Nhờ vào công nghệ 4.0, sinh viên từ tất cả mọi nơi trên thế giới có thể tiếp cận nền giáo dục của các nước tiên tiến hơn. Nhiều trường đại học và cao đẳng đã triển khai các chương trình giáo dục trực tuyến từ xa. Show Phương pháp giáo dục này vô cùng linh hoạt. Với chi phí hợp lí, sinh viên, học sinh có thể tham gia các lớp học trực tuyến từ các trường Đại Học hàng đầu. Việc ứng dụng công nghệ 4.0 trong giáo dục đang là một làn sóng mới. Đây là một cơ hội mới giúp cho học sinh có cơ hội học hỏi từ và tiếp cận nhiều nguồn tri thức chất lượng hơn. Công nghệ 4.0 đơn giản hóa các nguồn tài liệu giáo dụcCông nghệ tạo điều kiện cho học sinh tiếp cận với các nguồn tài liệu mở. Từ đó, các em có tư duy chọn lọc các nguồn thông tin và tự tìm tòi kiến thức thông qua sách điện tử, thư viện online, từ điển trực tuyến, trò chơi kỹ thuật số về lĩnh vực giáo dục…. Ngày nay, giáo viên đã tìm hiểu và ứng dụng giáo dục từ rất sớm thông qua việc cập nhật các bài giảng trên nền tảng lưu trữ video như Youtube. Bên cạnh đó, giáo viên có thể tạo blog cá nhân hỗ trợ việc giảng dạy. Chính nhờ thế, học sinh sẽ không bỏ lỡ bất kì bài học nào khi vắng lớp. Giáo dục công nghệ 4.0 hình thành tính trách nhiệmViệc học tập thông qua máy tính, laptop giúp học sinh kiểm soát được quá trình học tập của mình. Các bạn có thể ghi chép ngay trên các thiết bị công nghệ 4.0 và dễ dàng ôn tập khi kì thi đến. Google là một ứng dụng hiện đại và bắt kịp xu hướng khi đã đưa ra phần mềm Google Classroom, giúp giáo viên và học sinh có thể cập nhật và theo dõi bài tập về nhà, và nộp các bài luận nhanh chóng qua email. Chính những ứng dụng này đã giúp các bạn hình thành tính trách nhiệm với quá trình học tập. Đồng thời, hiện nay có rất nhiều website giúp quá trình học tập trở nên dễ dàng hơn như website sửa lỗi chính tả, kiểm tra ngữ pháp hay giúp đỡ các bạn trong việc giải các bài toán khó…. Giáo dục công nghệ 4.0 không những giúp học sinh có trách nhiệm với bản thân mà còn hình thành sự hứng thú trong học tập. Giáo dục công nghệ 4.0 tạo sự kết nối giữa giáo viên và phụ huynhĐối với nền giáo dục truyền thống, phụ huynh chỉ biết được quá trình học tập của con mình thông qua sổ liên lạc hoặc các cuộc họp phụ huynh sau cuối học kỳ. Bởi vì sự thiếu tương tác này nên phụ huynh rất dễ lơ là trong việc kiểm soát tình hình học tập của con cái. Nhưng với công nghệ 4.0, tất cả điểm số sẽ được báo cáo về điện thoại của bố mẹ. Qua đó, phụ huynh có thể theo sát được quá trình học tập của con. Từ đó, phối hợp với giáo viên để tìm ra phương pháp giảng dạy hiệu quả. Giáo dục công nghệ 4.0 có thể xem là sự phát triển tất yếu của thời đại mới. Việc sử dụng hiệu quả công nghệ trong giáo dục đã thay đổi xu hướng giảng dạy. Hiểu được điều đó, phần mềm tương tác trao đổi phụ huynh School Cento ra đời. Phần mềm này là công cụ hữu hiệu để kết nối phụ huynh và nhà trường. Ứng dụng công nghệ vào việc kiểm soát và nâng cao trao đổi trong giáo dục giúp nâng cao sự tin tưởng của phụ huynh. Nhân chuyện cả xã hội bàn về Công nghệ Giáo dục của thầy Hồ Ngọc Đại, tôi repost lên Spiderum một bài viết khá dài về phương pháp này để tất cả mọi người cùng đọc và tham khảo. Bài viết này thực chất là bài giới thiệu của ông Vũ Quang Việt về cuốn sách “Hợp lưu các dòng tâm lý giáo dục” của tác giả Phạm Toàn do nhà xuất bản Tri Thức phát hành năm 2008. Bài