Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử kết thúc vào ngày thắng năm não

Ðây là quyết tâm chiến lược rất sáng suốt và chính xác của Ðảng, mà tập trung là Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương, chứng tỏ Ðảng ta hết sức nhạy bén, sáng suốt, chủ động điều khiển cuộc chiến tranh kết thúc đúng với ý định của mình.

Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử kết thúc vào ngày thắng năm não
 

Bộ Chính trị họp quyết định chiến dịch tấn công giải phóng Sài Gòn.

Ảnh: Tư liệu

Thực hiện quyết tâm của Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương, hậu phương lớn miền Bắc đã huy động toàn bộ lực lượng và phương tiện chuyển vào miền Nam 230.000 tấn vật chất, kỹ thuật; riêng trong 11 ngày chuẩn bị nước rút cho Chiến dịch Hồ Chí Minh, miền Bắc đã đưa vào miền Đông Nam Bộ 51.000 tấn vật chất các loại. Ở miền Nam, hậu cần miền đã huy động 63.324 dân công hỏa tuyến vận chuyển đạn, gạo, thực phẩm vào các kho dự trữ chiến dịch trên năm hướng. Cùng với việc vận chuyển vật chất, kỹ thuật quân sự, các binh đoàn chiến lược binh chủng hợp thành của QÐND Việt Nam vừa đánh địch, mở đường, vừa hành quân thần tốc, táo bạo vào mặt trận Sài Gòn trên cả năm hướng bắc, tây - bắc, đông, đông - nam, tây - nam. Mỗi hướng lực lượng chủ lực ta có từ 30.000 đến 50.000 quân và hàng nghìn xe tăng, thiết giáp, xe cơ giới khác.

Ngày 8/4, Bộ Chỉ huy chiến dịch giải phóng Sài Gòn - Chiến dịch Hồ Chí Minh được thành lập, do Ðại tướng Văn Tiến Dũng làm Tư lệnh, đồng chí Phạm Hùng làm Chính ủy; các đồng chí Trần Văn Trà, Lê Ðức Anh, Lê Trọng Tấn, Ðinh Ðức Thiện, làm Phó Tư lệnh; đồng chí Lê Ngọc Hiền, quyền Tham mưu trưởng chiến dịch.

Tình hình diễn biến mau lẹ từng ngày, đòi hỏi lực lượng tham gia chiến dịch hết sức khẩn trương. Ðể giành thắng lợi cho trận quyết chiến cuối cùng này và để nhanh chóng đè bẹp sự kháng cự của quân ngụy, giữ cho thành phố không bị đổ nát, Bộ Tư lệnh chiến dịch họp bàn và đề ra cách đánh chiến dịch là: Dùng một bộ phận của từng hướng bao vây, chia cắt, ngăn chặn không cho lực lượng địch co cụm về Sài Gòn, diệt và làm tan rã các sư đoàn chủ lực địch ở vòng ngoài; đồng thời dùng lực lượng mạnh nhanh chóng thọc sâu đánh chiếm bàn đạp vùng ven để mở đường cho các binh đoàn chiến lược đột kích thẳng vào các mục tiêu then chốt đã lựa chọn trong nội đô.

Trong lúc Bộ Chỉ huy chiến dịch bàn cách đánh, thì phi công Nguyễn Thành Trung lái chiếc F5E ném bom dinh Ðộc lập, rồi bay ra vùng giải phóng an toàn. Trận ném bom dinh Ðộc lập đã làm cho địch hoang mang, nội bộ nghi kỵ lẫn nhau, góp phần thúc đẩy nhanh quá trình suy sụp của chính quyền Sài Gòn, tạo thuận lợi cho các binh đoàn chủ lực của ta triển khai thế trận.

Ngày 9/4, Quân đoàn 4 tiến công tuyến phòng thủ của địch ở Xuân Lộc. Ngày 14/4, ở hướng đông, Quân đoàn 2 nổ súng tiến công tuyến phòng thủ Phan Rang. Cũng trong ngày này, Bộ Chính trị quyết định đặt tên cho chiến dịch giải phóng Sài Gòn là Chiến dịch Hồ Chí Minh. Ngày 21/4, cuộc tiến công mạnh mẽ của Quân đoàn 4 và Trung đoàn 95B đã đè bẹp mọi sức kháng cự của địch, tiêu diệt và làm tan rã sư đoàn 18 ngụy, giải phóng Xuân Lộc và toàn tỉnh Long Khánh. Cánh cửa thép hướng đông tiến vào Sài Gòn đã mở. Thấy không thể cứu vãn được chính quyền Sài Gòn, Tổng thống Mỹ G.Pho ra lệnh di tản người Mỹ khỏi Sài Gòn. Ngày 21/4, Nguyễn Văn Thiệu từ chức, Trần Văn Hương lên thay thề sẽ cùng “tử thủ” với binh sĩ.

