy Kiều là thiếu nữ tài sắc vẹn toàn, con gái đầu một gia đình trung lưu lương thiện, em gái Thúy Vân và em trai Vương Quan. Trong buổi du xuân, nàng gặp và nảy nở mối tình với chàng Kim Trọng, nhân trả chiếc thoa rơi, Kim Trọng bày tỏ tâm tình và họ tự do đính ước.

b. Gia biến và lưu lạc

Kim Trọng về quê chịu tang, gia đình Kiều bị vu oan. Kiều nhờ Vân trả nghĩa Kim Trọng còn mình bán thân chuộc cha. Kiều bị bọn buôn người Mã Giám Sinh, Tú Bà, Sở Khanh lừa gạt đưa vào lầu xanh. Sau đó nàng được Thúc Sinh cứu vớt, nhưng lại bị vợ cả Thúc Sinh là Hoạn Thư đày đọa. Kiều trốn đến nương nhờ cửa Phật. Sư Giác Duyên vô tình gửi nàng cho Bạc Bà – một kẻ buôn người, nàng lại rơi vào lầu xanh. Thúy Kiều gặp Từ Hải, người anh hùng “đội trời đạp đất”. Từ Hải lấy Kiều, giúp nàng báo ân báo oán. Hồ Tôn Hiến lừa và giết Từ Hải, bắt Kiều hầu đàn, rượu. Bị ép gả cho viên thổ quan, Kiều trẫm mình ở sông Tiền Đường, nhưng nàng được sư Giác Duyên cứu giúp.

c. Đoàn tụ

Kim Trọng sau khi chịu tang, trở lại tìm Thúy Kiều. Hay tin gia đình Kiều, chàng đau đớn. Tuy kết duyên với Thúy Vân nhưng chàng không nguôi tình xưa, cất công đi tìm Kiều. Nhờ gặp sư Giác Duyên, Kiều tìm được gia đình. Chiều ý mọi người, nàng nối duyên Kim Trọng nhưng chỉ coi là tình bạn.

Trên đây chúng tôi đã giới thiệu Soạn bài Truyện Kiều của Nguyễn Du. Hy vọng tài liệu này sẽ giúp ích cho các bạn học sinh hiểu rõ hơn ý nghĩa tác phẩm Truyện Kiều Nguyễn Du, cũng như thể hiện rõ nội dung chính của tác phẩm.

CLICK NGAY vào TẢI VỀ dưới đây để download hướng dẫn soạn văn bài Truyện Kiều của Nguyễn Du file word, pdf hoàn toàn miễn phí

Đánh giá bài viết

Truyện Kiều của Nguyễn Du bố cục 3 phần: Gặp gỡ và đính ước, gia biến và lưu lạc, đoàn tụ. Soạn bài Truyện Kiều của Nguyễn Du chi tiết nhất sgk Ngữ Văn 9 Tập 1.

Nói đến Truyện Kiều là phải nói đến quá trình khổ công rèn luyện, gọt giũa ngòi bút của Nguyễn Du để cho ra đời một áng văn chương tuyệt tác của nhân loại. Truyện Kiều của Nguyễn Du, phải nói là kiệt tác văn học Việt Nam và văn học nhân loại. Cũng chính vì giá trị đó mà Nguyễn Du đã được tôn xưng là Đại thi hào dân tộc và được UNESCO công nhận là danh nhân văn hóa thế giới.  

Soạn bài Truyện Kiều của Nguyễn Du học247
Tác phẩm Truyện Kiều của Nguyễn Du

– Tác giả Nguyễn Du (1765 – 1820), tên chữ Tố Như, tên hiệu Thanh Hiên. Quê ở Tiên Điền-Nghi Xuân-Hà Tĩnh.

– Quê hương Nguyễn Du vốn nổi tiếng là vùng đất địa linh nhân kiệt, có truyền thống hiếu học và trọng nhân tài.

– Ông sinh ra trong gia đình nhà quan, có truyền thống hiếu học và được rèn luyện, học vấn uyên bác, có nhiều tài văn học. 

– Thời thơ ấu sống trong nhung lụa nhưng sau đó gia đình gặp biến cố khiến ông mồ côi cha lẫn mẹ khi lên mười tuổi. Cuộc đời Nguyễn Du bắt đầu gặp sóng gió trong cơn biến động của thời đại, sống long đong chìm nổi ở nhiều nơi.

– Với ngày tháng bôn ba, mưu sinh, ông có nhiều cơ hội được sống và gần gũi nhân dân, thấm thía những đau khổ của kiếp người lao động. Chính nỗi bất hạnh lớn của cuộc đời đã tạo nên nhà nhân đạo lớn Nguyễn Du.

– Sau khi đỗ tam trường, vì đất nước loạn lạc nên ông nhậm chức: Chánh thủ hiệu đội quân Hùng hậu hiệu đóng ở Thái Nguyên. Thi hào Văn võ toàn tài được người đời xếp vào “An Nam ngũ tuyệt”, “Nhất đại tài hoa”, “Đại gia văn tự thế tranh truyền”.

– Năm 1820 Nguyễn Du mất đột ngột khi chưa kịp đi sứ sang Trung Quốc lần thứ hai.

– Tư tưởng Nguyễn Du khá phức tạp và có nhiều mâu thuẫn (trung thành với nhà Lê, không hợp tác với Tây Sơn, bất đắc dĩ làm quan cho nhà Nguyễn), là một người có hoài bão, lý tưởng nhưng trở thành nạn nhân của một giai đoạn lịch sử nhiều bể dâu, sống một cuộc đời bi kịch nhưng chính điều đó khiến ông trở thành một nhà nhân đạo chủ nghĩa lớn.

