Vì sao đảng cộng sản ra đời là tất yếu

Thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam:

Theo một số tài liệu, đáp ứng những đòi hỏi của thực tiễn cách mạng, ngày 17/6/1929, Kỳ Bộ Bắc Kỳ Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên đã thành lập Đông Dương Cộng sản Đảng tại Hà Nội. Tháng 11/1929, các đồng chí Tổng bộ và Kỳ Bộ Nam Kỳ của Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên quyết định thành lập An Nam Cộng sản Đảng. Ngày 1/1/1930, những đại biểu ưu tú của Tân Việt cách mạng Đảng (một tổ chức tiền thân của Đảng) đã họp và thành lập Đông Dương Cộng sản Liên Đoàn ở Trung Kỳ. Tuy nhiên ở một nước có tới ba tổ chức cộng sản nên không tránh khỏi sự phân tán về lực lượng và tổ chức, không thể thống nhất về tư tưởng và hành động. Trách nhiệm lịch sử là phải thành lập một Đảng Cộng sản duy nhất, chấm dứt tình trạng chia rẽ phong trào Cộng sản ở Việt Nam.

Từ ngày 6 tháng 1 đến ngày 7 tháng 2/1930, Hội nghị hợp nhất các tổ chức Cộng sản thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam đã họp ở bán đảo Cửu Long thuộc Hồng Kông (Trung Quốc) dưới sự chủ trì của đồng chí Nguyễn Ái Quốc thay mặt cho Quốc tế Cộng sản. Trong Hội nghị thành lập Đảng, đồng chí Nguyễn Ái Quốc đề ra 5 điểm lớn cần thảo luận và thống nhất, trước hết là tự phê bình và phê bình, “Bỏ mọi thành kiến xung đột cũ, thành thật hợp tác để thống nhất các nhóm cộng sản Đông Dương”. Hội nghị đã nhất trí thống nhất các tổ chức Cộng sản thành lập một đảng, lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam.

Hội nghị đã thông qua các văn kiện gồm: Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt, Điều lệ vắn tắt của Đảng và Lời kêu gọi của đồng chí Nguyễn Ái Quốc thay mặt Quốc tế Cộng sản và Đảng Cộng sản Việt Nam gửi đến công nhân, nông dân, binh lính, thanh niên, học sinh và tất cả đồng bào bị áp bức, bóc lột nhân dịp thành lập Đảng. Trong đó, Chánh cương vắn tắt của Đảng và sách lược vắn tắt của Đảng phản ánh nội dung cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam. Hội nghị hợp nhất các tổ chức Cộng sản có ý nghĩa như Đại hội thành lập Đảng. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng (9/1960) đã quyết nghị lấy ngày 3 tháng 2 dương lịch mỗi năm làm Ngày kỷ niệm thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.

Ý nghĩa lịch sử và Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng:

Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời với Cương lĩnh chính trị đầu tiên đã mở ra thời kỳ mới cho cách mạng Việt Nam - thời kỳ đấu tranh giành độc lập dân tộc tiến lên chủ nghĩa xã hội. Cương lĩnh đầu tiên của Đảng ra đời, đã xác định được những nội dung cơ bản nhất của con đường cách mạng Việt Nam; đáp ứng được những nhu cầu bức thiết của lịch sử và trở thành ngọn cờ tập hợp, đoàn kết thống nhất các tổ chức cộng sản, các lực lượng cách mạng và toàn thể dân tộc.

Sự kiện thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam là một bước ngoặt vô cùng quan trọng của lịch sử cách mạng Việt Nam, quyết định sự phát triển của dân tộc, chấm dứt sự khủng hoảng về đường lối và tổ chức lãnh đạo của phong trào yêu nước Việt Nam đầu thế kỷ XX. Đó là kết quả của sự vận động, phát triển và thống nhất phong trào cách mạng trong cả nước; sự chuẩn bị công phu về mọi mặt của Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và sự đoàn kết nhất trí của những chiến sỹ tiên phong vì lợi ích của giai cấp, của dân tộc.

Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là thành quả của sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam; chứng tỏ giai cấp công nhân Việt Nam đã trưởng thành, đủ sức lãnh đạo cách mạng. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và việc Đảng chủ trương cách mạng Việt Nam là một bộ phận của phong trào cách mạng thế giới, đã tranh thủ được sự ủng hộ to lớn của cách mạng thế giới, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại làm nên những thắng lợi vẻ vang; đồng thời đóng góp tích cực vào sự nghiệp đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc và tiến bộ của nhân loại trên thế giới.

                                                                                                                                 BBT

THI TÌM HIỂU 80 NĂM NGÀY THÀNH LẬP ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

--o0o--

Câu 1:

Trình bày vai trò của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc trong việc chuẩn bị về chính trị, tư tưởng và tổ chức để thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam?

Trả lời

Nguyễn Ái Quốc tên thật là Nguyễn Sinh Cung, sau đổi là Nguyễn Tất Thành, sinh ngày 19/5/1890 tại Kim Liên, Nam Đàn, Nghệ An. Cha là Nguyễn Sinh Sắc, mẹ là Hoàng Thị Loan, một người phụ nữ đảm đang, chăm lo chồng con hết mực…

Nguyễn Tất Thành từ rất sớm có trí đuổi thực dân Pháp, giải phóng đồng bào…
Người khâm phục tinh thần yêu nước của các chí sĩ Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám, Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh,... nhưng lại không tán thành con đường cứu nước của họ. Các phong trào Đông Du, Duy Tân, các cuộc khởi nghĩa đều bị thực dân Pháp dập tắt. cách mạng lâm vào tình trạng khủng hoảng, thiếu hẵn một phương pháp cách mạng khoa học. Một đòi hỏi tất yếu là phải tìm ra con đường giải phóng cho dân tộc.

Trong bối cảnh lịch sử đó, thầy giáo Nguyễn Tất Thành đã ra đi tìm đường cứu dân, cứu nước, giải phóng cho dân tộc Việt Nam.

- Ngày 5/6/1911, Người lấy tên là Ba, xin làm việc phụ bếp trên tàu đô đốc Latusơ Tơrêvin, rời bến cảng Nhà Rồng bắt đầu cuộc hành trình tìm đường cứu nước. Tháng 7/1911, Người cập cảng Mácxây của Pháp.

- Năm 1912, Người tiếp tục đi một số nước ở châu Âu, châu Phi và châu Mĩ…

- Năm 1917, Nguyễn Ái Quốc trở lại Pháp. Khi Cách mạng tháng Mười Nga thành công, Người tham gia những hoạt động chính trị sôi nổi ngay trên đất Pháp như: tham gia hoạt động trong phong trào công nhân Pháp. Năm 1919, Người tham gia Đảng Xã hội Pháp.

- Tháng 6/1919, Nguyễn Ái Quốc đã thay mặt nhóm người yêu nước Việt Nam tại Pháp gửi "Bản yêu sách 8 điểm" đến Hội nghị Vécxai, nhằm tố cáo chính sách của Pháp và đòi Chính phủ Pháp thực hiện các quyền tự do, dân chủ và quyền bình đẳng của dân tộc Việt Nam.
Mặc dù không được chấp nhận, nhưng "Bản yêu sách" đã gây tiếng vang lớn đối với nhân dân Pháp và nhân dân các nước thuộc địa của Pháp. Tên tuổi Nguyễn Ái Quốc từ đó được nhiều người biết đến.

- Tháng 7/1920, Nguyễn Ái Quốc đọc bản Sơ khảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa của Lênin. Người vô cùng phấn khởi và tin tưởng, vì Luận cương đã chỉ rõ cho Người thấy con đường để giải phóng dân tộc mình. Từ đó, Người hoàn toàn tin theo Lênin, dứt khoát đi theo Quốc tế thứ III.

- Tại Đại hội lần thứ 18 của Đảng Xã hội Pháp họp tại Tua vào cuối tháng 12/1920, Nguyễn Ái Quốc đã bỏ phiếu tán thành việc gia nhập Quốc tế thứ III, tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp và trở thành người Cộng sản Việt Nam đầu tiên.
Sự kiện này đánh dấu một bước ngoặt trong tư tưởng chính trị của Nguyễn Ái Quốc, từ lập trường yêu nước chuyển sang lập trường Cộng sản.

- Năm 1921, Người sáng Hội liên hiệp các dân tộc thuộc địa Pháp để tuyên truyền, tập hợp lực lượng chống chủ nghĩa đế quốc.

- Năm 1922, Ra báo "Le Paria" (Người cùng khổ), ra báo "Le Paria", viết bài cho các báo "Nhân Đạo, Đời sống công nhân", nhất là "Bản án chế độ thực dân Pháp" (xuất bản 1925) nhằm vạch trần chính sách đàn áp, bóc lột dã man của chủ nghĩa đế quốc và thức tỉnh các dân tộc bị áp bức đứng lên đấu tranh tự giải phóng…

- Năm 1923, Người sang Liên Xô dự Hội nghị Quốc tế nông dân, sau đó làm việc ở Quốc tế Cộng sản.

- Năm 1924, Người dự Đại hội Quốc tế Cộng sản lần thứ V.

- Các hoạt động trong thời gian từ 1921 đến 1924 của Nguyễn Ái Quốc chủ yếu là trên mặt trận tư tưởng, chính trị bằng công tác tuyên truyền (viết nhiều bài cho báo Nhân Đạo, báo Đời sống công nhân và viết cuốn sách nổi tiếng Bản án chế độ thực dân Pháp). Người dốc sức truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin về nước. Tuy trong thời gian này chưa thành lập một chính đảng của giai cấp vô sản ở Việt Nam nhưng những tư tưởng của người là nền tảng tư tưởng của đảng sau này. Những tư tưởng đó là:

* Chủ nghĩa tư bản, đế quốc là kẻ thù chung của giai cấp vô sản các nước và nhân dân các thuộc địa. Đó là mối quan hệ mật thiết giữa cách mạng chính quốc và thuộc địa.

* Xác định giai cấp công nhân và nông dân là lực lượng nòng cốt của cách mạng.

* Giai cấp công nhân có đủ khả năng lãnh đạo cách mạng, thông qua đội tiên phong là Đảng Cộng sản.

- Về mặt tổ chức, khi về Quảng Châu (6/1925), Người đã tiếp xúc với các nhà cách mạng đang hoạt động ở đây. Người chọn một số thanh niên hăng hái trong tổ chức Tâm Tâm xã và nhiều người khác trong nước ta, mở các lớp huấn luyện chính trị để đào tạo họ trở thành cán bộ cách mạng, rồi đưa về nước hoạt động. Người đã sáng lập Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội - tổ chức tiền thân của Đảng và  cho xuất bản tuần báo "Thanh niên" làm cơ quan ngôn luận của Hội.

- Tháng 7/1925, Nguyễn Ái Quốc cùng một số nhà cách mạng Quốc tế, lập ra "Hội các dân tộc bị áp bức ở Á Đông", có quan hệ chặt chẽ với Hội Việt Nam cách mạng thanh niên.

- Tại Quảng Châu, Nguyễn Ái Quốc đã mở nhiều lớp huấn luyện ngắn ngày để đào tạo, bồi dưỡng cách mạng.

- Những bài giảng của Nguyễn Ái Quốc tại các lớp huấn luyện ở Quảng Châu sau đó đã được xuất bản thành sách "Đường Kách Mệnh".

- Từ năm 1928, Hội Việt Nam cách mạng thanh niên đã xây dựng được cơ sở của mình ở khắp nơi. Hoạt động của Hội góp phần truyền bá tư tưởng Mác - Lênin, thúc đẩy phong trào cách mạng Việt Nam theo xu thế cách mạng vô sản. Sự ra đời và hoạt động của Hội Việt Nam cách mạng là bước chuẩn bị chu đáo về chính trị, tổ chức và đội ngũ cán bộ cho việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam sau này.

Cuối năm 1929, những người cách mạng Việt Nam trong các tổ chức cộng sản đã nhận thức được sự cần thiết và cấp bách phải thành lập một Đảng Cộng sản thống nhất, chấm dứt tình trạng chia rẽ phong trào cộng sản ở Việt Nam. Nguyễn Ái Quốc liền rời khỏi Xiêm, sang Trung Quốc để tổ chức và chủ trì Hội nghị hợp nhất Đảng tại Hương Cảng, từ ngày 6/1 đến ngày 7/2/1930.

Với những hoạt động trên, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã có vai trò to lớn trong việc chuẩn bị về chính trị, tư tưởng (kết hợp chủ nghĩa yêu nước với phong trào công nhân và chủ nghĩa Mác – Lênin), góp phần giải quyết sự khủng hoảng về đường lối của cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam, là sự chuẩn bị về chính trị, tư tưởng và tổ chức để thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (3/2/1930), đưa cách mạng nước ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.

Câu 2:

Chứng minh: Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là một tất yếu lịch sử? Ý nghĩa của sự kiện Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời?

Trả lời

a. Chứng minh Đảng cộng sản Việt Nam ra đời (3/2/1930) đó là kết quả tất yếu của cuộc đấu tranh dân tộc và đấu tranh giai cấp của nhân dân Việt Nam trong thời đại mới:

- Trong ba thập niên đầu thế kỉ XX, thực dân Pháp tiến hành khai thác thuộc địa lần thứ hai ở Việt Nam, cùng với quá trình khai thác của thực dân Pháp làm xuất hiện những mâu thuẫn trong xã hội Việt Nam, mâu thuẫn cơ bản nhất đó là mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp và mâu thuẫn giữa giai cấp nông dân Việt Nam với bọn địa chủ phong kiến tay sai. Để giải quyết các mâu thuẫn đó, nhân dân ta đã đứng lên chống thực dân Pháp và phong kiến tay sai. Đến 1920, Nguyễn Ái Quốc đã tìm ra con đường cứu nước mới: cách mạng vô sản (khác với con đường dân chủ tư sản của các bậc tiền bối: Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh) và ra sức hoạt động nhằm truyền bá chủ nghĩa Mác - Lê nin vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam.

- Từ tháng 6/1925, "Hội Việt Nam cách mạng thanh niên" ra đời tại Quảng Châu (Trung Quốc) và đẩy mạnh hoạt động: ra báo "Thanh niên", xuất bản tác phẩm "Đường cách mệnh", phát động phong trào "vô sản hóa"… Nhờ đó,  chủ nghĩa Mác – Lê nin được truyền bá về Việt Nam, giúp cho phong trào dân tộc dân chủ Việt Nam, nhất là phong trào công nhân phát triển mạnh mẽ trong cả nước và dần dần có sự chuyển biến về chất: từ tự phát sang tự giác…

- Đồng thời, phong trào yêu nước của tư sản dân tộc và tiểu tư sản trí thức cũng phát triển mạnh mẽ: Tân Việt Cách mạng đảng và Việt Nam Quốc dân đảng ra đời và ngày càng đẩy mạnh hoạt động. Dần dần, một số đảng viên tiên tiến của Tân Việt Cách mạng đảng chuyến sang Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên và đi theo con đường cách mạng vô sản..

- Đến 1929, ở Việt Nam đã xuất hiện 3 tổ chức cộng sản: Đông Dương Cộng sản đảng, An Nam Cộng sản đảng và Đông Dương Cộng sản liên đoàn.

- Sự ra đời của ba tổ chức cộng sản lúc bấy giờ là một xu thế khách quan của cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam. Các tổ chức cộng sản trên đã nhanh chóng phát triển trên cơ sở trong nhiều địa phương và trực tiếp lãnh đạo các cuộc đấu tranh của quần chúng. Nhưng các tổ chức đó đều hoạt động riêng rẽ, tranh giành ảnh hưởng của nhau, thậm chí công kích lẫn nhau làm cho phong trào cách mạng trong cả nước có nguy cơ bị chia rẽ lớn.

- Giữa lúc đó, Nguyễn Ái Quốc đã rời khỏi Xiêm sang trung Quốc, chủ động triệu tập Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam từ ngày 6/1/1930 tại Cửu Long - Hương Cảng (Trung Quốc).

Tóm lại, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời (3/2/1930) là một thực tế lịch sử không thể phủ nhận, phù hợp với quy luật phát triển khách quan của lịch sử.

b/. Ý nghĩa lịch sử của việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam năm 1930:

- Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là kết quả tất yếu của cuộc đấu tranh dân tộc và giai cấp của nhân dân Việt Nam. Đảng là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác – Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam trong thời đại mới.

- Việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam là một bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử cách mạng Việt Nam. Từ đây, cách mạng giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam đặt dưới sự lãnh đạo duy nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam, một Đảng có đường lối cách mạng khoa học và sáng tạo, có tổ chức chặt chẽ, có đội ngũ cán bộ đảng viên trung kiên nguyện suốt đời hy sinh cho lí tưởng của Đảng, cho độc lập của dân tộc, cho tự do của nhân dân.

- Từ đây, cách mạng Việt Nam thực sự trở thành một bộ phận khắng khít của cách mạng thế giới.

- Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là sự chuẩn bị tất yếu đầu tiên có tính quyết định cho những bước phát triển nhảy vọt mới trong lịch sử phát triển của dân tộc Việt Nam.

Câu 3:

Hoàn cảnh lịch sử, nội dung và ý nghĩa của Nghị quyết 15 (01/1959) của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam về "Tăng cường đoàn kết, kiên quyết đấu tranh giữ vững hòa bình, thực hiện thống nhất nước nhà".

Trả lời

a. Hoàn cảnh lịch sử:

- Thế giới: Lực lượng cách mạng trên thế giới đang ở thế tiến công vào chủ nghĩa đế quốc, tình hình đó có lợi cho cách mạng nước ta.

- Trong nước: sau Hiệp định Giơnevơ, đất nước ta bị chia cắt làm 2 miền với hai chế độ chính trị - xã hội khác nhau. Vì vậy, nhiệm vụ cách mạng của hai miền cũng khác nhau:

+ Miền Bắc: hoàn toàn giải phóng, đang bước vào thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội, từng bước xây dựng củng cố về mọi mặt, làm cơ sở cho cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam.

+ Miền Nam: Mĩ thay thế Pháp, dựng nên chính quyền Ngô Đình Diệm, thực hiện âm mưu chia cắt Việt Nam, biến miền Nam Việt Nam thành thuộc địa kiểu mới và là căn cứ quân sự của Mĩ để tấn công ra miền Bắc, Đông Dương và Đông Nam Á. Vì vậy, nhiệm vụ của cách mạng miền Nam là tiếp tục cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, đấu tranh chống đế quốc Mĩ xâm lược và chính quyền tay sai, thực hiện hòa bình thống nhất nước nhà.

- Trong những năm 1957 - 1959, chính quyền Mĩ - Diệm tăng cường khủng bố đàn áp, dùng chính sách phát xít ngăn chặn phong trào cách mạng. Tiêu biểu như: tháng 12 - 1958, Mĩ - Diệm đã đầu độc 6000 người yêu nước ở nhà tù Phú Lợi (tỉnh Bình Dương), giết hại gần 1000 người. Tháng 5/1959, chính quyền Diệm ra Luật 10/1959, cho phép thẳng tay giết hại bất cứ người yêu nước nào, bất cứ ai có biểu hiện chống lại chúng, làm cho hàng vạn cán bộ, đảng viên bị giết hại, hàng chục vạn đồng bào yêu nước bị tù đày. Cuộc đấu tranh của nhân dân ta ở miền Nam đòi hỏi có một biện pháp quyết liệt để đưa cách mạng vượt qua khó khăn, thử thách.

Trước tình hình đó, ngày 13 tháng 1 năm 1959, Hội nghị lần thứ 15 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa II) mở rộng khai mạc tại thủ đô Hà Nội dưới sự chủ tọa của Hồ Chủ tịch và đồng chí Lê Duẩn. Hội nghị Trung ương đã nghiên cứu trao đổi, phân tích về tình hình ta và địch, khảo sát khả năng và lực lượng cách mạng thích hợp nhất miền Nam.

b. Nội dung:

Nội dung của Hội nghị tập trung vào các vấn đề nhiệm vụ, mục tiêu của cách mạng, vấn đề kẻ thù chủ yếu nhanh chóng được thống nhất. Nhưng vấn đề gay cấn phải thảo luận nhiều là:

- Đánh giá địch, đánh giá đế quốc Mỹ.

- Cách mạng miền Nam, chiến tranh cách mạng và vấn đề bảo vệ hòa bình chung.

- Phương pháp cách mạng ở miền Nam.

Chưa có Hội nghị nào của Trung ương được chuẩn bị công phu, trao đổi sôi nổi, kĩ lưỡng như Hội nghị này. Hội nghị lần thứ 15 của Trung ương tiến hành suốt cả tháng trời, từ giữa tháng 1 cho đến giữa tháng 2 năm 1959.

- Hội nghị nhận định: Sự can thiệp của đế quốc Mỹ vào miền Nam Việt Nam hình thành trong cả nước một thế mâu thuẫn gay gắt giữa một bên là nhân dân Việt Nam đang mong muốn hòa bình, thống nhất, để hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước và cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội, với một bên là chủ nghĩa đế quốc xâm lược, giai cấp địa chủ phong kiến và bọn tư sản mại bản quan liêu thống trị ở miền Nam. Trên cơ sở phân tích khoa học về đặc điểm, tính chất và mâu thuẫn hiện nay của cách mạng Việt Nam, Hội nghị đã nhận định: "Cách mạng Việt Nam do Đảng ta lãnh đạo bao gồm hai nhiệm vụ chiến lược: Cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam. Hai nhiệm vụ chiến lược đó tuy tính chất khác nhau, nhưng quan hệ hữu cơ với nhau, song song tiến hành, ảnh hưởng sâu sắc lẫn nhau, trợ lực mạnh mẽ cho nhau, nhằm phương hướng chung là giữ vững hòa bình, thực hiện thống nhất nước nhà, tạo điều kiện thuận lợi để đưa cả nước Việt Nam tiến lên chủ nghĩa xã hội".

Hội nghị đề ra nhiệm vụ cho cách mạng Việt Nam là: "Tăng cường đoàn kết toàn dân, kiên quyết đấu tranh để giữ vững hòa bình, thực hiện thống nhất nước nhà trên cơ sở độc lập và dân chủ, hoàn thành nhiệm vụ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước, ra sức củng cố miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất độc lập, dân chủ và giàu mạnh; tích cực góp phần bảo vệ hòa bình ở Đông Nam Á và thế giới".

Về đường lối cách mạng Việt Nam ở miền Nam, Hội nghị đã phân tích kỹ đặc điểm, tính chất và những mâu thuẫn hiện tại ở miền Nam Việt Nam, trên cơ sở đó đề ra nhiệm vụ cách mạng Việt Nam ở miền Nam là giải phóng miền Nam, với nhiệm vụ trước mắt là đoàn kết toàn dân, kiên quyết đấu tranh chống đế quốc Mỹ, ách thống trị độc tài Ngô Đình Diệm, thành lập chính quyền liên hiệp dân tộc, dân chủ miền Nam. Trung ương Đảng cũng nhận định đấu tranh dùng bạo lực. Theo tình hình cụ thể và yêu cầu của cách mạng thì con đường đó là: "Lấy sức mạnh của quần chúng, dựa vào lực lượng chính trị của quần chúng là chủ yếu, kết hợp lực lượng vũ trang để đánh đổ quyền thống trị của đế quốc và phong kiến, dựng lên chính quyền cách mạng của nhân dân".

Hội nghị còn dự đoán: "Đế quốc Mỹ là đế quốc hiếu chiến nhất, cho nên trong những điều kiện nào đó, cuộc khởi nghĩa của nhân dân miền Nam cũng có khả năng chuyển thành cuộc đấu tranh vũ trang trường kỳ. Trong tình hình đó, cuộc đấu tranh sẽ chuyển sang một cục diện mới: đó là chiến tranh trường kỳ giữa ta và địch và thắng lợi cuối cùng nhất định về ta". Hội nghị cũng cho rằng cách mạng miền Nam cần có Mặt trận dân tộc thống nhất riêng cho phù hợp với tính chất, nhiệm vụ của cách mạng nhằm tập hợp tất cả các lực lượng chống đế quốc và tay sai.

- Cuối cùng, Hội nghị lần thứ 15 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam kêu gọi "toàn Đảng ở cả miền Bắc và miền Nam, tăng cường đoàn kết nhất trí, bồi dưỡng chí khí chiến đấu…".

c. Ý nghĩa

Hội nghị lần thứ 15 của Trung ương Đảng đã quyết định bước ngoặt của cách mạng, đưa cách mạng miền Nam từ thế giữ gìn lực lượng sang thế tiến công. Cùng với đường lối đúng đắn, Trung ương Đảng đã có sự sáng tạo lớn trong chỉ đạo phương pháp cách mạng. Với sự nhấn mạnh đấu tranh chính trị bên cạnh đấu tranh vũ trang, giữa thế hợp pháp của quần chúng, công tác binh vận… đã tạo nên sức mạnh tổng hợp to lớn của cách mạng để tiến công kẻ địch. Có thể nói, Nghị quyết Hội nghị 15 của Trung ương là một quyết định dũng cảm thể hiện sự vững vàng sáng tạo, trách nhiệm đầy đủ của Đảng ta đối với phong trào cách mạng thế giới và đối với sự nghiệp và vận mệnh của dân tộc, nêu cao đường lối độc lập tự chủ, cách mạng và khoa học của Đảng ta.

Từ khi Nghị quyết 15 ra đời, cách mạng Việt Nam bắt đầu thực hiện nhiệm vụ của Trung ương Đảng: Bộ Chính trị thành lập Đoàn vận tải quân sự 559, điều động Sư đoàn 325 mở đường Trường Sơn, đường Hồ Chí Minh; huấn luyện quân sự cung cấp vào chiến đấu miền Nam… Những quyết định trên của Nghị quyết Hội nghị lần thứ 15 của Trung ương được giữ vững hết sức bí mật. Như vậy, Nghị quyết 15 ra đời có ý nghĩa lịch sử to lớn, mở đường cho cách mạng miền Nam tiến lên xoay chuyển tình thế, dẫn đến cuộc "Đồng Khởi" toàn miền Nam năm 1960.

Câu 4:

Nêu hoàn cảnh lịch sử và nội dung cơ bản của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI Đảng Cộng sản Việt Nam (được tổ chức tại Hà Nội từ ngày 15 – 18/12/1986).

Trả lời

a. Hoàn cảnh lịch sử:

* Hoàn cảnh trong nước:

- Trải qua 10 năm thực hiện hai kế họach 5 năm xây dựng chủ nghĩa xã hội (1976-1980 và 1981-1985), ta đạt được những thành tựu và ưu điểm đáng kể trên các lĩnh vực của đời sống xã hội. Song gặp không ít khó khăn. Khó khăn ngày càng lớn, đưa đất nước lâm vào tình trạng khủng hoảng về kinh tế – xã hội. Một trong những nguyên nhân cơ bản của khó khăn, yếu kém là do mắc phải "sai lầm nghiêm trọng và kéo dài về chủ trương, chính sách lớn, sai lầm về chỉ đạo chiến lược và tổ chức thực hiện".

- Để khắc phục sai lầm, khuyết điểm đưa đất nước vượt qua khủng hoảng và đẩy mạnh cách mạng xã hội chủ nghĩa tiến lên. Đảng và Nhà nước ta phải tiến hành đổi mới.

* Hoàn cảnh thế giới:

- Dưới tác động của cách mạng khoa học – kĩ thuật làm cho quan hệ của các nước thay đổi theo xu thế mới.

- Cuộc khủng hoảng toàn diện, trầm trọng của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa khác cũng đòi hỏi Đảng và Nhà nước ta phải tiến hành đổi mới.

Như vậy, đổi mới là vấn đề cấp bách, có ý nghĩa sống còn đối với chủ nghĩa xã hội ở nước ta đồng thời là vấn đề phù hợp với xu thế chung của thời đại.

Trong bối cảnh đó, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam họp từ ngày 15 đến 18/12/1986 tại Hà Nội với sự tham gia của 1.129 đại biểu thay mặt cho gần 1,9 triệu Đảng viên cả nước.

b. Nội dung cơ bản của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI Đảng Cộng sản Việt Nam

- Đại hội thông qua điều lệ Đảng, bầu Ban chấp hành Trung ương khóa VI. Đồng chí Nguyễn Văn Linh được bầu làm Tổng Bí thư. Đại hội VI là mốc lịch sử quan trọng đánh dấu bước chuyển sang thời kì đổi mới. Đại hội đề ra đường lối đổi mới đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội.

- Đại hội VI đánh giá tình hình đất nước, kiểm điểm sự lãnh đạo của Đảng, vai trò quản lý của Nhà nước trong thập kỉ đầu cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội, từ đó đề ra đường lối đổi mới, xây dựng đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, xác định nhiệm vụ, mục tiêu của cách mạng trong thời kì đất nước đổi mới.

- Đường lối đổi mới, xây dựng đất nước của Đảng được Đại hội VI cụ thể hóa trong Kế hoạch kinh tế - xã hội 5 năm (1986 - 1990), nêu lên phương hướng, nhiệm vụ, mục tiêu của kế hoạch. Đổi mới không phải là thay đổi mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, mà làm cho mục tiêu ấy được thực hiện có hiệu quả bằng những hình thức, bước đi và biện pháp thích hợp. Đồng thời, đổi mới phải toàn diện và đồng bộ, đổi mới về kinh tế phải gắn liền với đổi mới chính trị, nhưng trọng tâm là đổi mới kinh tế.

+ Đổi mới về kinh tế:

• Phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, nhằm phát huy sức mạnh của các thành phần kinh tế xóa bỏ cơ chế quản lí kinh tế tập trung, bao cấp, hình thành cơ chế thị trường, mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại.

• Cải tạo quan hệ sản xuất, các thành phần kinh tế lạc hậu kìm hãm sự phát triển. Cải tạo đi đôi với sử dụng và thiết lập quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa. Cải tạo phải được coi là nhiệm vụ thường xuyên, liên tục trong suốt thời kì quá độ.

• Xóa bỏ cơ chế quản lý kinh tế tập trung, bao cấp, hình thành cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước.

• Thực hiện chính sách mở cửa, mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại, mở rộng sự phân công lao động và hợp tác kinh tế quốc tế, tích cực khai thác nguồn vốn, khai thác công nghệ, khai thác thị trường.

+ Đổi mới chính trị:

• Xây dựng lại nhà nước xã hội chủ nghĩa, nhà nước của nhân dân, do dân và vì dân lấy liên minh giai cấp công nhân, nông dân và tầng lớp trí thức làm nền tảng của Nhà nước do Đảng Cộng sản lãnh đạo.

• Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân.

• Thực hiện quyền dân chủ của nhân dân, chuyên chính đối với mọi hành động xâm phạm lợi ích Tổ quốc của nhân dân.

• Thực hiện chính sách đại đoàn kết dân tộc, tập hợp mọi lực lượng của dân tộc, phấn đấu sự nghiệp dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

• Thực hiện chính sách đối ngoại hòa bình, hữu nghị, hợp tác. "Việt Nam muốn là bạn của tất cả các nước".

Câu 5:

Tổ chức Hội Việt Nam cách mạng thanh niên (trước đây được gọi là Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội) tỉnh Mỹ Tho được thành lập năm nào và đóng ở đâu? Tên đồng chí được chọn làm Bí thư?

Trả lời

- Tháng 6/1925, Nguyễn Ái Quốc thành lập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên ở Quảng Châu - Trung Quốc. Ít lâu sau, Kỳ bộ Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên Nam kỳ ra đời.

- Đầu năm 1927, Kỳ bộ đã tuyển chọn một số thanh niên yêu nước và ưu tú ở Tiền Giang cử sang Quảng Châu dự học khóa huấn luyện chính trị do Nguyễn Ái Quốc trực tiếp giảng dạy, như Trần Ngọc Giải, Trần Văn Hòe, Lê Hoàng Chiếu, Nguyễn Trung Nguyệt, Nguyễn Văn Thìn, Dương Văn Ngươn v.v…

- Sau khi hoàn thành khóa học, số thanh niên này được kết nạp vào Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, rồi trở về Tiền Giang phát triển hội viên và xây dựng cơ sở cách mạng. Đến cuối năm 1927, Tỉnh hội Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên Mỹ Tho được thành lập, do Trần Ngọc Giải làm Bí thư, cơ quan đóng tại thị xã Mỹ Tho và Tỉnh hội Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên Gò Công, do Nguyễn Văn Côn làm Bí thư, cơ quan đóng tại xã Vĩnh Hựu (Gò Công Tây), có lúc dời về tỉnh lỵ Gò Công.

- Chỉ sau một thời gian ngắn, cơ sở của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên phát triển rộng rãi ra ở nhiều huyện và nhiều xã trong tỉnh. Ngoài việc thành lập các chi bộ hoạt động bí mật, các cán bộ hội viên của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên còn tổ chức các hội, đoàn hoạt động công khai, hợp pháp để tập hợp quần chúng, như hội khuyến học, hội đọc sách báo, hội tương tế ái hữu, hội hớt tóc, hội trợ táng, hội đá banh, hội vần công cấy v.v..

Câu 6:

Đảng bộ tỉnh Mỹ Tho được thành lập năm nào? Tên đồng chí được chỉ định làm Bí thư? Ý nghĩa của sự kiện Đảng bộ tỉnh Mỹ Tho ra đời đối với tiến trình lịch sử ở địa phương?

Trả lời

Đảng bộ Tỉnh Mỹ Tho được thành lập vào tháng 4/1930, do đồng chí Nguyễn Thiệu làm Bí thư.

Kể từ khi Đảng bộ tỉnh Mỹ Tho ra đời, phong trào yêu nước và cách mạng của nhân dân Mỹ Tho được đặt dưới sự lãnh đạo thống nhất của một Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam. Đó là nhân tố quan trọng có tác dụng phát huy cao độ truyền thống đoàn kết và đấu tranh của nhân dân, thúc đẩy phong trào cách mạng ở đây tiến lên một bước mới. Tại Mỹ Tho, sau khi có các chi bộ Đảng ra đời và được cơ quan Tỉnh ủy đóng tại thành phố trực tiếp lãnh đạo, phong trào đấu tranh cách mạng của nhân dân thành phố Mỹ Tho ngày càng phát triển mạnh mẽ và giành được nhiều thắng lợi to lớn, tạo tiền đề cho giai đoạn cách mạng mới sau này.

Câu 7:

Nêu những nội dung cơ bản và ý nghĩa của Nghị quyết Đại hội đại biểu lần thứ IV Đảng bộ tỉnh Tiền Giang (14 - 18/10/1986)?

Trả lời

- Đại hội đại biểu lần thứ IV Đảng bộ tỉnh Tiền Giang được diễn ra từ ngày 14 đến ngày 18/10/1986. Đại hội đã bầu Ban Chấp hành nhiệm kỳ IV (1986 - 1990) gồm 45 ủy viên chính thức, 14 ủy viên dự khuyết và 15 đồng chí được bầu vào Ban Thường vụ Tỉnh ủy. Đồng chí Huỳnh Văn Niềm được bầu làm Bí thư Tỉnh ủy.

- Trên cơ sở quán triệt dự thảo báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương (Đại hội VI của Đảng) và quan điểm của Bộ chính trị, Đại Hội đại biểu lần IV của Đảng bộ Tiền Giang đã ra Nghị quyết, gồm 3 phần với 3 nội dung cơ bản như sau:

+ Một là, đánh giá tình hình chung, chỉ rõ những thành tựu, hạn chế, thiếu sót của  tỉnh Tiền Giang sau thời gian cùng cả nước thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng cơ sở cho công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa.

+ Hai là, nêu lên phương hướng, nhiệm vụ chung của Đảng bộ Tiền Giang trong giai đoạn 1986 - 1990. Trong phần này, Nghị quyết nêu rõ những thuận lợi cũng như khó khăn mà Đảng bộ sẽ phải đối mặt khi thực hiện phương hướng, nhiệm vụ trong thời gian 1986 - 1990 và nêu nhiệm vụ, mục tiêu cụ thể của nghị quyết.

+ Ba là, đề ra những nhiệm vụ công tác cụ thể về kinh tế - xã hội của Tiền Giang trong giai đoạn 1986 - 1990 trên cơ sở quán triệt thực hiện 9 nhiệm vụ công tác cụ thể:

• Đẩy mạnh sản xuất, đặc biệt là phát triển ngành nông nghiệp.

• Đẩy mạnh xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho kinh tế - xã hội ở địa phương.

• Kế hoạch hoá dân số và giải quyết việc làm cho người lao động.

• Làm chủ lưu thông phân phối.

• Mở rộng, nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại.

• Đẩy mạnh cải tạo xã hội chủ nghĩa, nâng cao chất lượng quan hệ sản xuất mới.

• Ứng dụng rộng rãi khoa học kĩ thuật.

• Đổi mới cơ chế quản lý kinh tế.

• Phát triển văn hoá, xã hội.

Ngoài ra, nghị quyết nhấn mạnh 3 công tác: bảo vệ an ninh quốc phòng và nền pháp chế xã hội chủ nghĩa, vai trò quản lý của Nhà nước trong việc phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động, nâng cao năng lực và sức chiến đấu của Đảng bộ.

Ý nghĩa của nghị quyết:

- Đưa ra những phương hướng, nhiệm vụ phù hợp với tình hình cụ thể của địa phương và đất nước.

- Giúp cho Tiền Giang có định hướng đúng đắn trong việc khắc phục những khó khăn, thiếu sót, phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội trong thời kỳ mới, phù hợp với phương hướng phát triển chung của đất nước.

- Định hướng xây dựng Đảng bộ Tiền Giang "trong sạch, vững mạnh", làm tốt hơn vai trò lãnh đạo của mình.

+ Phải không ngừng làm công tác phát triển Đảng viên, giới thiệu những thành viên ưu tú vào Đảng.

- Đối với nhân dân:

+ Phải không ngừng học tập và rèn luyện, nghiên cứu lý luận chính trị, thấm nhuần sâu sắc chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối chính sách của Đảng, trau dồi kiến thức chuyên môn để cho bản thân mình không những thạo chính trị mà còn giỏi chuyên môn, có thể đóng góp nhiều cho Đảng, nhà nước trong việc hoạch định các đường lối, chính sách cũng như giải quyết các vấn đề của xã hội.

+ Nêu ý kiến, phản ánh, đấu tranh chống tham nhũng, các biểu hiện tiêu cực khác của các Đảng viên để Đảng nắm rõ tình hình và có biện pháp khắc phục kịp thời.

Câu 8:

Theo ông, bà, anh, chị, trong giai đoạn cách mạng hiện nay, chúng ta cần phải làm gì để góp phần xây dựng Đảng ta ngày càng trong sạch, vững mạnh, "là đạo đức, là văn minh"?

Trả lời