Muốn tìm hiểu con rồng thời lý phải làm sao

Thân rồng thời Trần vẫn giữ dáng dấp như thời Lý, với các đường cong tròn nối nhau, các khúc trước lớn, các khúc sau nhỏ dần và kết thúc như đuôi rắn. Vẩy lưng vẫn thể hiện từng chiếc, nhưng không tựa đầu vào nhau như rồng thời Lý. Có khi vảy lưng có dạng hình răng cưa lớn, nhọn, đôi khi từng chiếc vẩy được chia thành hai tầng. Chân rồng thường ngắn hơn, những túm lông ở khủy chân không bay ra theo một chiều nhất định như rồng thời Lý mà lại bay lên phía trước hay phía sau tùy thuộc vào khoảng trống trên bức phù điêu. Và có sự xuất hiện chi tiết cặp sừng và đôi tay

Đầu rồng không có nhiều phức tạp như rồng thời Lý. Rồng vẫn có vòi hình lá, vươn lên trên nhưng không uốn nhiều khúc. Chiếc răng nanh phía trước khá lớn, vắt qua sóng vòi. Miệng rồng há to nhưng nhiều khi không đớp quả cầu.

Rồng thời Trần lượn khá thoải mái với động tác dứt khoát, mạnh mẽ. Thân rồng thường mập chắc, tư thế vươn về phía trước. Cách thể hiện rồng không chịu những quy định khắc khe như thời Lý.

Hình ảnh rồng chầu mặt trời sớm nhất là trong lòng tháp Phổ Minh ( Nam Định) có niên đại khoảng 1305 -1310. Đôi rồng ở đây được bố trí trong một ô tròn, chạy ngược chiều kim đồng hồ, đầu ngoái lại chầu một vòng tròn nhỏ ở giữa. Thể hiện mặt trời dưới dạng một vòng tròn đơn giản.


Hình tượng rồng thời Lê

Muốn tìm hiểu con rồng thời lý phải làm sao

Đến thời Lê, rồng có sự thay đổi hẳn, rồng không nhất thiết là một con vật mình dài uốn lượn đều đặn nữa mà ở trong nhiều tư thế khác nhau. Đầu rồng to, bờm lớn ngược ra sau, mào lửa mất hẳn, thay vào đó là một chiếc mũi to. Mép trên của miệng rồng vẫn kéo dài nhưng được vuốt gần như thẳng ra, bao quanh có một hàng vải răng cưa kết lại như hình chiếc lá. Răng nanh cũng được kéo dài lên phía trên và uốn xoăn thừng ở gốc. Lông mày vẫn giữ hình dáng biểu tượng ômêga, nhưng được kéo dài ra và đuôi vuốt chếch lên phía sau. Trên lông mày và chiếc sừng hai chạc, đầu sừng cuộn tròn lại. Rồng có râu ngắn và một chân trước thường đưa lên đỡ râu, tư thế thướng thấy ở các con rồng đời sau. Cổ rồng thường nhỏ hơn thân, một hiện tượng ít thấy ở những con rồng trước đó. Như vậy rồng mang dạng thú xuất hiện cuối đời Trần đã thấy phổ biến ở đời Lê Sơ nhưng vẫn còn mang dáng dấp truyền thống của loài rắn.
Hình tượng rồng thời Nguyễn

Muốn tìm hiểu con rồng thời lý phải làm sao

Rồng thời Trịnh Nguyễn vẫn còn đứng đầu trong bộ tứ linh nhưng đã được nhân cách hóa, được đưa vào đời thường như hình rồng mẹ có bầy rồng con quây quần, rồng đuổi bắt mồi, rồng trong cảnh lứa đôi.
Con rồng thời Nguyễn trở lại vẻ uy nghi tượng trưng cho sức mạnh thiêng liêng. Rồng được thể hiện ở nhiều tư thế, ẩn mình trong đám mây, hoặc ngậm chữ thọ, hai rồng chầu mặt trời, chầu hoa cúc, chầu chữ thọ… Phần lớn mình rồng không dài ngoằn mà uốn lượn vài lần với độ cong lớn. Đầu rồng to, sừng giống sừng hươu chĩa ngược ra sau. Mắt rồng lộ to, mũi sư tử, miệng há lộ răng nanh. Vậy trên lưng rồng có tia, phân bố dài ngắn đều đặn. Râu rồng uốn sóng từ dưới mắt chìa ra cân xứng hai bên. Hình tượng rồng dùng cho vua có năm móng, còn lại là bốn móng.
Ngày nay, hình tượng rồng tuy không còn mang tính chất thiêng liêng, tối thượng nhưng vẫn được đưa vào trang trí cho các công trình kiến trúc, hội họa, chạm, khắc nghệ thuật… Dù ở bất cứ thời điểm nào, rồng vẫn là một phần trong cuộc sống văn hóa của người Việt.

Theo Non nước Việt Nam

Các bài đã đăng :

 

MỤC LỤC  –  GỐM SỨ CỔ TRUYỀN VN


Advertisement

Share this:

  • Twitter
  • Facebook

Thích bài này:

Thích Đang tải...

Có liên quan

Posted in GỐM SỨ CỔ TRUYỀN VIỆT NAM, HỘI HỌA, ĐIÊU KHẮC, Hoa văn - hình tượng trên gốm cổ Việt Nam | Thẻ gốm sứ, hình tượng rồng, kiến trúc, Lê, Lý, Nguyễn, Trần, triều đại, điêu khắc | 1 bình luận

Hình tượng “con rồng” trong văn hóa thời Ly
I.LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Con rồng là một hình tượng đặc biệt trong văn hóa.tín ngưỡng của dân tộc việt
nam và đã từng là biểu tượng linh thiêng liên quan đến truyền thuyết “con rồng
cháu tiên” của người việt…bên cạnh đó rồng là hình ảnh mà các vua việt nam phải
xăm lên đùi để giữ truyền thống của cư dân ven biển.Đến đời vua Trần Anh Tông
(1293-1314) mới chấm dứt tục xăm rồng lên đùi của các vua.rồng là tượng trưng
của uy quyền tuyệt đối của các đấng thiên tử (bệ rồng,mình rồng) rồng là hình
tượng của mưa thuận gió hòa, là vật linh đứng đầu vào hàng bậc nhất của tứ linh “
long,lân,quy,phụng”. Vì thế, hình tượng con rồng việt nam đối nghịch với hình
tượng con rồng độc ác, tương trưng cho cái xấu của các nước phương tây. Hình
tượng con rồng đã được hình dung lên từ thời đại Hùng Vương qua con vật thân dài
có vẩy như cá sấu được chạm trên các đồ đồng thời ấy. Qua thời kỳ Bắc thuộc dài
đằng đẵng, con rồng Việt Nam xuất hiện rõ nét dưới thời Lý. Hình ảnh "rồng bay
lên" - Thăng Long - tượng trưng cho khí thế vươn lên của dân tộc, được đem đặt
cho đất đế đô.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu là hình tượng “con rồng” trong văn hóa thời lý
III. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Hình tượng rồng trong tâm thức của người Việt thời Lý lúc bấy Tìm hiểu về
hình tượng rồng trong văn hóa thời Lý, nghiên cứu về nguồn gớc, lịch sử, giờ.
IV.NỢI DUNG
Khái niệm Rờng có thể x́t hiện từ thời rất xa xưa, dĩ nhiên không phải dưới
danh xưng “Rồng”. Tổ tiên ta gọi “con ấy” là con gì thì không ai biết. Sử sách có
nói đến con thuồng luồng, con giao long : người Văn Lang thời đó “xuống nước
1

đánh cá thường bị giống giao long làm hại nên có tục xâm mình theo dạng thủy
qi để tránh tai họa giao long”, theo Lĩnh Nam Chích Quái, truyện họ Hồng
Bàng. “Dạng thủy quái” ra sao, chúng ta không rõ, nó có phải là tiền thân con Rồng


hay không, cũng chỉ là suy đoán. Có thuyết nói : chữ “thuồng luồng” phát sinh ra
chữ “long” rồi biến âm thành chữ “rồng”. Nhưng theo cố giáo sư Nguyễn Tài Cẩn,
thì ngược lại, từ “rồng” có trước, vào thời Hán, chữ “thuồng luồng” xuất hiện về
sau, vào thời Đường. Theo ông, thời tiền sử, người Việt gọi rồng bằng cái tên gì
khác, như là rắn hay cá sấu . Hai chữ giao-long có nghĩa là “cá sấu - rồng”. Nhà
nghiên cứu mỹ thuật Huỳnh Hữu Ủy cho biết, trong tiếng Mường còn chữ “con khú
– con rồng” để chỉ con cá sấu, con rồng, và còn câu tục ngữ “con khú làm chồng,
con rồng làm nhân ngãi”.

.
Nói đến thời lý ta không thể không nói đến “Đại Việt sử ký Toàn Thư” do Ngô
Sĩ Liên biên soạn (thế kỷ XV- triều Lê Thánh Tông) có viết: “Vào tháng 7 năm
1010, khi Lý Công Uẩn rời đô từ thành Hoa Lư (Ninh Bình) ra kinh phủ ở thành
Đại La, chỗ đỗ thuyền có Rồng Vàng hiện lên ở thuyền ngự, nhân đó đổi tên là
thành Thăng Long”. Vị trí thành Thăng Long, chiếu dời đô Lý Công Uẩn ghi: “... ở
nơi trung tâm của trời đất, được cái thế Rồng cuộn Hổ ngồi. Đã đúng ngôi Nam,
Bắc, Đông, Tây lại tiện hướng nhìn sông dựa núi. Địa thế rộng mà bằng, đất đai cao

2

mà thoáng. Dân cư khỏi chịu cảnh khốn khổ, ngập lụt, muôn vật cũng rất mực
phong phú tốt tươi. Xem khắp đất Việt ta chỉ có nơi này là thắng địa. Thật là chốn
hội tụ trọng yếu của bốn phương đất nước, cũng là nơi kinh đô bậc nhất của Đế
Vương muôn đời...” Vương triều Lý đã tiến hành xây dựng nhiều công trình kiến
trúc hoàng thành, đến các chùa, Tháp. Thăng Long- Thủ đô.
Từ xa xưa con Rồng đã có trong tâm thức người Việt, nhiều huyền thoại về
rồng, với biểu hiện linh thiêng, về phát sinh phát triển, như chúng ta từng tự hào là
con cháu của Lạc Hồng (Lạc Long Quân và Âu Cơ). Rồng gắn bó trong văn hoá tín
ngưỡng dân gian. Rồng là biểu tượng vật linh, mang lại mưa thuận gió hoà, là

mong cầu, ước muốn của đời sống cư dân nông nghiệp lúa nước. Nó được phát huy
sáng tạo trong nghệ thuật vương triều, đình, đền, chùa truyền thống, mãi mãi đậm
sâu trong tiềm thức nhân dân.
Thăng Long nơi Rồng vàng xuất hiện. Hình tượng con Rồng Lý sáng tạo còn
là bảo lưu của con rồng dân gian vốn có lâu đời của dân tộc. Nhà Lý đã duy trì gìn
giữ những biểu tượng của Rồng truyền thống, và đưa lại ý nghĩa mới của vương
quyền. Hình tượng Rồng thời Lý trở thành biểu tượng cao quý - quyền uy của
Vương quyền và linh thiêng của Thần quyền (với đạo Phật là Quốc giáo).
Hình tượng Rồng chỉ thực sự phát triển từ triều Lý (thế kỷ XI-XII), mở đầu
cho nền văn minh Đại Việt sau ngàn năm Bắc thuộc. Đây là thời kỳ đạo phật được
phát triển mạnh, tinh thần tự cường dân tộc luôn được đề cao, nhiều công trình văn
hoá nghệ thuật được xây dựng, nghệ thuật trang trí hoa văn cũng phong phú đa
dạng. Hình tượng Rồng mang tính linh thiêng, cao quý. Đường nét mềm mại, tinh
tế, bố cục hoàn chỉnh nhất quán, mang rõ phong cách.
Hình tượng Rồng trong Tứ Linh (Long- Ly - Quy - Phượng) là đề tài quan
trọng của Mỹ thuật truyền thống. Rồng còn là hình tượng độc lập, được thể hiện ở
Điêu khắc (Tượng và Phù điêu), trên chất liệu (gỗ, đá). Hoặc Rồng là Hoa văn, họa
3

tiết được thể hiện ở trang trí (trên chất liệu Giấy, Lụa). Nó ứng dụng trong các Hợp
thể nghệ thuật: Kiến trúc - Điêu khắc và trang trí thời Lý. Rồng là hình tượng nghệ
thuật được đặt ở những vị trí quan trọng trong các kiến trúc Hoàng thành, trang trí
trên các cột (gỗ hay đồng) trong kiến trúc Hoàng cung. Hình Rồng thể hiện trên
trang phục (Hoàng bào), trên vương miện, cân đai, của vua, hay trong các Chiếu
chỉ, Sắc phong... biểu thị uy quyền của vương triều.
Hình tượng rồng trong các ngôi Chùa Phật (Đạo Phật là Quốc giáo), luôn đi
liền với vật tế lễ, thờ tự. Hình Rồng trên các Hoành phi, Cửa võng, Long đình, Kiệu
, Ngai, trong các Đồ thờ, đồ tế -lễ. Hình tượng rồng trong: Đền, Miếu (hoặc ở Đình
từ thế kỷ 16 về sau) thờ những thánh, thần có công với dân. Hình Rồng trên Văn

bia đá: Rồng chầu Nhật, Nguyệt (mặt trời, mặt Trăng) chầu lá đề nhà Phật, trên cột
đá. Hình Rồng trang trí trên binh khí, trên án thư, hương án, vòm trần, tán lọng...
Dù là hình tượng Rồng độc lập hay phối hợp với các mô típ hoa văn, trang trí,
chạm khắc thì con Rồng trong nghệ thuật thời Lý có đặc trưng riêng với một phong
cách và hình dáng uốn lượn độc đáo.
Cái đẹp của Hình tượng Rồng thể hiện trên các loại hiện vật rất phong phú. Về
Hình, khối, Hình dáng Rồng Lý: phần lớn trong chạm khắc không quá sâu (tức là
khối không làm nổi cao), mà chủ yếu chú ý nhiều đến hình dáng, mang nhiều chất
hoạ. Do vậy khi in rập giấy dó lên các chạm khắc thực hiện được tương đối thuận
lợi. Bố cục Hình Rồng Lý: được quy vào trong các loại hình học. Chẳng hạn: Bố
cục trong hình Chữ nhật: như các bức chạm đá “Hình Rồng chầu lá đề, đăng đối hai
bên là hình các Tiên nữ, nhạc công múa hát” (đế kê chân cột chùa Phật Tích- năm
1057). Các “Hình Rồng chầu lá Đề”, “ hình rồng trên bệ” (tượng Phật, chùa Phật
Tích - năm 1066, xã Phật Tích-Tiên Sơn-Bắc Ninh). “Hình rồng trên vách đố” bằng
đá (Tháp Chương Sơn - năm 1117), hoặc “Hình rồng trên đồ đất nung “ phát hiện ở
khu vực thành Thăng Long. Hình Rồng trong bố cục hình tròn: như chạm đá “Hình
4

Rồng và hoa dây” (Tháp Chương Sơn - năm 1118, Yên Lợi- ý Yên- Nam Định).
Hình Rồng trong bố cục hình bán nguyệt: “Các hình Rồng chầu”, (chạm đá - năm
1118, trong trán bia Chùa Long Đội - Đọi Sơn -Duy Tiên - Hà Nam). Hình Rồng
trong bố cục hình lá Đề: “Hình Rồng chầu dâng Ngọc”, Gốm (phát hiện ở khu vực
thành Thăng Long Hà Nội). Hình Rồng trong bố cục hình cánh hoa Sen: “Hình
Rồng trong các cánh Liên hoa” bệ tượng (Tháp Chương Sơn - năm 1117), hoặc
“Hình rồng trên các cánh hoa Sen” chạm ở mặt trụ đá kê chân cột ở một số công
trình kiến trúc Lý mà Khảo cổ học phát hiện được ở khu Hoàng Thành Thăng
Long...
Nhận diện hình tượng, đặc điểm phong cách tạo hình Rồng thời Lý: trên cơ sở
so sánh, đối chiếu với hình Rồng (các thời tiếp sau: Trần, Lê, Mạc, Nguyễn). Ta

thấy Rồng ở mỗi vương triều đều có đặc điểm và phong cách riêng.
Vương triều Lý kéo dài suốt 216 năm, Hình tượng Rồng có một phong cách
độc đáo, và có kiểu dáng nhất quán, được quy định thống nhất mang tính vương
triều. Điều này được nghệ nhân tuân thủ triệt để. Trên thực tế khảo sát chúng tôi
thấy rằng: bất kỳ hình rồng ở di tích nào thời Lý, dù ở cách xa nhau, dù làm vào
những năm khác nhau, dù là kiến trúc vương quyền hay kiến trúc thần quyền thì về
cơ bản hình tượng con Rồng Lý vẫn đều có kiểu dáng và cấu trúc rất thống nhất.

5

Đặc

điểm

Hình

tượng

Rồng

thời

Lý:

mình Rồng kéo dài, thể hiện theo lối nhìn nghiêng. Đầu Rồng với cổ ngước
chếch lên cao. Trên lông mày Rồng kết xoắn giống hình số 3 ngửa (theo nhãn vòng
Kim cô nhà Phật), và trước trán kết xoắn hình chữ S đứng (ký hiệu tựa hình chớp
của hiện tượng tự nhiên ý niệm cổ về uy lực của Phật Pháp Lôi - Pháp Điện (sấm
chớp). Sau gáy rồng, từ hai bên dưới mang tai có dải bờm nhiều tua kết vào nhau

bay thả uốn lượn vút nhọn ra phía sau. Chòm râu dưới cằm rồng cũng kết xoắn uốn
lượn tương tự phía dưới, nhưng nhỏ và ngắn hơn. Quanh đầu có những viên ngọc
lơ lửng và thường có mây quấn. Miệng rồng há rộng để hứng viên ngọc báu. Trên
hai hàm có răng nhọn, hai nanh cuối hàm kéo dài uốn cong qua mép liền sát mũi.
Mũi Rồng cũng được kéo dài thành một mào hình vòi. Mào của Rồng cũng hơi uốn
khúc và chung quanh có viền kiểu ngọn lửa. Môi dưới của Rồng ngắn, còn lưỡi lại
rất dài. Từ hàm dưới lưỡi vươn ra uốn lượn sóng để đỡ lấy viên ngọc đang lơ lửng.
Mắt Rồng to tròn và hơi lồi. Cũng còn có loại đầu Rồng nữa là: cổ uốn xuống gấp

6

khúc rồi ngược lên (trông cổ Rồng như rụt lại) - như đôi rồng chạm trên mặt trán
bia Bia chùa Báo Ân (Thanh Hoá). Hoặc Rồng đàn nối đuôi nhau trên thành bậc
chùa Sùng Nghiêm Diên Khánh
Thân Rồng cuộn khúc uốn lượn thuôn dần đến cuối đuôi. Đặc biệt là mình
Rồng tròn, trơn, uốn lượn mềm mại hình sin, các khúc uốn lượn phình to nhưng co
lại gần nhau, đều đặn, thon dần về đuôi. Hình dạng khúc cong giống như hình túi
đáy phình, miệng co (đặt xuôi, đặt ngược liên tục một mạch) thu dần về đuôi. Mình
Rồng để trơn (hoặc có vẩy trên thân những con rồng to). Mặc dầu trên lưng có vẩy
cứng nhưng không nổi cao, nên trông vẫn thon mượt. Rồng Lý có 4 chân, mỗi chân
đều có khuỷ, và có 3 móng ngón. Toàn bộ thân hình Rồng khái quát quy hình Rồng
nằm gọn vào đúng một nửa hình lá Đề, nở về phần đầu, thu nhọn về phía đuôi.
Hình tượng Rồng thường được kết hợp với mây (dạng mây bay, mây tụ, mây
hình lửa, mây hình hoa...). Hình tượng Rồng để trang trí đăng đối (Rồng chầu),
Rồng còn được kết hợp với hình tượng Phượng, thành cặp Long- Phượng. Hoặc
Rồng trong bộ Tứ linh: “Long, Ly, Quy, Phượng”, hoặc kết hợp với hoa dây, hoa
Sen... Hình tượng Rồng triều Lý (1010-1125) được chọn trang trí ở nơi trang trọng
trên các công trình của Vương triều, và các Chùa thời Lý (như các chùa: Dạm, Phật
Tích, Long Đội, Chương Sơn, Quỳnh Lâm, Báo Ân, Linh Xứng, Sùng Nghiêm,

Diên Thánh ... Nội dung tư tưởng thẩm mỹ hình tượng Rồng thể hiện rõ tính cách
quyền quý. Đó là những nét tiêu biểu của hình tượng Rồng thời Lý. Song bên cạnh
tính cách dân gian cũng đã dần bộc lộ tâm lý cộng đồng, tâm hồn khoáng đạt thanh
cao, hàm chứa trí tuệ uyên bác. Tư tưởng đó sau này phát triển trên các chạm khắc
Đình làng. Những hình tượng Rồng không chỉ là mô típ trang trí mà còn là hình
tượng sinh động. Các hình tượng Rồng thời sau một mặt kế thừa thời trước, mặt
khác muốn tìm ra những cái riêng về phong cách của vương triều mình.

7

Hình tượng Rồng thời Lý được nghệ nhân sáng tạo ứng dụng trong các Hợp
thể nghệ thuật: Kiến trúc - Điêu khắc - Trang trí. Hình tượng Rồng có trong các di
tích lịch sử văn hoá truyền thống. Nó không chỉ không những mang tính ứng dụng
mà còn có giá trị về nghệ thuật tạo hình. Tuy nhiên, các di vật thời Lý, còn lại đến
ngày nay không nhiều, những ngược tìm quá khứ trên những di tích còn lại, và cố
gắng của Khảo cổ học tìm bới: Hình rồng phát hiện ở Hoàng thành Thăng Long
(2000-2005) cung cấp thêm cho ta một số hiện vật gốm có hình Rồng thời đầu lập
đô Thăng Long của nhà Lý.
C: phần kết luận :
Dù chỉ là con vật tưởng tượng song con rồng đã len lỏi vào cuộc sống của
người Việt Nam,nó đi sâu vào tâm thức người Việt như một biểu tượng đẹp đẽ và
đẹp hơn cả là biểu tương con rồng bay lên thời nhà Lý..nó mang theo mong ước
của người dân Việt bao đời nay một mong ước cho đất nước ta cường thịnh luôn đi
lên…hi vọng trong tương lai sau này việt nam sẽ là con rồng của Đông Nam Á.

8

9

10