– Tác phẩm chính của Nguyễn Du là Thanh Hiên thi tập, Nam trung tạp ngâm, Bắc hành tạp lục, Đoạn trường tân thanh, Văn tế thập loại chúng sinh… 

Giá trị về mặt tư tưởng của tác phẩm của Nguyễn Du là có khuynh hướng hiện thực sâu sắc, chân thực, sinh động thực tại xã hội có nhiều biến động, vấn đề số phận con người cùng khổ. Đây là bản cáo trạng đanh thép về “những điều trông thấy” trong thời đại đương thời.

– Tư tưởng nhân đạo xuất hiện trong hầu các tác phẩm của ông, đó là sự quan tâm sâu sắc đến thân phận con người.

– Tiếng khóc xé ruột cho thân phận và nhân phẩm con người bị chà đạp, đặc biệt là người phụ nữ.

– Khúc ca về tình yêu tự do, khát vọng công lí.

– Bản cáo trạng đanh thép tới các thế lực chà đạp con người.

– Trân trọng, ca ngợi vẻ đẹp cùng những khát vọng sống, khát vọng tình yêu hạnh phúc của con người.

– Nguyễn Du lấy sự khẳng định cuộc sống hạnh phúc trần gian làm nền tảng, vượt qua lễ giáo phong kiến để khẳng định giá trị tự thân của con người.

Giá trị về mặt nghệ thuật:

– Thơ chữ Hán của Nguyễn Du giản dị mà tinh luyện, tài hoa.

– Ông đã đưa thơ Nôm lên đỉnh cao với nghệ thuật sử dụng từ và kết hợp tài tình nhiều thủ pháp nghệ thuật. Đến Nguyễn Du, thơ lục bát và song thất lục bát đã đạt đến độ hoàn hảo, mẫu mực, cổ điển.

– Ông đã đóng góp cho sự phát triển của nền văn học Việt Nam, tác phẩm Truyện Kiều là “tập đại hành” về ngôn ngữ văn học dân tộc.

Soạn bài Truyện Kiều của Nguyễn Du học247
Tác phẩm Truyện Kiều được viết bằng chữ Nôm, gồm có 3254 câu thơ lục bát.

– Truyện Kiều còn có tên gọi khác là Đoạn trường tân thanh (nỗi đau đứt ruột mới) được Nguyễn Du sáng tác vào đầu thế kỉ 19 (khoảng 1805-1809)

– Nguyễn Du sáng tác Truyện Kiều dựa trên cốt truyện Kim Vân Kiều truyện của Trung Quốc. Nhưng phần sáng tạo của Nguyễn Du là vô cùng lớn, mang đến sự thành công và sức hấp dẫn cho tác phẩm văn học Việt Nam. 

– Truyện Kiều được viết bằng chữ Nôm, gồm có 3254 câu thơ lục bát.

Bố cục Truyện Kiều được thành 3 phần như sau: 

– Phần 1: Gặp gỡ và đính ước

– Phần 2: Gia biến và lưu lạc

– Phần 3: Đoàn tụ

– Giá trị hiện thực: 

  • Truyện Kiều phản ánh bộ mặt tàn bạo của tầng lớp thống trị và thế lực chà đạp lên quyền sống của con người. 
  • Truyện Kiều phơi bày nỗi khổ đau của những người bị áp bức, đặc biệt là người phụ nữ.
  • Truyện Kiều muốn nói lên số phận “hồng nhan bạc mệnh”.  

– Giá trị nhân đạo: 

  • Là tiếng nói ngợi ca những giá trị, phẩm chất cao đẹp của con người. Đề cao vẻ đẹp, ước mơ và khát vọng chân chính của con người. 
  • Bên cạnh đó Nguyễn Du bộc lộ niềm thương cảm sâu sắc trước những khổ đau của con người, ông xót thương cho Thúy Kiều, một người con gái tài sắc mà phải lâm vào cảnh bị đọa đầy. 
  • Qua những câu thơ, ông còn tố cáo những thế lực tàn bạo đã chà đạp lên quyền sống của những con người lương thiện.

– Ngôn ngữ: nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ tài tình, đạt đỉnh cao của ngôn ngữ văn chương. 

– Nghệ thuật tự sự có bước phát triển vượt bậc: ngôn ngữ kể chuyện có ba hình thức là trực tiếp, gián tiếp và nửa trực tiếp. Nhân vật xuất hiện với cả con người hành động và con người cảm nghĩ. 

– Nghệ thuật xây dựng nhân vật đạt đến thành công vang dội với cách xây dựng nhân vật chính thường được miêu tả bằng lối ước lệ, tượng trưng. Nhân vật phản diện thường được khắc họa theo lối hiện thực hóa. 

– Nghệ thuật miêu tả thiên nhiên đa dạng, có những bức tranh thiên nhiên tả cảnh ngụ tình đặc sắc.

Phân tích đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích, truyện Kiều ngữ văn 9 hay nhất

Soạn bài Truyện Kiều của Nguyễn Du học247
Soạn bài Truyện Kiều của Nguyễn Du ngữ văn lớp 9 chi tiết.

– Thời đại, gia đình:

  • Nguyễn Du (1765- 1820) tên chữ là Tố Như, hiệu là Thanh Hiên quê ở Tiên Điền, Nghi Xuân, Hà Tĩnh. 
  • Sinh trưởng trong gia đình đại quý tộc, nhiều đời làm quan to, có truyền thống về văn học. 
  • Ông sống vào thời kì lịch sử nhiều biến động, chế độ phong kiến rơi vào khủng hoảng trầm trọng. 
  • Các tập đoàn phong kiến Lê- Trịnh- Nguyễn tranh giành quyền lực, phong trào nông dân khởi nghĩa nổi lên khắp nơi đỉnh cao là phong trào Tây Sơn. 

– Cuộc đời:

  • Sống phiêu bạt nhiều nơi trên đất Bắc, ở ẩn Hà Tĩnh. 
  • Làm quan dưới triều Nguyễn, đi sứ Trung Quốc. 
  • Mất trước khi đi sứ Trung Quốc lần 2. 

