Tại sao lại có giới tính thứ 3

Bệnh nhân từ nữ thành nam thường yêu cầu phẫu thuật cắt bỏ vú sớm vì khó có thể sống với vai trò nam giới với một lượng lớn mô vú; sự tồn tại vú thường gây ra khó thở.

Sau đó, phẫu thuật cắt tử cung và cắt buồng trứng có thể được thực hiện sau một đợt điều trị bằng hooc môn androgen (ví dụ, các chế phẩm testosteron ester 300 đến 400 mg tiêm bắp mỗi 3 tuần hoặc các liều tương đương của miếng dán da hoặc gel androgen). Các chế phẩm Testosteron thường làm trầm tiếng nói một cách bền vững, làm tăng lượng cơ ở giới nam và phân bố lại mỡ, gây phì đại âm vật, và thúc đẩy mọc lông trên cơ thể và râu trên mặt.

Bệnh nhân có thể lựa chọn một trong những cách thức sau đây:

  • Một dương vật giả (neophallus) được tạo thành từ da cấy ghép từ cẳng tay, chân hoặc bụng (tạo hình dương vật)

  • Một dượng vật nhỏ được tạo thành từ các mô mỡ được lấy ra từ mu chậu và đặt xung quanh âm vật phì đại do testosteron (tái tạo dương vật nhỏ)

Với một trong hai thủ thuật, tạo hình bìu thường cũng được thực hiện; môi lớn được cắt ra để tạo thành các cấu trúc lỗ rỗng gần giống với bìu, và các phương pháp cấy ghép tinh hoàn được thực hiện để lấp đầy bìu.

Phẫu thuật có thể giúp một số bệnh nhân nhất định đạt được sự thích ứng và hài lòng hơn. Tương tự như những trường hợp chuyển giới từ nam thành nữ, những người chuyển giới từ nữ thành nam và phải sống trong vai trò nam giới ít nhất 1 năm trước khi được chuyển đến phẫu thuật sinh dục không thể đảo ngược.

Kết quả về mặt giải phẫu của các phẫu thuật tạo hình dương vật giả thường ít làm bệnh nhân hài lòng về mặt chức năng và ngoại hình hơn so với phẫu thuật chuyển giới tính từ nam thành nữ, điều này có thể dẫn đến ít yêu cầu phẫu thuật chuyển giới tình từ nữ thành nam. Khi kỹ thuật tạo hình dương vật tiếp tục được cải tiến, yêu cầu tạo hình dương vật đã tăng lên.

Vì sao bị đồng tính?

Làm thế nào để nhận diện được những người mắc bệnh đồng tính, đó là một loại “bệnh” hay “tình”, và nếu là bệnh thật thì cách chữa trị, khắc phục như thế nào, còn là tình thì phải làm sao?... Nhân viên y tế thôn bản cần trang bị cho mình cũng như người dân trên địa bàn những kiến thức cơ bản về căn bệnh này để giúp họ có cái nhìn đúng đắn và giúp người bệnh hòa nhập được với xã hội.

Hãy thông cảm và chia sẻ với người bệnh đồng tính. Ảnh: MH.

Nguyên nhân dẫn đến tình trạng mắc phải hiện tượng đồng tính

Cho đến thời điểm này, không thể quy trọn vẹn hiện tượng đồng tính luyến ái cho nguyên nhân sinh học hay nguyên nhân tâm lý. Theo những nghiên cứu mới nhất, nhiều nhà nghiên cứu đã chứng minh rằng, vùng đồ thị trên não của những người thuộc giới thứ 3 có sự khác biệt nhất định so với những người thuộc giới tính thứ nhất hay giới tính thứ 2. Rõ ràng, nguyên nhân sinh học có ảnh hưởng không nhỏ.

Tuy vậy, chính môi trường gia đình, sự chăm sóc và cách giáo dục của bố mẹ và sự tương tác của cuộc sống xung quanh cũng là một yếu tố ảnh hưởng khá rõ đến biểu hiện của hiện tượng này.

Các nhóm đối tượng đồng tính?

Có thể phân nhóm đối tượng này một cách đơn giản như sau:

- Nhóm đối tượng có biểu hiện bẩm sinh từ nhỏ;

- Nhóm đối tượng chuyển hướng vì thực sự tìm được chính mình;

- Nhóm đối tượng tự chấp nhận vào cuộc tự nguyện.

- Nhóm đối tượng chấp nhận đồng thuận bằng sự giả vờ vì một mục tiêu cá nhân vụ lợi nào đó. Đối tượng này thực sự rất đáng phải quan tâm vì những nguy hiểm nhất sẽ xảy ra xoay quanh mối quan hệ phức tạp này.

Đồng tính có phải là bệnh?