Ngày 22/4, đồng chí Lê Duẩn, Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Ðảng theo sát cuộc tiến công đã điện chỉ đạo Bộ Tư lệnh chiến dịch là: “Thời cơ quân sự và chính trị để mở cuộc tổng tiến công vào Sài Gòn đã chín muồi. Ta cần tranh thủ từng ngày, kịp thời phát động tiến công địch trên các hướng, không thể để chậm. Nếu để chậm thì không có lợi về chính trị, quân sự. Kịp thời hành động lúc này là bảo đảm chắc chắn nhất để giành thắng lợi hoàn toàn...”. Ngày 23/4, Quân đoàn 2 mở cuộc tiến công giải phóng thị xã Hàm Tân và toàn tỉnh Bình Tuy, áp sát lực lượng vào Biên Hòa. Theo kế hoạch của Bộ Chỉ huy chiến dịch, ngày 27/4, các hướng sẽ đồng loạt tiến công địch, chiếm bàn đạp ven đô. Tuy nhiên, lúc 17 giờ ngày 26/4, Quân đoàn 2 đã nổ súng tiến công tuyến phòng thủ của địch ở hướng đông và đông - nam, đánh chiếm Trường huấn luyện thiết giáp; căn cứ Nước Trong, Chi khu Long Thành, vượt đường số 15, giải phóng Phước Thường, bao vây Long Tân, đánh chiếm chi khu Ðức Thạnh. Quân đoàn 4 đánh chiếm chi khu Trảng Bom, diệt và làm tan rã lữ dù 3, lữ thủy quân lục chiến 468... Chiến dịch Hồ Chí Minh mở màn! Quân ta trên các hướng bắc, tây-bắc, đông và đông-nam, tây và tây-nam đã kết hợp tiến công với nổi dậy, tiêu diệt và làm tan rã các sư đoàn địch phòng thủ vòng ngoài, chiếm bàn đạp vùng ven, sẵn sàng tổng công kích vào nội đô.

Ngày 28/4, không quân ta dùng máy bay A37 lấy được của Mỹ ném bom sân bay Tân Sơn Nhất, Tổng thống Mỹ buộc phải hủy bỏ kế hoạch di tản bằng máy bay có cánh cố định, chuyển sang thực hiện chiến dịch di tản "người liều mạng" bằng máy bay lên thẳng.

Phối hợp cuộc tiến công của các binh đoàn chủ lực, 26.000 cán bộ, chiến sĩ đặc công, biệt động, an ninh vũ trang, tự vệ và cơ sở cách mạng trong nội thành áp sát các mục tiêu địch, đánh chiếm và giữ các đầu mối giao thông trên năm hướng tiến vào nội đô. Thành ủy Sài Gòn - Gia Ðịnh cử 7.000 cán bộ cơ sở xuống các xã, phường, quận, huyện tổ chức cho quần chúng nổi dậy và tiếp tế cơm nước, dẫn đường cho bộ đội tiến công. Do chuẩn bị chu đáo, cho nên trong quá trình cuộc tiến công, nhân dân và lực lượng vũ trang Sài Gòn - Gia Ðịnh, các tỉnh vùng ven đã nổi dậy chiếm các công sở, nhà máy, giữ trật tự - an ninh, truy bắt tàn binh địch còn lẩn trốn, tiếp tế cơm nước và dẫn đường cho bộ đội phát triển tiến công. Sự phối hợp nhịp nhàng của nhân dân nổi dậy và làm công tác binh vận đã góp phần rất quan trọng hỗ trợ tích cực cho các binh đoàn chủ lực phát triển tiến công nhanh vào nội đô.

5 giờ 30 phút ngày 30/4, quân ta từ bốn hướng đồng loạt đánh vào năm mục tiêu đã lựa chọn: Bộ tổng Tham mưu ngụy, sân bay Tân Sơn Nhất, dinh Ðộc lập, Tổng nha cảnh sát đô thành, Biệt khu thủ đô.