=> Nguyễn Du là người có vốn hiểu biết sâu rộng, phong phú, cuộc đời phiêu bạt nhiều trải nghiệm với cuộc sống đời thường nên ông thấu hiểu, cảm thông cho số phận con người. 

    Thúy Kiều là thiếu nữ tài sắc vẹn toàn “hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh). Thúy Kiều là con gái đầu lòng gia đình trung lưu, sống trong cảnh êm đềm cùng hai em Thúy Vân, Vương Quan. Trong buổi du xuân Thúy Kiều gặp Kim Trọng và đem lòng yêu chàng, hai người đã tự ý thề nguyền, đính ước với nhau.

    Khi Kim Trọng về quê chịu tang chú thì gia đình Kiều gặp nạn, Kiều phải bán mình chuộc cha. Kiều bị bọn buôn người Mã Giám Sinh, Tú Bà, Sở Khanh lừa gạt, đẩy vào lầu xanh. Sau đó nàng được Thúc Sinh, và Thúc Sinh đã cứu khỏi lầu xanh nhưng sau đó nàng bị Hoạn Thư ghen, đày đọa. Kiều tới nương tựa nơi cửa Phật. Sư giác Duyên đẩy vô tình gửi nàng cho Bạc Bà, đây là Kiều lần hai rơi vào lầu xanh được Từ Hải cứu, giúp nàng báo ân, báo oán. Nhưng sau đó Thúy Kiều mắc mưu Hồ Tôn Hiến ép gả cho viên thổ quan, Kiều đau đớn nên trẫm mình xuống sông tiền Đường tự tử. Nàng được sư Giác Duyên cứu giúp.

    Sau nửa năm chịu tang chú, Kim Trọng trở về, dù kết duyên với em gái Thúy Kiều, nhưng trong lòng chàng vẫn khôn nguôi nhớ Kiều. Nhờ sư Giác Duyên, Kim Kiều đoàn tụ cùng vui duyên “bạn bầy” với Kim Trọng. 

Trăm năm trong cõi người ta,

Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau.

Trải qua một cuộc bể dâu,

Những điều trông thấy mà đau đớn lòng.

Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen.

Cảo thơm lần giở trước đèn,

Phong tình cổ lục còn truyền sử xanh.

Rằng năm Gia Tĩnh triều Minh,

  1. Bốn phương phẳng lặng, hai kinh vững vàng.

Có nhà viên ngoại họ Vương,

Gia tư nghĩ cũng thường thường bực trung.

Một trai con thứ rốt lòng,

Vương Quan là chữ, nối dòng nho gia.

Thúy Kiều là chị, em là Thúy Vân.

Mai cốt cách, tuyết tinh thần,

Mỗi người một vẻ, mười phân vẹn mười.

Vân xem trang trọng khác vời,

  1. Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang.

Hoa cười ngọc thốt đoan trang,

Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da.

Kiều càng sắc sảo, mặn mà,

So bề tài, sắc, lại là phần hơn.

  1. Làn thu thủy, nét xuân sơn,

Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh.

Một, hai nghiêng nước nghiêng thành,

Sắc đành đòi một, tài đành họa hai.

Thông minh vốn sẵn tư trời,

  1. Pha nghề thi họa, đủ mùi ca ngâm.

Cung thương làu bậc ngũ âm,

Nghề riêng ăn đứt Hồ cầm một trương.

Khúc nhà tay lựa nên chương,

Một thiên bạc mệnh, lại càng não nhân.

  1. Phong lưu rất mực hồng quần,

Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê

Êm đềm trướng rủ màn che,

Tường đông ong bướm đi về mặc ai.

Ngày xuân con én đưa thoi,

  1. Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi.

Cỏ non xanh tận chân trời,

Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.

Thanh minh trong tiết tháng ba,

Lễ là tảo mộ, hội là đạp Thanh.

Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân.

Dập dìu tài tử, giai nhân,

Ngựa xe như nước áo quần như nêm.

Ngổn ngang gò đống kéo lên,

  1. Thoi vàng vó rắc tro tiền giấy bay.

Tà tà bóng ngả về tây,

Chị em thơ thẩn dan tay ra về.

Bước dần theo ngọn tiểu khê,

Lần xem phong cảnh có bề thanh thanh.

  1. Nao nao dòng nước uốn quanh,

Dịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang.

Sè sè nấm đất bên đàng,

Dàu dàu ngọn cỏ nửa vàng nửa xanh.

Rằng: Sao trong tiết thanh minh,

  1. Mà đây hương khói vắng tanh thế mà?

Vương Quan mới dẫn gần xa:

Đạm Tiên nàng ấy xưa là ca nhi.

Nổi danh tài sắc một thì,

Xôn xao ngoài cửa hiếm gì yến anh.

  1. Kiếp hồng nhan có mong manh,

Nửa chừng xuân thoắt gãy cành thiên hương.

Có người khách ở viễn phương,

Xa nghe cũng nức tiếng nàng tìm chơi.

Thuyền tình vừa ghé tới nơi,

  1. Thì đà trâm gẫy bình rơi bao giờ.

Buồng không lạnh ngắt như tờ,

Dấu xe ngựa đã rêu lờ mờ xanh.

Khóc than khôn xiết sự tình,

Kéo vô duyên ấy là mình với ta.

  1. Đã không duyên trước chăng mà,

Thì chi chút ước gọi là duyên sau.

Sắm xanh nếp tử xe châu,

Vùi nông một nấm mặc dầu cỏ hoa.

Trải bao thỏ lặn ác tà,

  1. Ấy mồ vô chủ, ai mà viếng thăm!

Lòng đâu sẵn mối thương tâm,

Thoắt nghe Kiều đã đầm đầm châu sa.

Đau đớn thay phận đàn bà!

Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung.

  1. Phũ phàng chi bấy hoá công,

Ngày xanh mòn mỏi má hồng phôi pha.

Sống làm vợ khắp người ta,

Khéo thay thác xuống làm ma không chồng.