Với nhóm đối tượng có biểu hiện bẩm sinh từ nhỏ, có thể phân biệt hai thời kỳ mắc bệnh là thể bào thai (tức là mắc bệnh khi còn ở trong tử cung) và thể mắc bệnh sau khi sinh. Thực tế lâm sàng thường gặp thể bào thai, ít gặp thể sau khi sinh.

Thể nam hóa ở các bé gái: Chiếm tỷ lệ 60% các ca bệnh. Trường hợp thứ nhất, bệnh gây tăng tiết androgen trước khi phát triển hoàn chỉnh cơ quan sinh dục nên dẫn đến phát triển cơ quan sinh dục kiểu giả ái nam ái nữ. Biểu hiện trên cơ thể: âm vật phì đại giống như dương vật, môi lớn, môi bé to, âm đạo, tử cung không phát triển.

Trường hợp thứ hai, tăng tiết androgen sau khi đã biệt hóa các cơ quan sinh dục và các ống sinh dục, ở bé gái bị bệnh lúc này chỉ thấy phì đại âm vật.

Trường hợp thứ ba, tăng tiết androgen sau khi sinh: ở bé gái sơ sinh, cơ quan sinh dục phát triển bình thường, nhưng về sau, cơ quan sinh dục bị biến đổi tùy thuộc vào tình trạng rối loạn chức năng vỏ thượng thận. Vì vậy trên lâm sàng có thể có các triệu chứng: trẻ mọc lông sớm theo kiểu đàn ông, âm vật phì đại, tử cung, tuyến vú không phát triển, rối loạn chu kỳ kinh nguyệt hoặc vô sinh.

Ở trẻ trai sau khi sinh, rối loạn phát triển sinh dục với các biểu hiện: phát triển sớm các triệu chứng sinh dục thứ phát, dương vật to, tuyến tiền liệt to, nhưng tinh hoàn không phát triển và không có hiện tượng tạo tinh trùng. Trẻ sớm có ham muốn sinh dục, cường dương, trường hợp bệnh xảy ra trong thời kỳ dậy thì, thường có tăng huyết áp.

Nhiều quốc gia trên thế giới đã chính thức loại bỏ đồng tính luyến ái ra khỏi danh sách bệnh tâm thần từ những năm đầu thập niên 80 thế kỷ 20. Theo đó, chỉ nên kết luận đây là một biểu hiện của xu hướng tình dục chứ không nên kết luận là sự biến thái hay suy đồi đạo đức.

Làm gì để xác định giới tính?

- Kiểm tra ngoại hình: Với kỹ thuật hình ảnh như siêu âm và hoạt động thăm khám trực tiếp, bác sĩ tìm hiểu đường sinh dục, tuyến sinh dục để xác định giới tính cho bệnh nhân.

- Tiến hành các xét nghiệm di truyền học: Nhiễm sắc thể đồ (khảo sát bộ nhiễm sắc thể của bệnh nhân với tiêu chuẩn 46XX với nữ, 46XY với nam).

- Xét nghiệm xác định nồng độ trong máu của một loạt các hormone nam và nữ như FSH, LH, oestradiol, progesteron, prolactin, testosteron.

- Khảo sát tâm lý về mặt tính cách, tâm lý xã hội, sở thích, thói quen bằng trò chuyện với bệnh nhân; đồng thời tìm hiểu mong ước của người thân về giới tính bệnh nhân.

Trường hợp nào cần phẫu thuật?

Phẫu thuật chỉ áp dụng với nhóm đối tượng có biểu hiện bẩm sinh từ nhỏ, nếu phát hiện sớm, điều trị đúng thì bệnh nhân vẫn phát triển sinh dục bình thường. Ngược lại, nếu phát hiện muộn thì tuy bệnh nhân có thể phát triển sinh dục bình thường nhưng sẽ bị lùn, rậm lông và có những biến chứng của tăng huyết áp.

Những trường hợp trẻ sinh ra có cơ quan sinh dục ngoài lớn hơn âm vật nhưng nhỏ hơn dương vật, có thể có dính một phần môi lớn/bìu; trẻ phát triển cơ quan sinh dục ngoài kiểu nữ, mặc dù vẫn có tinh hoàn trong ổ bụng; trẻ có tinh hoàn hoạt động nhưng dương vật bé giống như một âm vật và bìu giống như môi lớn… là những trường hợp bắt buộc phải phẫu thuật sớm để tránh xảy ra các biến chứng.

Với những người đồng tính không phải do bẩm sinh, nếu có nhu cầu phẫu thuật chuyển giới, nên thực hiện tại các cơ sở y tế chuyên khoa có uy tín.

Làm gì để những người đồng tính có thể hòa nhập với cuộc sống hiện tại?