đã đăng trên tạp chí Thời Đại Mới, Số 15, 03/2009, link gốc tôi lấy ở đây: https://bit.ly/2MOu1nU Công nghệ giáo dục, một từ nghe lạ, có vẻ nghịch nhĩ, bởi vì chúng ta vẫn thường cho rằng giáo dục mang dấu ấn dường như là tâm linh truyền từ người thày đến học trò. Công nghệ như công nghệ đúc thép, làm xe hơi mang tính kỹ thuật, khách quan, biến việc sản xuất một sản phẩm nhất định thành một qui trình, chia ra từng giai đoạn, với công cụ và các động tác cụ thể, chuẩn xác, để rồi tạo ra các thành phẩm đồng đều về hình dáng, tính khả dụng và phẩm chất. Công nghệ phi tình cảm. Đấy là nói về quá trình, công cụ, động tác thực hiện và kết qủa. Nhưng nói về tình cảm giữa người thiết kế và người thực hiện chúng đối với kết quả được tạo ra thì cái phần gọi là tình cảm đó không thể cắt bỏ. Nó đúng với giáo dục và cũng đúng với công nghệ làm thép, làm xe hơi. Chữ công nghệ giáo dục nhằm diễn tả việc thiết kế giáo dục trẻ em như một khoa học và thực hiện chúng như một công nghệ. Còn cái tình cảm đối với trẻ em và giáo dục của người cha đẻ công nghệ giáo dục này ở Việt Nam là Hồ Ngọc Đại và người cộng sự đắc lực là Phạm Toàn thì khỏi phải bàn. Nhưng quan trọng hơn cả là cái triết lý nền tảng của công nghệ giáo dục, đó là phải làm sao cái công nghệ ấy bảo đảm được rằng khi đi học, trẻ em vừa chiếm lĩnh được tri thức, tức là học được, vừa nhận thấy, một cách hồn nhiên, rằng đi học là hạnh phúc, chiếm lĩnh tri thức là hạnh phúc. (Coi hộp 1).
Quyến sách Hợp Lưu Các Dòng Tâm Lý Học Giáo Dục cho ta thấy cơ sở của Công nghệ Giáo dục của Hồ Ngọc Đại. Quyển sách có thể nói là chia ra hai phần chính: phần đầu gồm khoảng 300 trang trình bày một cách tuần tự quá trình phát triển tư duy và công nghệ của thế kỷ 20, với các đóng góp của triết học về khai sáng, tự do tư duy, sáng kiến, phát minh, qua đó phát triển khoa học, công nghiệp hóa sản xuất, và đưa đến những tiến bộ về kinh tế, và từ cơ sở đó, quyển sách trình bày quá trình phát triển khoa học nghiên cứu về tâm lý trẻ em, và trên cơ sở này khoa học tâm lý trẻ em, phương pháp hiện đại về giáo dục trẻ em ra đời. Phần hai của quyển sách cũng khoảng 300 trang chủ yếu trình bày Công nghệ Giáo dục ở Việt Nam, do ông Hồ Ngọc Đại qua tiếp cận với ngành tâm lý học trẻ em ở Liên Xô, khi trở về nước, cùng với sự cộng tác của ông Phạm Toàn và một số người khác đã bỏ cả đời xây dựng công nghệ giáo dục cho cấp tiểu học. Ông Hồ Ngọc Đại sinh năm 1936 ở Quảng Trị, thuở nhỏ học ở đó, rồi Nghệ An. Năm 1951, ông đi bộ lên Việt Bắc để sang Trung Quốc học ở Khu Học xá Trung ương. Tốt nghiệp Cao đẳng sư phạm năm 1954 (hồi đó gọi là Trường Sư phạm Trung cấp Trung ương), ông về dạy học ở Sơn La và biên soạn sách cho học sinh dân tộc Sơn La. Rồi theo học hàm thụ Toán Đại học tổng hợp, tốt nghiệp, 1960, về dạy Toán trường Trung học Ngô Quyền, Hải Phòng. Năm 1970, ông qua Liên Xô học Tâm lý học. Bảo vệ Phó tiến sĩ rồi tiến sĩ năm 1977. Khi về nước năm 1978, ông mở trường thực nghiệm tại Giảng Võ, Hà Nội. Đến năm 1985, trường thực nghiệm được phép mở ra các tỉnh “có yêu cầu”. Năm 1990, đề tài quốc gia Công nghệ Giáo dục được nghiệm thu, thành lập Trung tâm Công nghệ GD, Hồ Ngọc Đại trở thành giám đốc trung tâm này. Đến năm 2001, Công nghệ Giáo dục đã mở ra 43 tỉnh và thành phố. Nhưng sau đó, tiếc thay, toàn bộ các lớp dạy theo công nghệ giáo dục bị dẹp bỏ vì Quốc hội Việt Nam, bởi những cuộc vận động chưa thật minh bạch từ những người lãnh đạo giáo dục lúc đó, đã ra nghị quyết “một chương trình, một bộ sách giáo khoa”, dễ dàng đưa tới tình trạng độc quyền của một cách dạy học (thày giảng trò chép). Nghị quyết này được dễ dàng chấp nhận cũng vì nó rất phù hợp với ý tưởng bảo đảm là nền giáo dục phải từ trên quyết xuống, và phải tạo ra một khuôn mẫu người duy nhất nhằm phục vụ những gì mà hệ thống quản lý xã hội muốn. Tất cả những kết quả của công trình thực nghiệm của Hồ Ngọc Đại gần như bị xóa bỏ vì chủ trương giáo dục độc đoán một kiểu, áp dụng cho đến nay ở các trường thuộc quyền chi phối của Bộ Giáo dục và Đào tạo ở Việt Nam, trừ những trường do người nước ngoài mới được phép mở những năm gần đây, dạy theo chương trình nước ngoài. (Nhưng thật kỳ lạ, Bộ Giáo dục và các địa phương, ngược với Nghị quyết Quốc hội, lại rất cởi mở với chương trình ở trường có yếu tố nước ngoài mở cho con em người lắm tiền nhiều của, và thắt chặt với nền giáo dục đại chúng!) Tất nhiên, lâu lâu cũng có báo chí nhắc đến Công nghệ Giáo dục hoặc phỏng vấn GS Hồ Ngọc Đại như mới đây ở Tuần Việt Nam.[1] Nhưng đối với rất nhiều người, dù có đọc qua nhiều bài phỏng vấn này và nhiều bài phỏng vấn khác, Công nghệ Giáo dục là cái gì đó vừa bí hiểm vừa khó tin, lại còn bị đồn thổi bởi những người muốn dẹp nó là nó hoạt động của những nhân vật “hâm hâm”. Tuy vậy, nó trở nên hấp dẫn cần tìm hiểu, vì cái triết lý xem ra rất ấn tượng, là với công nghệ giáo dục, trẻ em thấy việc đến trường là niềm hạnh phúc. Quyển sách của Phạm Toàn lấp một phần vào cái chỗ trống đó. Người đọc nó có thể vẫn chưa hiểu nó là gì, nhưng ít nhất hiểu rằng nó được xây dựng một cách khoa học. Để viết bài đọc sách này, người đọc này không những phải đọc kỹ quyến sách của Phạm Toàn, lại phải tìm hiểu thêm về triết lý giáo dục và việc học của trẻ em ở nước ngoài để có cái nhìn so sánh, đồng thời phỏng vấn riêng Phạm Toàn về những điểm rất cụ thể, và phỏng vấn các học sinh đã từng học ở đó để hiểu thêm về cảm nhận của họ. Có thể kết luận đây là một phương pháp giáo dục có cơ sở khoa học, dựa vào sự nghiên cứu và hiểu biết về tâm lý trẻ em, và cũng rất gần với những trường phái giáo dục cấp tiến ở nhiều nước tư bản phát triển, dù người điểm sách này không có thông tin về hiệu quả so sánh của nó. Quyển sách của Phạm Toàn không dễ đọc và nó cũng là nguyên nhân cho bài đọc sách này. Bởi vì người đọc này muốn giới thiệu một công trình khoa học đã bị lãng quên, lại chưa được nghiên cứu đánh giá bằng các phương pháp khoa học hiện đại, dù nó được thực hiện khoảng hai chục năm ở Việt Nam với Trường Thực Nghiệm Giảng Võ và với các lớp thực nghiệm có lúc mở ra trên 43 tỉnh ở Việt Nam. Nghe nói với tình cảnh giáo dục bi đát như hiện nay, nhiều tỉnh trở lại tiếp xúc với Hồ Ngọc Đại để xây dựng lại các trường hoặc lớp áp dụng Công nghệ Giáo dục. Như vậy, các nhà nghiên cứu sẽ có cơ hội thực hiện viết luận án nhằm đánh giá công nghệ này, những điều mà đáng lẽ ra họ đã phải làm trước đây. Việc đánh giá hiệu quả của Công nghệ Giáo dục và so sánh nó với phương pháp giáo dục chính thống vừa giúp xem xét khách quan một công trình khoa học với thiện ý chuyển hướng cách dạy học, vừa giúp nâng tầm sử dụng các phương pháp hiện đại trong nghiên cứu các vấn đề xã hội chưa từng được áp dụng ở Việt Nam. Hy vọng có bạn trẻ thấy được sự cần thiết của việc làm này. Quá trình phát triển của khoa học tâm lý được trình bày qua quyển sách chia sẻ quá trình chung của khoa học là cố gắng của con người biết tư duy, khi không còn bị kiềm chế bởi các chế độ thần quyền ở châu Âu, cố gắng thoát khỏi nền triết học mang tính siêu hình hoặc tư biện. Lúc đầu, dù mang tính thực nghiệm, thực chứng với phòng thí nghiệm, chúng vẫn được thực hiện dựa trên quan sát phát triển của tự nhiên như sinh lý con người, hay qua thí nghiệm thực chúng về chúng như đo cảm giác, đo và quan sát phản ứng trước sự kiện khách quan. Tâm lý học như một khoa học được trình bày trong quyển sách là bắt đầu từ Wilhelm Maximilian Wundt (August 16, 1832 – August 31, 1920) ở Đức, rồi tới E. L. Thorndike ở Mỹ. Wundt thì tiến hành thực nghiệm trên con người, nhưng Thorndike đã tiến hành thực nghiệm cả với các con vật, thí dụ như xem xét xem con vật vận động trong điều kiện đã xếp đặt sẵn, khả năng lập lại trong điều kiện tương tự và rồi xem chúng có thể dùng ký ức, trí nhớ để đi tới khái niệm không. Và việc đo lường quan sát được thực hiện bằng thống kê học. Cũng do đó việc đo lường dựa vào thống kê có những phát triển quan trọng, để từ đó phát sinh các phương pháp làm test đo lường trí khôn như của Binet sau này ở Pháp và nở rộ ở Mỹ. Thorndike (1874 – 1949) cũng là người viết bài “Đóng góp của Tâm lý học cho giáo dục” nói về đo lường xác xuất đạt tới mục tiêu giáo dục mà Phạm Toàn dịch đưa vào quyển sách, cho rằng “[do] chỗ tâm lý học có phương pháp đo lường trí thức và kỹ năng nên nó có thể gợi ra những phương pháp đo nghiệm và xác minh hoặc trau chuốt các phương pháp dạy học”. Phạm Toàn giới thiệu thêm những phát triển sau đó về nghiên cứu tâm lý học trẻ em nhằm phục vụ giáo dục của Jean Piaget (9 August 1896 – 16 September 1980) ở Thụy Sĩ, người đưa ra lý thuyết về phát triển nhận thức của trẻ em qua từng độ tuổi, dựa vào quan sát và ghi chú, được gọi bằng từ chuyên môn là tri thức luận biến sinh (Phạm Toàn dịch từ genetic epistemology). Jean Piaget cho rằng trẻ em phát triển tốt hơn khi có giao thoa với trẻ em khác (chứ không phải ngồi lì một chỗ nghe dạy). Còn về quan niệm đạo đức, trẻ em phát triển theo giai đoạn. Trẻ em tự tạo ra các quan niệm về đúng sai, về công bằng. Những quan điểm này phát triển và tiến hóa theo độ tuổi, không thể ép buộc theo khuôn quan điểm đạo đức của người lớn. Chúng phát triển, bất chấp sự dạy bảo của người lớn, qua quan sát và cọ xát với thế giới chung quanh đặc biệt qua môi trường giao thoa với trẻ em khác và người lớn. Vấn đề là hiểu tâm lý trẻ em, không áp đặt, thiết kế việc giáo dục để chúng tự làm chủ tri thức, tự tin, thay đổi tự nhiên theo độ tuổi, và thấy hạnh phúc. Tư tưởng của Piaget có ảnh hưởng lớn đến giáo dục ở châu Âu và Mỹ từ những năm 60 và 70. Từ những nhà tâm lý học trên, Phạm Toàn giới thiệu công trình của nhà tâm lý học Nga Lev Semenovich Vygotsky (November 5, 1896 – June 11, 1934), người đã nhấn mạnh đến vai trò “bối cảnh văn hóa” trong việc hình thành tâm lý trẻ em, tức là bước thêm một bước xa hơn Piaget. Trên cơ sở hiểu biết sự đa dạng của các công cụ và các kỹ thuật văn hóa mà con người đã chiếm lĩnh hoặc hoặc không có khả năng chiếm lĩnh trong các nền văn hóa khác nhau hoặc trong các giai đoạn lịch sử khác nhau,…”, giáo dục bây giờ là “nguồn tương đối độc lập của phát triển” thay cho việc trước đây coi nó là phương tiện củng cố tiến trình phát triển tự nhiên. Từ đây các nhà tâm lý học đưa đến mô thức “phát triển nhân tạo”, nghiên cứu các thao tác nhằm giúp người học có ý thức chiếm lĩnh các hệ thống khái niệm trong tiến trình học. Nói theo ngôn ngữ khoa học hơn là nghiên cứu “đi sâu vào việc chiếm lĩnh các khái niệm khoa học của con người – đó là chiếm lĩnh quan trọng nhất trong tiến trình đi học ở nhà trường.” Từ Semenovich Vygotsky, hai nhà tâm lý học Nga khác đã có các công trình nổi trội về tâm lý học, đó là Alexander R. Luria và Vasili Davydov mà Hồ Ngọc Đại mặc dù nghiên cứu dưới sự hướng dẫn trực tiếp của Elkonin và Davydov, song vẫn coi mình như học trò của cả một trường phái Tâm lý học mới trên đất nước này. Hồ Ngọc Đại, lấy học vị tiến sĩ tâm lý học ở Nga, cùng với Phạm Minh Hạc làm thành hai tiến sĩ tâm lý học đầu tiên, đáng lẽ khi về nước đã có thể có chức vụ quan trọng, nhưng ông chọn dạy tiểu học và từ lớp một, để từ đó xây dựng lý thuyết và thực nghiệm Công nghệ Giáo dục về dạy trẻ em ở Việt Nam, lúc đầu tại trường thực nghiệm Giảng Võ, nhưng sau đó phát triển ra 43 tỉnh và thành phố, cho đến lúc bị giải tán. (Lý do tại sao đã được giải thích trong phần giới thiệu của bài điểm sách này, nhưng người đọc không thể tìm được câu trả lời sau khi đọc hết quyển sách, có lẽ chỉ vì Phạm Toàn không thể đưa những tình tiết “thời cuộc” vào một cuốn sách có ý định mang tính kinh điển.) Phạm Toàn, tác giả quyển sách, là người tham gia cùng với Hồ Ngọc Đại phát triển công nghệ giáo dục dạy ngôn ngữ và dạy văn ở bậc tiểu học. Vậy nói một cách đơn giản (dù vấn đề không đơn giản chút nào), công nghệ giáo dục là gì? Đó là tổ chức công cuộc giáo dục lấy trẻ em làm trung tâm, ở đó: 1. Giáo viên thiết kế, học sinh thi công, thày tổ chức trò hoạt động thay cho giáo viên giảng giải học sinh nhắc lại. Nguyên lý vận hành được tóm gọn trong công thức A → a. Thành phần A gồm ba dạng: khoa học, nghệ thuật và niềm tin. Mũi tên là quy trình tổ chức để học sinh có thể tự chiếm lĩnh A và có được cái a riêng trong tinh thần của từng em. 2. Phương pháp giáo dục không phải là cách giảng dạy mà là phương pháp để trẻ em chiếm lĩnh thực tại, chiếm lĩnh đối tượng khoa học, đi lại con đường nhà bác học đã đi, đi lại con đường người nghệ sĩ đã đi, không buộc trẻ tiếp nhận chân lý có sẵn. Theo người đọc sách này, đây là một cách nói “ấn tượng” nhằm diễn đạt điểm cốt yếu của phương pháp tiếp cận vấn đề, là tìm ra nguyên lý, chứ không nên hiểu theo nghĩa đen là tìm về cách mà các nhà khoa học ngày xưa đã thật sự đi qua để khám phá ra lời giải. 3. Nguyên lý của phát triển bài học là đi từ trừu tượng đến cụ thể, nâng nấc thang trừu tượng kế tiếp nhau để đi đến trình độ cụ thể ngày càng cao hơn. Từ phát triển hiện thực vật chất đến phát triển tư duy trong tâm lý và khái niệm. Rồi từ phát triển trong hợp tác với thày giáo đến phát triển độc lập, từ trong giáo dục nhà trường đến ngoài khuôn khổ nhà trường. (Coi hộp 2 để biết là một thí dụ cụ thể trong việc dạy toán từ từ trừu tượng đến cụ thể như thế nào).
4. Quá trình hình thành bài học là: hành động phân tích tìm ra logic của khái niệm, hành động diễn đạt logic và phát hiện dưới các mô hình khác nhau và cuối cùng là hành động “chuyển vào trong”, tức là hiểu và có thể hành động. 5. Thiết kế là xác định mục đích (thí dụ đọc được chữ, làm được toán cộng với con số từ 1 tới 10), thao tác cần làm và phương tiện cần thiết, để học sinh tự hành động chiếm lĩnh tri thức, và đánh giá kết quả học tập. 6. Giáo án là kế hoạch tổ chức cho học sinh làm, là bản thiết kế làm việc,rành rọt cái gì làm trước cái gì làm sau, thày làm gì, trò làm gì, tức là phù hợp với từng học sinh. Giáo án không phải là cái thày đọc cho học sinh chép. Sách giáo khoa chỉ là biên bản quá trình làm và kết quả làm việc giữa thày và trò.
Triết lý Công nghệ Giáo dục nếu hiểu một cách đại thể, dựa vào chính kinh nghiệm của người đọc này, là một triết lý giáo dục dựa vào các kết quả của nghiên cứu tâm lý giáo dục trên thế giới, đặc biệt là Piaget và sự vận dụng ở Nga vào thực tiễn theo từng giai đoạn phát triển của trẻ em trên trục định hướng không khác mấy với Piaget, và nhất là vào kết quả thực chứng từ công việc các tác giả này thực hiện ở Việt Nam: Công nghệ Giáo dục Việt Nam đã mở rộng và thoát ra khỏi hoàn cảnh chỉ có một trường thực nghiệm như trường Jean-Jacques Rousseau của Piaget và trường số 91 của Viện Tâm lý học ở Moskva. Nó muốn thay thế nền giáo dục nhồi nhét, thày đọc trò chép, về nhà thì học thêm và gò lưng luyện giải bài mẫu. Dựa vào kinh nghiệm ở Mỹ, theo người đọc sách này hình dung, Công nghệ Giáo dục của Hồ Ngọc Đại có thể cũng khá sát phương pháp giáo dục thực hiện ở các trường theo phương pháp Montessori, bắt nguồn ở Geneva, quê hương của Piaget, hay phương pháp mà các trường tiểu học và trung học do Tổ chức Liên Hợp Quốc hiện đang quản lý gián tiếp (tiếp nhận ảnh hưởng của Piaget). Đơn giản là các trường loại này phát triển các hoạt động dựa vào hợp tác nhóm, nhưng theo dõi, dạy và để học sinh phát triển theo nhịp điệu của từng em, không tạo cạnh tranh làm trẻ em mất tự tin, do đó trong giai đoạn tiểu học, các trường này không cho điểm, không xếp hạng học sinh, nhưng theo dõi kỹ, đánh giá mặt yếu, mặt mạnh và làm việc thường xuyên với phụ huynh để hướng dẫn học sinh tiến bộ thêm. Không phải hầu hết các trường Mỹ theo phương pháp này, nhưng phải nói là các trường và cha mẹ muốn phát triển trẻ em hài hòa tự tin thì thường đi học các trường này. Các trường áp dụng phương phát này chỉ dễ thực hiện với lớp ít học sinh. Ở lớp theo phương pháp Montessori ở Mỹ, và ở cả trường Liên Hợp Quốc, một lớp học thường không quá 25 em, với một giáo viên chính và một trợ lý giáo viên (đó là chưa kể các giáo viên dạy nhạc, vẽ, thể dục). Tôi có hỏi tác giả Phạm Toàn là việc ứng dụng ở Việt Nam như vậy có phải chỉ ở cấp tiểu học hay đã phát triển ra toàn các cấp học phổ thông. Ông Phạm Toàn trả lời: Mặc dù đã mở từ lớp 1 cho tới lớp 12, song Công nghệ Giáo dục (CGD) chỉ có thể nói chắc là nó đã làm chủ được bậc tiểu học. Nói thật chắc nữa, thì nó làm chủ được môn Tiếng Việt, môn Toán và môn Văn tiểu học. Nhưng học xong tiểu học CGD, lên cấp trên, ít nhất nó cũng ngang trình độ chung, có rớt thấp đến đâu thì cũng đến cái đáy ấy thôi! Điều quan trọng là học hết lớp 5 CGD, trẻ em thích học, và trình độ thì khác hẳn! Hết lớp 1 các em đã đọc nhanh và viết không sai chính tả, hết lớp 3 không nói và viết sai câu, hết lớp 5 thì viết được một văn bản tử tế. Về văn, các em có cảm thụ văn mà học sinh các lớp đại trà không so sánh được. Về Toán cũng thế, hết lớp 1, các em tự làm lấy bảng cộng; chỉ sau 7 tuần đầu lớp 2, các em đã thành thạo các hệ đếm, và có thể cộng trừ tới hàng tỷ. Giáo viên dạy tiểu học tỉnh Lao Cai đi thi giáo viên giỏi bao giờ cũng đoạt giải, vì biết cách vận dụng cách dạy đã học được vào “phong trào chung”. Ôi, nếu CGD được mở đàng hoàng, lại được thỏa sức nghiên cứu, thì có khi nó sẽ trình ra cho xã hội một bậc học phổ thông không cần đến 12 năm, tiết kiệm hai năm mà chất lượng lại cao hơn. Thật đấy! Chỉ vì nó biết cách rút ngắn được việc học môn tiếng Việt. Nhưng số phận dân tộc này còn cần được thử thách… Về câu hỏi là: Có phải trường giáo dục theo Công nghệ chỉ có thể áp dụng cho những lớp ít học sinh, và học cả hai buổi để thày có thể làm việc với từng học trò? Phải chăng như vậy là không thể áp dụng đại trà ở Việt Nam vì các lớp hiện nay có quá nhiều học sinh và lại học có 1 buổi? Ông Phạm Toàn trả lời: Những điều tôi vừa trả lời hàm nghĩa rằng CGD đi thẳng vào “hiện đại hóa”, nhưng cái hiện đại hóa ấy không có nghĩa là chạy đua theo “kỹ thuật mới”, không có nghĩa là chạy đua theo những công cụ dạy học mới (như các trường tư thục hiện thời đang khoe để chiêu sinh con nhà giàu nhưng chưa giàu tới mức đủ sức cho con đi “du học” ngay từ bậc tiểu học). Không có một tư tưởng mới, thì nhập nhiều máy tính cũng chỉ thêm được các cửa hàng chơi ghêm và chít chát thôi, chứ làm gì có công nghệ thông tin! Cá nhân tôi đã đi huấn luyện giáo viên, nhiều cô giáo trình độ lớp 7 cộng thêm một thời gian ngắn học sư phạm. Do không huấn luyện bằng những bài giảng lý thuyết, mà chỉ là hướng dẫn dùng thiết kế, nội dung như sau thôi, nên giáo viên rất dễ thực hiện: - Giao việc cho học sinh như thế nào? Làm cách gì để học sinh hiểu rõ đã được giao việc? - Giao việc rồi thì làm mẫu cho học sinh làm theo. Thí dụ: làm mẫu phát âm, để học sinh phát âm theo (chứ không giảng giải về vẻ đẹp của tiếng Việt chẳng hạn!). - Làm mẫu xong thì phải cho học sinh làm lại. Làm cách gì để chữa cho những em làm chưa đúng? - Khi học sinh làm xong việc thì cư xử như thế nào (thay vì cho điểm và “dứ” trẻ em bằng điểm số)? - Gặp học sinh chậm thì cư xử thế nào (thay vì dọa nạt và hạ điểm – và những năm sau này có tiền rủng rỉnh thì gạ gẫm dạy thêm và học thêm)? Cứ thế, nước lên thì thuyền lên, khi còn nghèo, lớp học đông tới 40 em thì ta chấp nhận dạy 40 em, khi cuộc sống cho phép một lớp ít học trò, thì ta “xài sang”, lo gì. Nhưng yếu tố thành công của một lớp học đâu có nhờ vào ít hay nhiều học sinh? Ngành giáo dục từng dạy ở miền núi mỗi lớp dưới mười học trò mà đánh vật mãi có xong đâu? CGD bắt tay vào, lớp đông hơn, mà chất lượng vẫn cao, xin lên Lao Cai, đến những lớp cho học sinh dân tộc thiểu số, và ta sẽ có một cách nhìn khác đối với vấn đề kỹ thuật. Một câu hỏi nữa tôi gửi tác giả Phạm Toàn là: Khi ông Hồ Ngọc Đại phát biểu là hệ thống giáo dục ở Việt Nam phải xóa đi làm lại, người nghe hiểu ngầm rằng ông ấy đã có phương pháp học, hướng dẫn học cho mọi cấp học từ tiểu đến đại học. Vậy có phải ông ấy chỉ nói về cấp tiểu học, hay một vài lớp trong cấp tiểu học?” Tác giả Phạm Toàn trả lời: Câu này lẽ ra nên hỏi thẳng Hồ Ngọc Đại! Tôi xin trả lời theo cách hiểu của tôi như sau. Hồ Ngọc Đại nói “giỡ ra làm lại từ đầu”, có thể hiểu theo mấy nội dung sau: - Muốn cải cách nền Giáo dục Việt Nam đến nơi đến chốn, thì trước hết phải “giỡ” cái nguyên lý vận hành đã có – bây giờ ta thích gọi bằng cái “triết lý” – để thay bằng cái mới hoàn toàn. Nguyên lý cũ là “Thầy giảng giải–Trò ghi nhớ” cần được “giỡ đi” và thay bằng “Thầy tổ chức–Trò thi công”. - Một ông thánh sống cũng không làm lại được nền giáo dục mới trong một vài năm; điều hoang tưởng chỉ có thể do ông Chử Đồng Tử làm được trên bờ sông với bà Tiên Dong thôi. Ông Hồ Ngọc Đại khiêm tốn đề nghị “thực nghiệm” đi trước một bước và cứ đưa dần vào đời sống, bắt đầu bằng thực nghiệm tiếp ở địa phương rồi đưa dần vào đại trà. - "Giỡ ra làm lại từ đầu” còn có ý nghĩa ở tư tưởng triệt để trong mọi việc, không làm ăn theo lối nửa dân chủ nửa phong kiến, hiện đại hóa “kết hợp với” bản sắc dân tộc mà chẳng ai hiểu “bản sắc” đó là quỷ quái gì ngoài chuyện hương hoa cờ đèn kèn trống mũ mãng áo khăn xúng xính… cứ hệt như thời xửa thời xưa khi dân tộc ta chưa có hàng triệu người hy sinh xương máu để có Tự Do và Dân Chủ hôm nay. Độc giả có thể đọc thêm Hộp 4 ở dưới, phần phỏng vấn các học sinh đã từng học ở trường Thực nghiệm CNGD Giảng Võ ở Hà Nội để thấy được một phần cách dạy ở đây. Quyển sách của Phạm Toàn dày dặn, được nhà Xuất Bản Trí thức chịu in trong một xã hội mà người có tiền thường ít bỏ tiền ra mua sách đọc là một hành động khá dũng cảm, vì việc xuất bản có thể nói khó lòng thu lại được vốn, nói chi lợi nhuận. Nhưng trong quyển sách này, tác giả Phạm Toàn đã gói ghém nhiều bức xúc và do đó đưa các tư tưởng cần phổ biến vào nhiều phụ lục. Những phụ lục này khi đứng riêng và được đọc kỹ sẽ đưa đến độc giả các giá trị về tư tưởng và thông tin quan trọng. Tác giả muốn đưa ra những thông tin như là những gợi ý cho bạn đọc tiếp tục mầy mò thêm. Vì thế có thể thấy trong sách rất nhiều thông tin có khi tưởng như không liên quan lắm đến nội dung tâm lý học giáo dục (thí dụ như có hẳn một phụ lục dài, khá đầy đủ về nền dân trị Mỹ qua tóm tắt tác phẩm của Alexis de Tocqueville, phụ lục liên quan đến ảnh hưởng của tư tưởng dân chủ thời kỳ khai sáng ở châu Âu trên nước Mỹ, thông tin về chân tướng Ngân hàng Thế giới, hay những phân tích và luận điểm về đối tượng nghệ thuật). Không phải những thông tin này không liên quan đến chủ đề của quyển sách, nhưng chúng đã làm cho quyển sách trở nên phức tạp hơn, khó đọc hơn. Tác giả viết khoảng gần 300 trang về công nghệ giáo dục, nhưng thú thật một người không ở trong nghề giáo dục như tôi có cố gắng cũng chỉ lĩnh hội được một phần công việc thày thiết kế trò thi công của Công nghệ giáo dục, mặc dù tôi biết đây là công trình tâm huyết cả đời của ông Hồ Ngọc Đại và tác giả Phạm Toàn. Nếu quyển sách có một vài thí dụ cụ thể, trình bày chi tiết quá trình thày thiết kế và trò thi công như thế nào thì người đọc mới hy vọng có hiểu biết thực sự. Chính vì thế, trong bài đọc sách này tôi đã viết thư riêng yêu cầu tác giả cho ví dụ và những ví dụ này hy vọng giúp độc giả hiểu rõ thêm về Công nghệ Giáo dục, và may thay tác giả đã phản hồi. Bài đọc sách này đặt ra một câu hỏi cho các nhà lãnh đạo Việt Nam: Phải chăng chỉ có một cách dạy học, và chỉ cần một bộ sách giáo khoa? Ở đây cũng cần nói rõ là nội dung có thể giống nhau nhưng cách tiếp cận để học sinh chiếm lĩnh tri thức qua sách giáo khoa và qua cách dạy thì có thể rất khác nhau. Một cách dạy, một chương trình, một bộ sách giáo khoa có phải là chính sách đã giết chết mọi cố gắng, mọi tâm huyết đưa khoa học vào giáo dục ở Việt Nam?
|