Nào người phượng chạ loan chung,

  1. Nào người tích lục tham hồng là ai?

Đã không kẻ đoái người hoài,

Sẵn đây ta kiếm một vài nén hương.

Gọi là gặp gỡ giữa đường,

Họa là người dưới suối vàng biết cho.

  1. Lầm rầm khấn khứa nhỏ to,

Sụp ngồi vài gật trước mồ bước ra.

Một vùng cỏ áy bóng tà,

Gió hiu hiu thổi một vài bông lau.

Rút trâm sẵn giắt mái đầu,

  1. Vạch da cây vịnh bốn câu ba vần.

Lại càng mê mẩn tâm thần

Lại càng đứng lặng tần ngần chẳng ra.

Lại càng ủ dột nét hoa,

Sầu tuôn đứt nối, châu sa vắn dài.

  1. Vân rằng: Chị cũng nực cười,

Khéo dư nước mắt khóc người đời xưa.

Rằng: Hồng nhan tự thuở xưa,

Cái điều bạc mệnh có chừa ai đâu?

Nỗi niềm tưởng đến mà đau,

  1. Thấy người nằm đó biết sau thế nào?

Quan rằng: Chị nói hay sao,

Một lời là một vận vào khó nghe.

Ở đây âm khí nặng nề,

Bóng chiều đã ngả dặm về còn xa.

  1. Kiều rằng: Những đấng tài hoa,

Thác là thể phách, còn là tinh anh,

Dễ hay tình lại gặp tình,

Chờ xem ắt thấy hiển linh bây giờ.

Một lời nói chửa kịp thưa,

  1. Phút đâu trận gió cuốn cờ đến ngay.

Ào ào đổ lộc rung cây,

Ở trong dường có hương bay ít nhiều.

Đè chừng ngọn gió lần theo,

Dấu giày từng bước in rêu rành rành.

  1. Mắt nhìn ai nấy đều kinh,

Nàng rằng: Này thực tinh thành chẳng xa.

Hữu tình ta lại gặp ta,

Chớ nề u hiển mới là chị em.

Đã lòng hiển hiện cho xem,

Tạ lòng nàng lại nối thêm vài lời.

  1. Lòng thơ lai láng bồi hồi,

Gốc cây lại vạch một bài cổ thi.

Dùng dằng nửa ở nửa về,

Nhạc vàng đâu đã tiếng nghe gần gần.

  1. Trông chừng thấy một văn nhân,

Lỏng buông tay khấu bước lần dặm băng.

Đề huề lưng túi gió trăng,

Sau chân theo một vài thằng con con.

Tuyết in sắc ngựa câu giòn,

  1. Cỏ pha màu áo nhuộm non da trời.

Nẻo xa mới tỏ mặt người,

Khách đà xuống ngựa tới nơi tự tình.

Hài văn lần bước dặm xanh,

Một vùng như thể cây quỳnh cành dao.

  1. Chàng Vương quen mặt ra chào,

Hai Kiều e lệ nép vào dưới hoa.

Nguyên người quanh quất đâu xa,

Họ Kim tên Trọng vốn nhà trâm anh.

Nền phú hậu, bậc tài danh,

  1. Văn chương nết đất, thông minh tính trời.

Phong tư tài mạo tót vời,

Vào trong phong nhã, ra ngoài hào hoa.

Chung quanh vẫn đất nước nhà,

Với Vương Quan trước vẫn là đồng thân.

  1. Vẫn nghe thơm nức hương lân,

Một nền đồng Tước khóa xuân hai Kiều.

Nước non cách mấy buồng thêu,

Những là trộm nhớ thầm yêu chốc mòng.

May thay giải cấu tương phùng,

  1. Gặp tuần đố lá thoả lòng tìm hoa.

Bóng hồng nhác thấy nẻo xa,

Xuân lan thu cúc mặn mà cả hai.

Người quốc sắc, kẻ thiên tài,

Tình trong như đã, mặt ngoài còn e.

  1. Chập chờn cơn tỉnh cơn mê.

Rốn ngồi chẳng tiện, dứt về chỉn khôn.

Bóng tà như giục cơn buồn,

Khách đà lên ngựa, người còn nghé theo.

Dưới cầu nước chảy trong veo,

  1. Bên cầu tơ liễu bóng chiều thướt tha.

Kiều từ trở gót trướng hoa,

Mặt trời gác núi chiêng đà thu không.

Mảnh trăng chênh chếch dòm song,

Vàng gieo ngấn nước, cây lồng bóng sân.

  1. Hải đường lả ngọn đông lân,

Giọt sương gieo nặng cành xuân la đà.

Một mình lặng ngắm bóng nga,

Rộn đường gần với nỗi xa bời bời:

Người mà đến thế thì thôi,

  1. Đời phồn hoa cũng là đời bỏ đi!

Người đâu gặp gỡ làm chi,

Trăm năm biết có duyên gì hay không?

Ngổn ngang trăm mối bên lòng,

Nên câu tuyệt diệu ngụ trong tính tình.

  1. Chênh chênh bóng nguyệt xế mành,

Tựa nương bên triện một mình thiu thiu.

Thoắt đâu thấy một tiểu kiều,

Có chiều thanh vận, có chiều thanh tân.

Sương in mặt, tuyết pha thân,

  1. Sen vàng lãng đãng như gần như xa.

Chào mừng đón hỏi dò la:

Đào nguyên lạc lối đâu mà đến đây?

Thưa rằng: Thanh khí xưa nay,

Mới cùng nhau lúc ban ngày đã quên.

Dưới dòng nước chảy bên trên có cầu.

Mấy lòng hạ cố đến nhau,

Mấy lời hạ tứ ném châu gieo vàng.

Vâng trình hội chủ xem tường,

  1. Mà sao trong sổ đoạn trường có tên.

Âu đành quả kiếp nhân duyên,

Cùng người một hội, một thuyền đâu xa!

Này mười bài mới mới ra,

Câu thần lại mượn bút hoa vẽ vời.