Đồng tính luyến ái ở cả nam và nữ, về bản chất tâm lý, không có tội dù rằng chưa thể hoàn toàn bình thường nếu xét theo hệ quy chiếu chuẩn mực xã hội. Hiện vẫn chưa có một loại thuốc hay liệu pháp tâm lý đặc hiệu nào có thể giúp những con người như họ hòa nhập với cuộc sống.

Chính vì vậy, nhân viên y tế thôn bản hãy tích cực tuyên truyền để mọi người có thể thông cảm và chia sẻ với những người đồng tính. Họ rất cần sự cảm thông và trân trọng của xã hội.

BS. Nguyễn Như
Theo Sức khỏe & đời sống

Giới tính thứ ba hoặc giới tính thứ 3 là một khái niệm trong đó các cá nhân được phân loại, theo bản thân hoặc theo xã hội, không thuộc về nam giới hay nữ giới. Nó cũng là một phạm trù xã hội có mặt trong các xã hội công nhận ba hoặc nhiều giới tính. Thuật ngữ thứ ba thường được hiểu là "khác"; một số nhà nhân chủng học và xã hội học đã mô tả giới tính thứ tư,[1] thứ năm,[2] và "vài" giới tính[3].

Sinh học xác định xem nhiễm sắc thể và giải phẫu của con người quan hệ tình dục là nam, nữ, hoặc một trong những phổ biến biến thể về vấn đề dị hình lưỡng tính có thể tạo ra một mức độ mơ hồ giới tính gọi là liên giới tính.[4][5] Tuy nhiên, trạng thái xác định cá nhân là hoặc được xã hội xác định là đàn ông, phụ nữ hay người khác thường được xác định bởi bản dạng giới và vai trò giới trong văn hóa cụ thể mà họ sống. Không phải tất cả các nền văn hóa đã xác định nghiêm ngặt vai trò giới tính.[6][7][8]

Trong các nền văn hóa khác nhau, giới tính thứ ba hoặc thứ tư có thể đại diện hoặc tượng trưng cho những điều rất khác nhau. Đối với người Hawaii bản địa và người Tahiti, Māhū là một trạng thái trung gian giữa nam và nữ, hay "một người có giới tính không xác định".[9] Một số người Mỹ bản địa Diné truyền thống ở Tây Nam Hoa Kỳ thừa nhận một phổ gồm bốn giới tính: phụ nữ nữ tính, phụ nữ nam tính, đàn ông nữ tính và đàn ông nam tính.[10] Thuật ngữ "giới tính thứ ba" cũng đã được sử dụng để mô tả các hijras của Ấn Độ,[11] những người đã đạt được danh tính pháp lý, fa'afafine của Polynesia và các trinh nữ đã tuyên thệ ở Albania.[12]

Mặc dù được tìm thấy trong một số nền văn hóa ngoài phương Tây, các khái niệm về vai trò giới "thứ ba", "thứ tư" và "hơn nữa" vẫn còn hơi mới đối với văn hóa phương Tây và tư tưởng khái niệm.[13] Khái niệm này rất có thể được chấp nhận trong các tiểu văn hóa LGBT hoặc queer hiện đại. Trong khi các học giả phương Tây chính thống, đáng chú ý là các nhà nhân chủng học, những người đã cố gắng viết về các đạo tặc Nam Á hay "biến thể giới" của người Mỹ bản địa và những người có hai hồn phách, thì thường tìm cách hiểu thuật ngữ "giới tính thứ ba" chỉ bằng ngôn ngữ của LGBT hiện đại cộng đồng, các học giả khác, đặc biệt là các học giả bản địa, nhấn mạnh rằng sự thiếu hiểu biết về văn hóa và bối cảnh của các học giả chính thống đã dẫn đến sự xuyên tạc rộng rãi về những người thuộc giới tính thứ ba, cũng như sự xuyên tạc về các nền văn hóa trong câu hỏi, bao gồm việc có hay không khái niệm này có thực sự áp dụng cho những nền văn hóa trên.[14][15][16][17]

Ở Việt Nam, một số người và báo chí còn sử dụng khái niệm "giới tính thứ ba" để chỉ những người đồng tính hoặc chuyển giới, nhưng thực ra cách gọi này là đã sai về bản chất khoa học. Người đồng tính hoặc chuyển giới thực ra vẫn có đặc điểm cơ thể là "Nam giới" hoặc "Nữ giới" chứ không phải là 1 giới tính riêng (sự khác biệt của họ nằm ở tâm lý chứ không phải về cấu tạo cơ thể), do đó giấy tờ tùy thân của người đồng tính vẫn ghi họ là "Nam giới" hoặc "Nữ giới" như những người khác.

  1. ^ Trumbach, Randolph (1994). London’s Sapphists: From Three Sexes to Four Genders in the Making of Modern Culture. In Third Sex, Third Gender: Beyond Sexual Dimorphism in Culture and History, edited by Gilbert Herdt, 111-36. New York: Zone (MIT). ISBN 978-0-942299-82-3
  2. ^ Graham, Sharyn (2001), Sulawesi's fifth gender, Inside Indonesia, April–June 2001.
  3. ^ Martin, M. Kay; Voorhies, Barbara (1975). “4. Supernumerary Sexes”. Female of the Species. New York, N.Y.: Columbia University Press. ISBN 9780231038751. OCLC 1094960.
  4. ^ Money, John; Ehrhardt, Anke A. (1972). Man & Woman Boy & Girl. Differentiation and dimorphism of gender identity from conception to maturity. USA: The Johns Hopkins University Press. ISBN 978-0-8018-1405-1.
  5. ^ Domurat Dreger, Alice (2001). Hermaphrodites and the Medical Invention of Sex. USA: Harvard University Press. ISBN 978-0-674-00189-3.
  6. ^ LeBow, Diana, Rethinking Matriliny Among the Hopi, p.8.
  7. ^ Schlegel, Alice, Hopi Gender Ideology of Female Superiority, in Quarterly Journal of Ideology: "A Critique of the Conventional Wisdom", vol. VIII, no. 4, 1984, pp.44–52
  8. ^ 100 Native Americans Who Shaped American History, Juettner, 2007.
  9. ^ Llosa, Mario Vargas. “The men-women of the Pacific”. tate.org.uk. Tate Britain. Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 4 năm 2015.
  10. ^ Estrada, Gabriel S (2011). “Two Spirits, Nádleeh, and LGBTQ2 Navajo Gaze” (PDF). American Indian Culture and Research Journal. 35 (4): 167–190. doi:10.17953/aicr.35.4.x500172017344j30.[liên kết hỏng]
  11. ^ Agrawal, A. (1997). “Gendered Bodies: The Case of the 'Third Gender' in India”. Contributions to Indian Sociology. 31 (2): 273–297. doi:10.1177/006996697031002005.
  12. ^ Young, Antonia (2000). Women Who Become Men: Albanian Sworn Virgins. ISBN 1-85973-335-2
  13. ^ McGee, R. Jon and Richard L. Warms 2011 Anthropological Theory: An Introductory History. New York, McGraw Hill.
  14. ^ “Asia and the Pacific – ANU”. Truy cập ngày 27 tháng 12 năm 2014.
  15. ^ Pember, Mary Annette (13 tháng 10 năm 2016). “'Two Spirit' Tradition Far From Ubiquitous Among Tribes”. Rewire. Truy cập ngày 17 tháng 10 năm 2016. Unfortunately, depending on an oral tradition to impart our ways to future generations opened the floodgates for early non-Native explorers, missionaries, and anthropologists to write books describing Native peoples and therefore bolstering their own role as experts. These writings were and still are entrenched in the perspective of the authors who were and are mostly white men.
  16. ^ de Vries, Kylan Mattias (2009). “Berdache (Two-Spirit)”. Trong O'Brien, Jodi (biên tập). Encyclopedia of gender and society. Los Angeles: SAGE. tr. 64. ISBN 9781412909167. Truy cập ngày 6 tháng 3 năm 2015. [Two-Spirit] implies that the individual is both male and female and that these aspects are intertwined within them. The term moves away from traditional Native American/First Nations cultural identities and meanings of sexuality and gender variance. It does not take into account the terms and meanings from individual nations and tribes.... Although two-spirit implies to some a spiritual nature, that one holds the spirit of two, both male and female, traditional Native Americans/First Nations peoples view this as a Western concept.
  17. ^ Kehoe, Alice B. (2002). “Appropriate Terms”. SAA Bulletin. Society for American Archaeology 16(2), UC-Santa Barbara. ISSN 0741-5672. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 11 năm 2004. Truy cập ngày 1 tháng 5 năm 2019. At the conferences that produced the book, Two-Spirited People, I heard several First Nations people describe themselves as very much unitary, neither "male" nor "female," much less a pair in one body. Nor did they report an assumption of duality within one body as a common concept within reservation communities; rather, people confided dismay at the Western proclivity for dichotomies. Outside Indo-European-speaking societies, "gender" would not be relevant to the social personae glosses "men" and "women," and "third gender" likely would be meaningless. The unsavory word "berdache" certainly ought to be ditched (Jacobs et al. 1997:3-5), but the urban American neologism "two-spirit" can be misleading.

Lấy từ “https://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Giới_tính_thứ_ba&oldid=68486170”