Hướng tây và tây-nam: Sư đoàn 9, đoàn 232 đánh chiếm khu Nhà Bè, cầu Nhị Thiên Ðường, cầu Chữ Y, Bộ tư lệnh cảnh sát quốc gia, Bộ tư lệnh lục quân, chiếm khu Tân Tạo và khu ra-đa Phú Lâm...; Sư đoàn 5 và các trung đoàn 16, 24, 88 độc lập đánh diệt, làm tan rã sư đoàn 22, giải phóng thị xã Tân An, chi khu Thủ Thừa, chiếm cầu Bình Ðiền, An Lạc, phát triển cùng nhân dân giải phóng quận 5, 6, phối hợp với Sư đoàn 9 chiếm Bộ tư lệnh cảnh sát quốc gia...

Bộ đội đặc công phối hợp nhân dân đánh địch, giải phóng quận Tân Bình, quận Bình Chánh và đặc khu rừng Sác.

Hướng tây-bắc: Quân đoàn 3, sau khi đánh chiếm căn cứ Ðồng Dù, Trảng Bàng, diệt sư đoàn 25 ngụy, tiến công chiếm sân bay Tân Sơn Nhất, Bộ tư lệnh sư đoàn 5 không quân, Bộ tư lệnh thiết giáp, Bộ tư lệnh quân dù và phối hợp Quân đoàn 1 ở cánh bắc đánh chiếm Bộ tổng tham mưu ngụy.

Hướng bắc: Quân đoàn 1 diệt căn cứ Phú Lợi, phát triển tiến công diệt và làm tan rã sư đoàn 5 ngụy, giải phóng tỉnh Bình Dương. Binh đoàn thọc sâu quân đoàn 1 diệt lữ đoàn 3 kỵ binh tại cầu Bình Triệu, qua ngã tư Phú Nhuận, theo đường Võ Tánh tiến công vào cổng số 2 và 3 phối hợp với quân đoàn 3 chiếm Bộ tổng tham mưu.

Hướng đông: 7 giờ, Quân đoàn 4 tiến công chiếm Bộ tư lệnh quân đoàn 3 ngụy, Bộ tư lệnh sư đoàn 3 không quân, sân bay Biên Hòa, đánh tan địch ngăn chặn ở Hố Nai, sau đó tiến công sang quận Thủ Ðức, phát triển vào nội đô đánh chiếm bộ chỉ huy thủy quân lục chiến, căn cứ hải quân, Bộ quốc phòng, cảng Bạch Ðằng, Ðài phát thanh...

Sư đoàn 3, Quân khu 5 giải phóng Vũng Tàu, phát triển tiến công chiếm Cần Giờ.

Quân đoàn 2 tổ chức vượt sông Sài Gòn tiến công địch, giải phóng quận 9 và Thủ Thiêm. Binh đoàn thọc sâu Quân đoàn 2 do Sư đoàn 304 và Lữ đoàn xe tăng 203 đảm nhiệm đã vượt cầu xa lộ Ðồng Nai, đánh tan quân địch ngăn chặn, thần tốc tiến về dinh Ðộc lập. 11 giờ 30 phút ngày 30/4/1975, cờ chiến thắng tung bay trên dinh Ðộc lập, báo tin Chiến dịch Hồ Chí Minh đã toàn thắng. Tổng thống Dương Văn Minh và nội các Vũ Văn Mẫu đầu hàng cách mạng không điều kiện.

Cùng với cuộc tiến công giải phóng Sài Gòn - Gia Ðịnh, một bộ phận chủ lực ta nhanh chóng tiến công địch, giải phóng các đảo ven biển miền trung và quần đảo Trường Sa. Nhân dân và lực lượng vũ trang các tỉnh miền đông Nam Bộ và đồng bằng sông Cửu Long tiến công và nổi dậy, tiêu diệt và làm tan rã quân đoàn 4 ngụy, giải phóng các tỉnh Long An, Bình Dương, Tây Ninh, Cần Thơ, Trà Vinh, Sóc Trăng, Rạch Giá, Bạc Liêu, Phú Quốc (30/4). Ngày 1/5 quân và dân ta tiếp tục giải phóng các tỉnh: Mỹ Tho, Gò Công, Vĩnh Long, Chương Thiện, Cà Mau, Long Xuyên, Kiến Tường, Sa Ðéc, Châu Ðốc, Côn Ðảo.

Như vậy, đến ngày 1/5/1975, toàn bộ các tỉnh, thành phố trên đất liền, các đảo và quần đảo ở Biển Ðông trên toàn miền nam được hoàn toàn giải phóng.

Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta mà đỉnh cao là Ðại thắng mùa Xuân năm 1975 với trận quyết chiến chiến lược cuối cùng Chiến dịch Hồ Chí Minh, đã đánh dấu một bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử dân tộc ta, kết thúc vẻ vang quá trình 30 năm chiến tranh Cách mạng giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc dưới sự lãnh đạo đúng đắn, tài tình của Ðảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và lãnh đạo. Với thắng lợi này, lần đầu tiên sau 117 năm, trên đất nước ta không còn bóng một tên xâm lược. Nâng lên tầm cao truyền thống yêu nước, bất khuất, kiên cường, ý thức tự lập, tự cường, tự hào dân tộc, thể hiện trí thông minh, sự sáng tạo của nhân dân ta. Ðưa dân tộc ta bước vào một kỷ nguyên mới, thời đại mới đầy hứa hẹn, kỷ nguyên và thời đại độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.

Thắng lợi của sự kiện lịch sử trọng đại của đất nước, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 mà chiến dịch quyết chiến chiến lược mang tên Chủ tịch Hồ Chí Minh là đỉnh cao, trước hết là thắng lợi của đường lối Chính trị, đường lối quân sự và đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, đúng đắn và sáng tạo của Ðảng ta; là thắng lợi của tinh thần chiến đấu anh dũng phi thường, chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ Việt Nam được phát triển đến đỉnh cao của toàn Ðảng, toàn dân và các lực lượng vũ trang nhân dân ta trong cả nước; là thắng lợi của chế độ xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc đã phát huy cao độ tính hơn hẳn của nó trong chiến tranh giải phóng; là thắng lợi của tình đoàn kết chiến đấu keo sơn, phối hợp chặt chẽ của nhân dân và quân đội hai nước Lào, Cam-pu-chia, sự đồng tình ủng hộ và giúp đỡ quý báu của các nước xã hội chủ nghĩa, của nhân dân yêu chuộng hòa bình và công lý trên toàn thế giới. Ðó còn là thắng lợi và thành công tiêu biểu, phát triển đến đỉnh cao của nền khoa học và nghệ thuật quân sự Việt Nam trong trận quyết chiến chiến lược lịch sử - Chiến dịch Hồ Chí Minh, góp phần làm phong phú thêm kho tàng lý luận quân sự của chủ nghĩa Mác - Lê-nin.

Chiến dịch Hồ Chí Minh là đỉnh cao của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975. Ðây là chiến dịch tiến công lớn chưa từng có trên chiến trường nước ta, vượt hẳn tất cả các chiến dịch lớn trước đó cả về quy mô lực lượng, cường độ và nhịp độ tiến công, nội dung tác chiến hiệp đồng quân binh chủng và mức độ hoàn thành triệt để nhiệm vụ chiến lược cũng như mục đích chính trị của chiến tranh cách mạng Việt Nam.

Trong một thời gian rất ngắn ta đã tập trung vào chiến dịch một lực lượng quân sự lớn chưa từng có trong điều kiện chiến trường nước ta, hình thành ưu thế áp đảo, tiêu diệt và làm tan rã nhanh chóng tập đoàn phòng ngự lớn có chuẩn bị trước của địch tại trung tâm đầu não của chúng. Ta đã sử dụng năm quân đoàn chủ lực tinh nhuệ, chưa kể các lực lượng dự bị chiến lược và lực lượng tại chỗ của Nam Bộ; cùng với hàng chục sư đoàn, lữ đoàn, trung đoàn binh chủng, quân chủng với nhiều vũ khí, phương tiện kỹ thuật hiện đại với khoảng 60 nghìn tấn vật chất kỹ thuật - hậu cần. Quy mô sử dụng lực lượng trong Chiến dịch Hồ Chí Minh không những lớn hơn hẳn các chiến dịch Tây Nguyên, Huế - Ðà Nẵng trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975, mà còn lớn nhất trong lịch sử chiến tranh cách mạng của ta. Ðây không chỉ là khoa học về tổ chức mà còn là bước phát triển cao về nghệ thuật tạo ưu thế tuyệt đối hơn địch trên không gian và thời gian quyết định.

Không chỉ tập trung lực lượng lớn, tạo ưu thế tuyệt đối so với địch là yếu tố cơ bản đầu tiên quyết định thắng lợi của chiến dịch, mà còn trong thời gian rất ngắn, ta đã hình thành được thế trận bao vây lớn, chia cắt hiểm, hãm cả tập đoàn phòng ngự của địch vào tình thế bị bao vây chặt trên tất cả các hướng: đông, bắc, tây bắc, tây nam, nam; với thế trận tiến công áp đảo này, ta đã tạo được một trong những điều kiện cơ bản để thắng nhanh, đẩy địch tan vỡ rất nhanh. Ðây là một thế trận rất hiểm dựa trên cơ sở lực lượng rất mạnh của toàn chiến dịch, với cả lực lượng quân sự và chính trị, lực lượng chủ lực và lực lượng địa phương, trong đó nổi lên là vai trò nòng cốt quyết định đi trước một bước của các binh đoàn cơ động chiến lược. Ðó là thế trận tiến công của chiến tranh nhân dân Việt Nam phát triển lên đỉnh cao.