Tay tiên một vẫy đủ mười khúc ngâm.

Xem thơ nức nở khen thầm:

Giá đành tú khẩu cẩm tâm khác thường

Ví đem vào tập Đoạn Trường

  1. Thì treo giải nhất chi nhường cho ai.

Thềm hoa khách đã trở hài,

Nàng còn cầm lại một hai tự tình.

Gió đâu xịch bức mành mành,

Tỉnh ra mới biết rằng mình chiêm bao.

  1. Trông theo nào thấy đâu nào

Hương thừa dường hãy ra vào đâu đây.

Một mình lưỡng lự canh chầy,

Đường xa nghĩ nỗi sau này mà kinh.

Hoa trôi bèo dạt đã đành,

  1. Biết duyên mình, biết phận mình thế thôi!

Nỗi riêng lớp lớp sóng dồi,

Nghĩ đòi cơn lại sụt sùi đòi cơn.

Giọng Kiều rền rĩ trướng loan,

Nhà Huyên chợt tỉnh hỏi: Cơn cớ gì?

  1. Cớ sao trằn trọc canh khuya,

Màu hoa lê hãy dầm dề giọt mưa?

Thưa rằng: Chút phận ngây thơ,

Dưỡng sinh đôi nợ tóc tơ chưa đền.

Buổi ngày chơi mộ Đạm Tiên,

  1. Nhắp đi thoắt thấy ứng liền chiêm bao. Đoạn trường là số thế nào,

Bài ra thế ấy, vịnh vào thế kia.

Cứ trong mộng triệu mà suy,

Phận con thôi có ra gì mai sau!

  1. Dạy rằng: Mộng triệu cớ đâu,

Bỗng không mua não chuốc sầu nghĩ nao.

Vâng lời khuyên giải thấp cao,

Chưa xong điều nghĩ đã dào mạch Tương.

Ngoài song thỏ thẻ oanh vàng,

  1. Nách tường bông liễu bay ngang trước mành.

Hiên tà gác bóng chênh chênh,

Nỗi riêng, riêng chạnh tấc riêng một mình.

Cho hay là thói hữu tình,

Đố ai gỡ mối tơ mành cho xong.

Kiều gặp được Kim Trọng, nhưng duyên không tới.

  1. Chàng Kim từ lại thư song,

Nỗi nàng canh cánh bên lòng biếng khuây.

Sầu đong càng lắc càng đầy,

Ba thu dồn lại một ngày dài ghê.

Mây Tần khóa kín song the,

  1. Bụi hồng lẽo đẽo đi về chiêm bao.

Tuần trăng khuyết, đĩa dầu hao,

Mặt mơ tưởng mặt, lòng ngao ngán lòng.

Buồng văn hơi giá như đồng,

Trúc se ngọn thỏ, tơ chùng phím loan.

  1. Mành Tương phất phất gió đàn,

Hương gây mùi nhớ, trà khan giọng tình.

Vì chăng duyên nợ ba sinh,

Thì chi đem thói khuynh thành trêu ngươi.

Bâng khuâng nhớ cảnh, nhớ người,

  1. Nhớ nơi kỳ ngộ vội dời chân đi.

Một vùng cỏ mọc xanh rì,

Nước ngâm trong vắt, thấy gì nữa đâu!

Gió chiều như gợi cơn sầu,

Vi lô hiu hắt như màu khảy trêu.

  1. Nghề riêng nhớ ít tưởng nhiều,

Xăm xăm đè nẻo Lam Kiều lần sang.

Thâm nghiêm kín cổng cao tường,

Cạn dòng lá thắm dứt đường chim xanh.

Lơ thơ tơ liễu buông mành,

  1. Con oanh học nói trên cành mỉa mai.

Mấy lần cửa đóng then cài,

Đầy thềm hoa rụng, biết người ở đâu?

Tần ngần đứng suốt giờ lâu,

Dạo quanh chợt thấy mái sau có nhà.

  1. Là nhà Ngô Việt thương gia,

Buồng không để đó người xa chưa về.

Lấy điều du học hỏi thuê,

Túi đàn cặp sách đề huề dọn sang.

Có cây, có đá sẵn sàng,

  1. Có hiên Lãm thúy, nét vàng chưa phai.

Mừng thầm chốn ấy chữ bài,

Ba sinh âu hẳn duyên trời chi đây.

Song hồ nửa khép cánh mây,

Tường đông ghé mắt ngày ngày hằng trông.

  1. Tấc gang đồng tỏa nguyên phong,

Tuyệt mù nào thấy bóng hồng vào ra.

Nhẫn từ quán khách lân la,

Tuần trăng thấm thoắt nay đà thèm hai.

Cách tường phải buổi êm trời,

  1. Dưới đào dường có bóng người thướt tha.

Buông cầm xốc áo vội ra,

Hương còn thơm nức, người đà vắng tanh.

Lần theo tường gấm dạo quanh,

Trên đào nhác thấy một cành kim thoa.

Này trong khuê các đâu mà đến đây?

Ngẫm âu người ấy báu này,

Chẳng duyên chưa dễ vào tay ai cầm!

Liền tay ngắm nghía biếng nằm,

  1. Hãy còn thoang thoảng hương trầm chưa phai.

Tan sương đã thấy bóng người,

Quanh tường ra ý tìm tòi ngẩn ngơ.

Sinh đà có ý đợi chờ,

Cách tường lên tiếng xa đưa ướm lòng:

  1. Thoa này bắt được hư không,

Biết đâu Hợp Phố mà mong châu về?

Tiếng Kiều nghe lọt bên kia:

Ơn lòng quân tử sá gì của rơi,

Chiếc thoa nào của mấy mươi,

  1. Mà lòng trọng nghĩa khinh tài xiết bao!

Sinh rằng: Lân lý ra vào,

Gần đây nào phải người nào xa xôi.

Được rày nhờ chút thơm rơi,

Kể đà thiểu não lòng người bấy nay!

  1. Bấy lâu mới được một ngày,

Dừng chân gạn chút niềm tây gọi là.

Vội về thêm lấy của nhà,

Xuyến vàng đôi chiếc khăn là một vuông.

Bậc mây rón bước ngọn tường,

  1. Phải người hôm nọ rõ ràng chẳng nhe?

Sượng sùng giữ ý rụt rè,

Kẻ nhìn rõ mặt người e cúi đầu.

Rằng: Từ ngẫu nhĩ gặp nhau.

Thầm trông trộm nhớ bấy lâu đã chồn.

  1. Xương mai tính đã rũ mòn,

Lần lừa ai biết hãy còn hôm nay!

Tháng tròn như gởi cung mây,

Trần trần một phận ấp cây đã liều!

Tiện đây xin một hai điều,

  1. Đài gương soi đến dấu bèo cho chăng?

Ngần ngừ nàng mới thưa rằng:

Thói nhà băng tuyết chất hằng phỉ phong,

Dù khi lá thắm chỉ hồng,

Nên chăng thì cũng tại lòng mẹ cha.

  1. Nặng lòng xót liễu vì hoa,

Trẻ thơ đã biết đâu mà dám thưa!

Sinh rằng: Rày gió mai mưa,

Ngày xuân đã dễ tình cờ mấy khi!

Dù chăng xét tấm tình si,

  1. Thiệt đây mà có ích gì đến ai?

Chút chi gắn bó một hai,

Cho đành rồi sẽ liệu bài mối manh.

Khuôn thiêng dù phụ tấc thành,

Cũng liều bỏ quá xuân xanh một đời.

  1. Lượng xuân dù quyết hẹp hòi,

Công đeo đuổi chẳng thiệt thòi lắm ru!

Lặng nghe lời nói như ru,

Chiều xuân dễ khiến nét thu ngại ngùng.

Rằng: Trong buổi mới lạ lùng,

  1. Nể lòng có lẽ cầm lòng cho đang!

Đã lòng quân tử đa mang,

Một lời vàng tạc đá vàng thủy chung.

Được lời như cởi tấm lòng,

Giờ kim hoàn với khăn hồng trao tay.

  1. Rằng: Trăm năm cũng từ đây,

Của tin gọi một chút này làm ghi.

Sẵn tay khăn gấm quạt quỳ,

Với cành thoa ấy tức thì đổi trao.

Một lời vừa gắn tất giao,

  1. Mái sau dường có xôn xao tiếng người.

Vội vàng lá rụng hoa rơi,

Chàng về viện sách nàng dời lầu trang.

Từ phen đá biết tuổi vàng,

Tình càng thấm thía dạ càng ngẩn ngơ.

  1. Sông Tương một dải nông sờ,

Bên trông đầu nọ bên chờ suối kia.

Một tường tuyết trở sương che.

Tin xuân đâu dễ đi về cho năng.

Lần lần ngày gió đêm trăng,

  1. Thưa hồng rậm lục đã chừng xuân qua.

Ngày vừa sinh nhật ngoại gia,

Trên hai đường dưới nữa là hai em.

Tưng bừng sắm sửa áo xiêm,

Biện dâng một lễ xa đem tấc thành.

  1. Nhà lan thanh vắng một mình,

Ngẫm cơ hội ngộ đã dành hôm nay.

Thời trân thức thức sẵn bày,

Gót sen thoăn thoắt dạo ngay mái tường.

Cách hoa sẽ dặng tiếng vàng,

  1. Dưới hoa đã thấy có chàng đứng trông:

Trách lòng hờ hững với lòng,

Lửa hương chốc để lạnh lùng bấy lâu.

Những là đắp nhớ đổi sầu,

Tuyết sương nhuốm nửa mái đầu hoa râm.

  1. Nàng rằng: Gió bắt mưa cầm,

Đã cam tệ với tri âm bấy chầy.

Vắng nhà được buổi hôm nay,

Lấy lòng gọi chút ra đây tạ lòng!

Lần theo núi giả đi vòng,

  1. Cuối tường dường có nẻo thông mới rào.

Xắn tay mở khóa động đào,

Rẽ mây trông tỏ lối vào Thiên-thai.

Mặt nhìn mặt càng thêm tươi,

Bên lời vạn phúc bên lời hàn huyên.

  1. Sánh vai về chốn thư hiên,

Góp lời phong nguyệt nặng nguyền non sông.

Trên yên bút giá thi đồng,

Đạm thanh một bức tranh tùng treo trên.

Phong sương được vẻ thiên nhiên,

  1. Mặt khen nét bút càng nhìn càng tươi.

Sinh rằng: Phác họa vừa rồi,

Phẩm đề xin một vài lời thêm hoa.

Tay tiên gió táp mưa sa,

Khoảng trên dừng bút thảo và bốn câu.

  1. Khen: Tài nhả ngọc phun châu,

Nàng Ban ả Tạ cũng đâu thế này!

Kiếp tu xưa ví chưa dày

Phúc nào nhắc được giá này cho ngang!

Nàng rằng: Trộm liếc dung quang,

  1. Chẳng sân bội ngọc cũng phường kim môn.

Nghĩ mình phận mỏng cánh chuồn,

Khuôn xanh biết có vuông tròn mà hay?

Nhớ từ năm hãy thơ ngây,

Có người tướng sĩ đoán ngay một lời:

  1. Anh hoa phát tiết ra ngoài,

Nghìn thu bạc mệnh một đời tài hoa.

Trông người lại ngẫm đến ta,

Một dầy một mỏng biết là có nên?

Sinh rằng: Giải cấu là duyên,

  1. Xưa nay nhân định thắng thiên cũng nhiều.

Ví dù giải kết đến điều,

Thì đem vàng đá mà liều với thân!

Đủ điều trung khúc ân cần,

Lòng xuân phơi phới chén xuân tàng tàng.

  1. Ngày vui ngắn chẳng đầy gang,

Trông ra ác đã ngậm gương non đoài.

Vắng nhà chẳng tiện ngồi dai,

Giã chàng nàng mới kíp dời song sa.

Đến nhà vừa thấy tin nhà,

  1. Hai thân còn dở tiệc hoa chưa về.

Cửa ngoài vội rủ rèm the,

Xăm xăm băng lối vườn khuya một mình.

Nhặt thưa gương giọi đầu cành,

Ngọn đèn trông lọt trướng huỳnh hắt hiu.

  1. Sinh vừa tựa án thiu thiu,

Dở chiều như tỉnh dở chiều như mê.

Tiếng sen sẽ động giấc hòe,

Bóng trăng đã xế hoa lê lại gần.

Bâng khuâng đỉnh Giáp non Thần,

  1. Còn ngờ giấc mộng đêm xuân mơ màng.

Nàng rằng: Khoảng vắng đêm trường,

Vì hoa nên phải đánh đường tìm hoa.

Bây giờ rõ mặt đôi ta,

Biết đâu rồi nữa chẳng là chiêm bao?

  1. Vội mừng làm lễ rước vào,

Đài sen nối sáp song đào thêm hương.

Tiên thề cùng thảo một chương,

Tóc mây một món dao vàng chia đôi.

Vầng trăng vằng vặc giữa trời,

  1. Đinh ninh hai mặt một lời song song.

Tóc tơ căn vặn tấc lòng,

Trăm năm tạc một chữ đồng đến xương.

Chén hà sánh giọng quỳnh tương,

Dải là hương lộn bình gương bóng lồng.

  1. Sinh rằng: Gió mát trăng trong,

Bấy lâu nay một chút lòng chưa cam.

Chày sương chưa nện cầu Lam,

Sợ lần khân quá ra sàm sỡ chăng?

Nàng rằng: Hồng diệp xích thằng,

  1. Một lời cũng đã tiếng rằng tương tri.

Đừng điều nguyệt nọ hoa kia.

Ngoài ra ai lại tiếc gì với ai.

Rằng: Nghe nổi tiếng cầm đài,

Nước non luống những lắng tai Chung Kỳ.

  1. Thưa rằng: Tiện kỹ sá chi,

Đã lòng dạy đến dạy thì phải vâng.

Hiên sau treo sẵn cầm trăng,

Vội vàng Sinh đã tay nâng ngang mày.

Nàng rằng: Nghề mọn riêng tay,

  1. Làm chi cho bận lòng này lắm thân!

So dần dây vũ dây văn,

Bốn dây to nhỏ theo vần cung thương.

Khúc đâu Hán Sở chiến trường,

Nghe ra tiếng sắt tiếng vàng chen nhau.

  1. Khúc đâu Tư mã Phượng cầu,

Nghe ra như oán như sầu phải chăng!

Kê Khang này khúc Quảng lăng,

Một rằng lưu thủy hai rằng hành vân.

Qua quan này khúc Chiêu Quân,

  1. Nửa phần luyến chúa nửa phần tư gia.

Trong như tiếng hạc bay qua,

Đục như tiếng suối mới sa nửa vời.

Tiếng khoan như gió thoảng ngoài,

Tiếng mau sầm sập như trời đổ mưa.

Khiến người ngồi đó cũng ngơ ngẩn sầu.

Khi tựa gối khi cúi đầu,

Khi vò chín khúc khi chau đôi mày.

Rằng: Hay thì thật là hay,

  1. Nghe ra ngậm đắng nuốt cay thế nào!

Lựa chi những bậc tiêu tao,

Dột lòng mình cũng nao nao lòng người?

Rằng: Quen mất nết đi rồi,

Tẻ vui thôi cũng tính trời biết sao!

Họa dần dần bớt chút nào được không.

Hoa hương càng tỏ thức hồng,

Đầu mày cuối mắt càng nồng tấm yêu.

Sóng tình dường đã xiêu xiêu,

  1. Xem trong âu yếm có chiều lả lơi.

Thưa rằng: đừng lấy làm chơi,

Dẽ cho thưa hết một lời đã nao!

Vẻ chi một đóa yêu đào,

Vườn hồng chi dám ngăn rào chim xanh.

Đạo tòng phu lấy chữ trinh làm đầu

Ra tuồng trên Bộc trong dâu,

Thì con người ấy ai cầu làm chi!

Phải điều ăn xổi ở thì,

  1. Tiết trăm năm nỡ bỏ đi một ngày!

Ngẫm duyên kỳ ngộ xưa nay,

Lứa đôi ai đẹp lại tày Thôi Trương.

Mây mưa đánh đổ đá vàng,

Quá chiều nên đã chán chường yến anh.

  1. Trong khi chắp cánh liền cành,

Mà lòng rẻ rúng đã dành một bên.

Mái tây để lạnh hương nguyền,

Cho duyên đằm thắm ra duyên bẽ bàng.

Gieo thoi trước chẳng giữ giàng,

  1. Để sau nên thẹn cùng chàng bởi ai?

Vội chi liễu ép hoa nài,

Còn thân ắt lại đền bồi có khi!

Thấy lời đoan chính dễ nghe,

Chàng càng thêm nể thêm vì mười phân.

  1. Bóng tàu vừa lạt vẻ ngân,

Tin đâu đã thấy cửa ngăn gọi vào.

Nàng thì vội trở buồng thêu,

Sinh thì dạo gót sân đào bước ra.

Cửa sài vừa ngỏ then hoa,

  1. Gia đồng vào gởi thư nhà mới sang.

Đem tin thúc phụ từ đường,

Bơ vơ lữ thấn tha hương đề huề.

Liêu dương cách trở sơn khê,

Xuân đường kíp gọi sinh về hộ tang.

  1. Mảng tin xiết nỗi kinh hoàng,

Băng mình lẻn trước đài trang tự tình.

Gót đầu mọi nỗi đinh ninh,

Nỗi nhà tang tóc nỗi mình xa xôi:

Sự đâu chưa kịp đôi hồi,

  1. Duyên đâu chưa kịp một lời trao tơ,

Trăng thề còn đó trơ trơ,

Dám xa xôi mặt mà thưa thớt lòng.

Ngoài nghìn dặm chốc ba đông,

Mối sầu khi gỡ cho xong còn chầy!

  1. Gìn vàng giữ ngọc cho hay,

Cho đành lòng kẻ chân mây cuối trời.

Tai nghe ruột rối bời bời,

Ngập ngừng nàng mới giãi lời trước sau:

Ông tơ ghét bỏ chi nhau,

  1. Chưa vui sum họp đã sầu chia phôi!

Cùng nhau trót đã nặng lời,

Dẫu thay mái tóc dám dời lòng tơ!

Quản bao tháng đợi năm chờ,

Nghĩ người ăn gió nằm mưa xót thầm.

  1. Đã nguyền hai chữ đồng tâm,

Trăm năm thề chẳng ôm cầm thuyền ai.

Còn non còn nước còn dài,

Còn về còn nhớ đến người hôm nay!

Dùng dằng chưa nỡ rời tay,

  1. Vầng đông trông đã đứng ngay nóc nhà.

Ngại ngùng một bước một xa,

Một lời trân trọng châu sa mấy hàng.

Buộc yên quảy gánh vội vàng,

Mối sầu xẻ nửa bước đường chia hai.

  1. Buồn trông phong cảnh quê người,

Đầu cành quyên nhặt cuối trời nhạn thưa.

Não người cữ gió tuần mưa,

Một ngày nặng gánh tương tư một ngày.

Nàng còn đứng tựa hiên tây,

  1. Chín hồi vấn vít như vầy mối tơ.

Trông chừng khói ngất song thưa,

Hoa trôi trác thắm, liễu xơ xác vàng.

Soạn bài Truyện Kiều của Nguyễn Du học247
Tóm tắt Truyện Kiều của Nguyễn Du theo 3 phần của tác phẩm.

 – Phần thứ nhất: Gặp gỡ và đính ước

      Thúy Kiều là một người con gái tài sắc vẹn toàn, con gái đầu lòng trong một gia đình trung lưu lương thiện, sống trong cảnh “Êm đềm trướng rủ màn che” bên cạnh cha mẹ và hai em là Thúy Vân và Vương Quan. Trong ngày hội Đạp Thanh, gần nấm mồ Đạm Tiên – một hình ảnh báo hiệu định mệnh oan nghiệt sau này của nàng- Thuý Kiều gặp Kim Trọng. Trong buổi đi chơi xuân, Thúy Kiều đã gặp Kim Trọng, một người thư sinh “phong tư tài mạo tót vời”. Giữa hai người chớm nở một mối tình đẹp đẽ, sau đó hai người đã đính ước với nhau.

– Phần thứ hai: Gia biến và lưu lạc

      Kim Trọng về quê chịu tang chú, gia đình Thúy Kiều bị mắc oan, nàng đã bán mình cho Mã Giám Sinh để lấy tiền chuộc cha và Thúy Kiều đã nhờ Thúy Vân trả nghĩa cho Kim Trọng. Thúy Kiều bị Mã Giám Sinh, Tú Bà, Sở Khanh lừa gạt, đẩy vào lầu xanh. Sau đó Thúy Kiều được Thúc Sinh chuộc ra nhưng vợ của hắn ta là Hoạn Thư là người ghen tuông tàn nhẫn. Thúy Kiều bị đày đọa cả về thể xác và tinh thần. Kiều trốn đến nương nhờ Sư Giác Duyên ở nơi cửa Phật. Sợ bị liên lụy nên Giác Duyên gửi nàng cho Bạc Bà, không ngờ Bạc Bà lại lừa bán nàng cho một chủ lầu xanh. Đây là lần thứ 2 Thúy Kiều rơi vào lầu xanh. Ở đây, Thúy Kiều gặp Từ Hải, người anh hùng “đầu đội trời, chân đạp đất”. Từ Hải đã giúp Thúy Kiều báo ân báo oán. Nhưng do mắc mưa đồ của Hồ Tôn Hiến nên Từ Hải bị giết, Thúy Kiều bị ép gả cho viên thổ quan. Thúy Kiều đau đớn trầm mình xuống sông Tiền Đường và được sư Giác Duyên cứu lần hai. Lần thứ hai, Kiều nương nhờ nơi cửa Phật.

– Phần thứ ba: Đoàn tụ

      Kim Trọng sau nửa năm chịu tang chú đã trở lại tìm Kiều, biết Kiều bán mình cứu cha thì đau lòng khôn nguôi. Theo lời dặn của Kiều, cha mẹ Kiều cho Thuý Vân kết duyên với Kim Trọng. Dù kết duyên với Thúy Vân nhưng Kim Trọng vẫn lưu luyến mối tình với Kiều, chàng cất công tìm kiếm, gặp được Thúy Kiều, gia đình đoàn tụ. Trong ngày đoàn viên vui vẻ, để bảo vệ “danh tiết” và tỏ lòng kính trọng người yêu, Kiều đổi tình vợ chồng thành tình bạn.nhưng cả hai nguyện ước “duyên đôi lứa cũng là duyên bạn bầy”.

Bài giảng Truyện Kiều của Nguyễn Du: 

Truyện Kiều của Nguyễn Du là tác phẩm văn học nổi tiếng của Việt Nam và nhân loại. Những câu thơ trong Truyện Kiều được Nguyễn Du trau chuốt, sử dụng tài tình ngôn ngữ dân tộc cũng những biện pháp nghệ thuật. Vậy nên, khi đọc bài thơ, sẽ có các em học sinh sẽ cần giải thích nghĩa. Bài soạn Truyện Kiều của Nguyễn Du  của lessonopoly trên đây sẽ giúp các em hiểu hơn về tác phẩm và những giá trị nội dung cộng với giá trinh nhân đạo.