Trong một thời gian rất ngắn, ta đã kết hợp chặt chẽ việc tập trung lực lượng ưu thế tiêu diệt các sư đoàn chủ lực của địch, cơ động ở tuyến phòng thủ vòng ngoài và thọc sâu bằng binh đoàn đột kích lớn cơ giới hóa và trung tâm thành phố đánh chiếm ngay năm mục tiêu quan trọng then chốt nhất đã được lựa chọn: Bộ Tổng tham mưu ngụy, dinh Ðộc Lập, Biệt khu Thủ đô, Tổng nha cảnh sát, sân bay Tân Sơn Nhất. Ðây là sự sáng tạo trong vận dụng cách đánh chiến dịch của ta, khác hoàn toàn với mọi cách đánh chiến dịch tiến công trước đó. Ta đã kết hợp ngoài đánh vào, trong đánh ra, kết hợp quả đấm mạnh của các binh đoàn chủ lực với đánh nhỏ nhưng hiểm của các lực lượng địa phương, làm cho địch bị phân tán, chia cắt, tổ chức phòng ngự của chúng mất hiệu lực và nhanh chóng tan vỡ. Với cách đánh này chẳng những để dứt điểm nhanh gọn và chắc thắng trong điều kiện hai bên đều có binh lực, hỏa lực mạnh, mà thành phố ít bị tàn phá nhất, đồng bào ít bị thiệt hại nhất về tính mạng, tài sản và cuộc sống thành phố mau trở lại bình thường.

Chiến dịch đã thực hiện hiệp đồng chặt chẽ giữa nhiều lực lượng, cả binh chủng và quân chủng hiện đại trên địa bàn rộng lớn. Ðây là sự phối hợp ăn ý giữa các binh đoàn chủ lực với lực lượng địa phương, giữa bốn hướng tiến công, giữa các binh chủng của một tập đoàn chiến lược binh chủng hợp thành. Ðó là sự hiệp đồng giữa đánh địch trên tuyến phòng thủ từ xa và đột phá tuyến phòng ngự cơ bản ở ven đô của địch với đánh địch bằng binh đoàn thọc sâu vào trung tâm thành phố; giữa cắt đường bộ với ngăn đường sông, khống chế đường không; giữa tiêu diệt, đánh tan bộ binh thiết giáp với chế áp trận địa pháo binh và bắn phá, ném bom làm tê liệt sân bay địch. Thực hiện được sự hiệp đồng tác chiến như vậy là một bước tiến mới về nghệ thuật chiến dịch của ta trong chiến tranh cách mạng.

Với chiến dịch tiến công quyết chiến chiến lược cuối cùng, ta đã kết hợp trên quy mô lớn ba mũi giáp công, tiến công rất mạnh về quân sự với nổi dậy của quần chúng, lấy tiến công quân sự làm chính, đòn tiêu diệt lớn của khối chủ lực giữ vai trò quyết định, đồng thời phát huy sức mạnh tổng hợp lớn nhất cả quân sự và chính trị, tiến công và nổi dậy để giành toàn thắng trong thời gian ngắn nhất. Ðây là sự kết hợp đã đạt đến trình độ nghệ thuật phát triển cao trong chiến tranh giải phóng, cả quy luật chiến tranh và quy luật khởi nghĩa đều phát huy tác dụng và luôn tác động lẫn nhau, trong đó quy luật chiến tranh ngày càng giữ địa vị chi phối và quyết định.

Chiến dịch giải phóng Sài Gòn, trận quyết chiến chiến lược cuối cùng của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975, kết thúc cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta đã được Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Ðảng Cộng sản Việt Nam quyết định vào ngày 14/4/1975 lấy tên là Chiến dịch Hồ Chí Minh. Ðó chính là vì đại thắng lợi của dân tộc, một chiến công vĩ đại dâng lên Bác Hồ, đồng thời là một chiến công hiển hách dưới ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, ngọn cờ đã đưa nhân dân ta đến những chiến công kỳ diệu trong kháng chiến cứu nước và những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trong công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay.